Những tiếng kêu cứu giữa biển nước
Không khó để nhìn thấy sự lúng túng của chính quyền, từ trung ương đến địa phương, trong mùa mưa lũ năm nay. Trên các hội nhóm ở Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, hàng loạt lời kêu cứu vang lên trong tuyệt vọng mà gần như không có hồi âm tương xứng. Hình ảnh người già và trẻ nhỏ đứng co ro trên mái nhà, những căn nhà tồi tàn ngập nước, những thân phận ra đi trong cái đói, cái lạnh và nỗi hoang mang cùng cực – tất cả sẽ còn ám ảnh rất lâu.

Đáng sợ hơn, đằng sau đó là một sự thất bại toàn diện của công tác cứu hộ khi những gì bộ máy nhà nước thể hiện lại chỉ là phản ứng bị động. Khi dư luận yêu cầu trực thăng cứu hộ, chính quyền đưa lên mạng vài bức ảnh gói quà đưa lên trực thăng như một cách “chứng minh” đang làm việc. Khi người dân hỏi các lãnh đạo cấp cao đang ở đâu, đáp lại là những khung hình họp trực tuyến, chỉ đạo từ xa. Khi bão lũ lên đến đỉnh điểm, thứ xuất hiện dày đặc nhất là công điện khẩn và lệnh khẩn trên TV; còn lực lượng cứu hộ chuyên nghiệp thì hoặc vắng bóng, hoặc nếu có xuất hiện thì quá ít và quá chậm. Trong khi đó, người dân đang chết trong tuyệt vọng.
Ngày xưa sơ tán là chuyện bình thường
Điều này càng khó hiểu nếu nhìn lại quá khứ gần. Ở những vùng “rốn bão” miền Trung, chính quyền địa phương trước đây không hề yếu kém như vậy. Tôi sinh ra ở một phường ven biển Đà Nẵng, nơi hứng bão triền miên. Khi còn nhỏ, chuyện thành phố sơ tán cả chục ngàn, trăm ngàn người trước khi bão vào là điều bình thường. Trường học và công sở được huy động làm nơi trú ẩn, bộ đội và dân quân đi từng nhà vận động, xe tải, xe khách, thậm chí ghe thuyền được trưng dụng để đưa người ra khỏi vùng nguy hiểm. Mọi việc diễn ra nhanh, gọn, có trật tự, và ở mức nào đó, người dân cảm nhận được một bàn tay tổ chức.
Vậy mà trong đợt mưa lũ thảm họa này, hầu như không thấy hoạt động sơ tán dân quy mô lớn nào – trong khi đó vốn là cách duy nhất để hạn chế thương vong. Thay vì chủ động đưa người ra khỏi nơi nguy hiểm, chính quyền để dân kẹt lại rồi loay hoay chữa cháy bằng vài xuồng cứu hộ và những chuyến hàng cứu trợ nhỏ giọt. Khi nước đã lên tới nóc nhà, mọi nỗ lực đều trở nên muộn màng.
“Sắp xếp lại giang sơn” và một bộ máy chắp vá
Vì sao chính quyền lại bị động đến vậy? Một phần nguyên nhân nằm ở việc sắp xếp địa giới hành chính và cơ cấu chính quyền địa phương vừa rồi – thứ mà một số lãnh đạo đã không ngại lộng ngôn gọi là “sắp xếp lại giang sơn”. Một cơ cấu ổn định suốt nhiều thập kỷ bị tháo tung chỉ trong một đêm.
Ở cấp tỉnh, lãnh đạo từ nơi khác được điều về, chưa quen địa bàn, lại tồn tại sự kèn cựa, chia phe giữa các nhóm cán bộ gốc từ các tỉnh khác nhau. Cấp huyện – vốn là lực lượng chủ lực trong cứu nạn cứu hộ, nắm rõ từng con suối, từng quả đồi, từng xã dễ sạt lở – bị giải thể hoặc sáp nhập, khiến mắt xích quan trọng nhất trong tổ chức thực địa bị suy yếu. Cấp xã thì chênh vênh: không đủ lớn để có nguồn lực như cấp huyện ngày trước, nhưng cũng không đủ nhỏ để sâu sát từng thôn xóm như trước đây.
