“Lương cơ sở thời điểm bắt đầu cải cách, năm  1985, tương đương 60kg gạo/tháng th́ mức lương cơ sở mới đưa ra gần đây  cũng vẫn chỉ tương đương mức 65kg” - PGS.TS Ngô Quang Minh (Học viện  chính trị quốc gia HCM) so sánh…
    Dự án “Hỗ trợ xây dựng tầm nh́n của Chính phủ và lộ tŕnh thực hiện  đến năm 2020” do Chính phủ giao Văn pḥng Chính phủ “đặt hàng” Viện  nghiên cứu kinh tế TƯ (CIEM), tư vấn quốc tế SKL International/PAI (Thụy  Điển) thực hiện đă ra được bản dự thảo thứ 2. Ngày 3/7, CIEM tổ chức  hội thảo để đánh giá khái quát về bản dự thảo đề án với nội dung nghe  phản biện cho báo cáo của tư vấn quốc tế. 
 PGS.TS Ngô Quang Minh (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) là  một trong 2 chuyên gia được mời phản biện dự thảo đề án, nhận định dự án  “hỗ trợ xây dưng tầm nh́n của Chính phủ” vẫn thiếu vắng những vấn đề cơ  bản, căn cốt nhất của Việt Nam hiện tại. 
 Điểm phê đầu tiên ông Minh nhắc tới là gợi ư mô h́nh Hội đồng Bộ  trưởng thay cho Chính phủ. Dẫn lại bài học kinh nghiệm về một thời kỳ  dài tổ chức bộ máy theo mô h́nh này và đă phải từ bỏ, ông Minh cho rằng  việc này chưa được phân tích, lư giải thỏa đáng. 
 Người phản biện cho rằng cần tập trung vào cơ chế xây dựng chính  sách, đánh giá việc thực hiện cũng như chế tài xử lư khi chính sách bị  vi phạm. 
 T́nh trạng các cơ quan vẫn đang làm chính sách kiểu “trên trời” vừa  qua được ông Minh điểm lại bằng các ví dụ sinh động như quy định lễ tang  cán bộ công chức không dùng quá 7 ṿng hoa, không lắp cửa kính trên nắp  quan tài, đám cưới không quá 300 mâm… Những chính sách xây dựng kiểu  này, TS Minh đánh giá là “chết ngay từ khi chuẩn bị ban hành”, nếu không  người dân cũng thờ ơ, không quan tâm. 
 Điều mắc mớ nhất là vô số chính sách chết yểu nhưng không ai chịu  trách nhiệm, không ai bị xử lư v́ kiểu làm chính sách viển vông như vậy.  
 Mong muốn ông Minh đưa ra là một Chính phủ gọn nhẹ, hiệu quả, hiệu  lực, điều hành bài bản theo nghĩa kiến tạo để đất nước đi lên chứ không  phải một Chính phủ xoay xở để đối phó với những t́nh huống, sự vụ liên  tục hiện nay. 
 Trong vai tṛ người phản biện thứ 2, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế  thương mại Nguyễn Văn Nam đặt vấn đề, xây dựng tầm nh́n, tư duy đổi mới  trong vấn đề cải cách hành chính, công vụ cần gắn với thực tế thể chế  chính trị. “Chỉ nhăm nhăm cải cách thủ tục tức là chỉ hướng vào dọn phần  ngọn mà không làm từ gốc, vừa kém hiệu quả vừa làm phát sinh thêm chi  phí rất lớn cho xă hội” – ông Nam cảnh báo. 
 Ủng hộ xu hướng tăng thẩm quyền cũng như chi tiết hóa trách nhiệm của  người đứng đầu cơ quan điều hành – Thủ tướng Chính phủ nhưng ông Nam  cũng can gián ư tưởng xây dựng Văn pḥng Thủ tướng thành một cơ quan  mạnh trong Chính phủ. Người phản biện đặt câu hỏi, khi đó, Văn pḥng  Chính phủ sẽ mâu thuẫn với Văn pḥng Thủ tướng, càng không có lợi. 
 Lương cơ sở hiện tại tương đương năm… 1985
 Đi vào một cấu phần cụ thể của đề án là xây dựng nguồn nhân lực,  nguyên Việ trưởng Viện Kinh tế thương mại khẳng định, các cơ quan nhà  nước đều nhận thức được những việc phải làm để có nguồn nhân lực tốt.  Tuy nhiên, cái khó ở Việt Nam là nhận thức rơ ràng vậy nhưng vẫn không  làm được. Ông Nam dẫn chứng bản thân, trong quá tŕnh công tác hơn 40  năm có tới 20 năm đi học. Học hành, đào tạo rất nhiều nhưng những kiến  thức học được lại rất ít gắn với thực tiễn công việc. 
 Theo ông Nam, đó là t́nh trạng chung của công chức Việt Nam khi được  bồi dưỡng về chính trị, nhận thức rất đầy đủ nhưng kiến thức hành nghề  lại thiếu. Cán bộ ở các cấp chính quyền, lư luận th́ nhuần nhuyễn nhưng  kỹ năng tiếp dân thế nào lại không được học, làm việc cấp trên giao như  nào cũng lúng túng. 
 “Có những cán bộ được đề bạt lên cấp rất cao nhưng chốt lại không biết làm việc ǵ cụ thể” – ông Nam nói.
  
 
 Thu nhập của cán bộ công chức hiện đến từ rất nhiều nguồn ngoài lương, khó có thể kiểm soát. 
 Đề cập đến việc xây dựng bản mô tả công việc đối các vị trí công  chức, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế thương mại kể chuyện nguyên Bộ  trưởng Thương mại Trương Đ́nh Tuyển trước đây đă sát sao, trực tiếp làm  việc với từng vụ, từng pḥng ban để lập bản mô tả công việc giao cho  từng cán bộ trong bộ. Kết quả, Bộ Thương mại khi đó lập được một tập hồ  sơ dày dặn về nội dung công việc nhưng thực tế cũng không giúp cải thiện  nhiều t́nh h́nh công chức “cắp ô”. 
 Khó khăn được chỉ thẳng là do khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành  động. Ông Nam quả quyết, Việt Nam không thiếu nhân tài để đảm nhiệm các  chức vụ, vấn đề là phải tạo được cơ chế sử dụng gắn với quy định pháp  luật rơ ràng. Ông Nam đề xuất chế độ giao việc bằng văn bản với chế tài  cụ thể về việc kiểm điểm công tác định kỳ và thay thế ngay khi không  hoàn thành nhiệm vụ. 
 Cách thức này là để chống tâm lư phổ biến của nhiều cán bộ là chỉ cần  phấn đấu để được ngồi vào vị trí, khi đă đạt được th́ có thể yên tâm  “tại vị suốt đời”. Việc kỷ luật cán bộ nếu có vi phạm hết sức khó khăn.  Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế thương mại dẫn chứng, có Bộ trưởng sau  khi rời nhiệm sở đă than, dù rất quyết liệt, cương quyết nhưng suốt  nhiệm kỳ vẫn không kỷ luật được cán bộ nào v́ quy tŕnh cán bộ phức tạp,  nhiều yếu tố chi phối. 
 Về vấn đề cải cách tiền lương của cán bộ công chức, ông Nam nhận xét,  từ cơ quan điều hành đến cơ quan lập pháp mới chỉ tính toán xem xét  trên mối quan hệ giữa lương và đời sống trong khi mối quan hệ cơ bản  nhất cần điều chỉnh là giữa lương và năng suất lao động. V́ việc này  chưa được chú trọng nên mới có t́nh trạng trong cơ quan nhà nước, có  những người cặm cụi làm việc suốt đời vẫn… chỉ vậy trong khi nhiều người  khác không làm việc ǵ cụ thể nhưng lại thăng tiến rất nhanh. 
 Bổ sung thêm những nhận định về bất cập của chính sách tiền lương,  PGS.TS Ngô Quang Minh hướng sang đồng nghiệp Nguyễn Văn Nam, hóm hỉnh:  “Chính chúng tôi nếu được hỏi có kiểm soát được thu nhập của ḿnh không,  mỗi tháng thu nhập bao nhiêu th́ cũng khó trả lời được. C̣n như quan  chức, nhiều Thứ trưởng vừa qua nói thẳng lương của họ cũng không đủ  sống, nói ǵ việc mua nhà, mua xe nhưng thực tế tất cả mọi người vẫn  sống, thậm chí nhiều người giàu có”. 
 Trở lại thời điểm cải cách tiền lương năm 1985, ông Minh cho biết,  lương cơ sở khi đó tương đương 60 kg gạo/tháng th́ mức lương cơ sở mới  công bố gần đây cũng vẫn chỉ tương đương mức 65 kg gạo/tháng (tính theo  giá thị trường). Nhưng rơ ràng, đời sống của mọi người lao động, cán bộ  công chức đều đă sung túc hơn nhiều. 
 “Cái Việt Nam cần bây giờ chính là cơ chế để kiểm soát được lương của  cán bộ công chức th́ đề án xây dựng Tầm nh́n của Chính phủ lại chưa đề  cập” – ông Minh nêu yêu cầu. 
 Ngoài ra, Việt Nam cũng cần một công cụ, giải pháp để thanh lọc, loại  bỏ được 30% công chức “cắp ô” vô tích sự (tương đương 840 ngh́n đến 1  triệu người như Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng chỉ rơ). 
 Chốt lại bài phản biện, ông Minh tỏ ư thất vọng với đề án v́ chưa thể  h́nh dung đến năm 2020 (thời hạn đề án nêu ra), có thể xây dựng một đội  ngũ cán bộ công chức thạo việc, năng động, sống ổn với công việc, đồng  lương của ḿnh hay vẫn là một đội ngũ ngày ngày xoay xở, vật lộn với  cuộc sống. 
 
P.Thảo