Đội ngũ cán bộ thì “năm cha ba mẹ”, pha trộn nhiều nguồn, mới điều về, chưa hiểu địa bàn, chưa kịp tạo dựng mạng lưới và mối liên hệ thực tế, nhưng đã bị giao gánh nặng từ trên dồn xuống. Mỗi tỉnh có đến hàng trăm xã, việc điều phối càng thêm khó khăn. Bí thư Khánh Hòa phải thừa nhận không liên lạc được với bí thư, chủ tịch những xã ngập nặng, chỉ nhận lại một chữ “thất thủ”. Khi tuyến chỉ huy cơ sở bị đứt gãy, cả bộ máy phía trên chỉ còn biết phát đi những công điện “yêu cầu khẩn trương” – mà không ai thực sự thi hành được đến nơi đến chốn.
Khi cán bộ không còn gắn với quê hương
Còn một vấn đề tế nhị ít người muốn nói thẳng: khi Chủ tịch hay Bí thư tỉnh không phải người địa phương, động lực làm việc vì cộng đồng giảm đi đáng kể. Trước đây, họ nỗ lực vì đó là quê hương, là gia đình, là mồ mả tổ tiên của họ. Sự ghi nhận của đảng bộ và nhân dân địa phương là “vốn liếng chính trị” để họ thăng tiến. Họ phải sống ở đó lâu dài, nên không thể quay lưng trước nỗi đau của dân.
Ngày nay, nhân sự cấp cao thường đã được “định sẵn” từ trung ương, luân chuyển như con thoi trước mỗi kỳ Đại hội. Người đang ở Khánh Hòa hôm nay mai có thể ra Nghệ An, người ở miền núi tuần trước nay về đồng bằng. Ngay cả người dân còn khó nhớ tên Bí thư, Chủ tịch tỉnh mình, nói gì đến chuyện đặt kỳ vọng rằng họ sẽ xuất hiện kịp thời nơi nguy hiểm nhất trong thời khắc sinh tử. Khi nỗ lực vì cộng đồng không còn gắn chặt với tương lai chính trị của cá nhân, khi “quê hương công tác” chỉ là một trạm dừng chân, thì động lực dấn thân giữa mưa lũ cũng khó giữ được như xưa.
Thảm họa tự nhiên, cái giá phải trả vì sự bị động nhân tạo
Mưa lũ năm nay đến từ thời tiết cực đoan, từ thủy điện xả lũ, từ những cánh rừng bị tàn phá suốt nhiều năm – đó là phần “tự nhiên” của thảm họa. Nhưng mức độ thiệt hại, đặc biệt là thiệt hại về người, lại xuất phát trực tiếp từ sự yếu kém của công tác cứu nạn cứu hộ: từ một bộ máy bị cải tổ vội vàng, chắp vá, thiếu tính toán; từ việc giải thể những cấp trung gian nắm vững thực địa; từ đội ngũ lãnh đạo xa lạ với nơi mình cai quản và ít gắn bó với số phận người dân.
Khi thiên tai ập đến, người dân chỉ còn biết bám lấy nhau để tự cứu. Những chiếc ghe nhỏ, những sợi dây thừng, những nhóm thanh niên tự phát trở thành lực lượng cứu hộ chủ lực. Trong khi ở bất kỳ quốc gia nào, trách nhiệm cứu nạn trước hết phải thuộc về chính quyền và các lực lượng chuyên nghiệp được huấn luyện bài bản. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà chính quyền bị động, thì chính người dân sẽ là những người lãnh đủ.
Thảm họa lần này là một hồi chuông cảnh tỉnh chứ không chỉ là “thiên tai bất khả kháng”. Nếu cơ cấu chính quyền hiện tại không được điều chỉnh, nếu bộ máy vẫn tiếp tục đặt ưu tiên cho việc sắp xếp nhân sự, luân chuyển cán bộ, “sắp xếp giang sơn” hơn là bảo vệ sinh mạng người dân, thì sự lúng túng và bị động trong những mùa mưa lũ tới chỉ là chuyện lặp lại. Và mỗi lần như vậy, cái giá phải trả sẽ lại là những mái nhà trôi đi, những thân phận mất tích, những tiếng gọi người thân yếu dần trong tiếng nước lũ – những cái giá mà lẽ ra không một cộng đồng nào phải trả nhiều lần đến vậy.