Về một số ư kiến tiêu biểu của các học giả trong, ngoài nước về nội dung và hiệu lực ràng buộc của công hàm 1958.
Kính gởi: các cơ quan truyền thông BBC, VOA, RFA… về những bài trích dẫn, hay những bài có liên quan đến chủ đề.
Kính gởi: Quí học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, học giả Lưu Văn Lợi, Tiến sĩ Balazs Szalontai, Thạc sĩ Hoàng Việt, Nhóm phóng viên Biển Đông… v́ những ư kiến trích dẫn.
Kính gởi: “các Nhân sĩ , Trí thức”, tác giả thư ngỏ “Thư ngỏ của các nhân sĩ, trí thức gửi Quốc hội, Lănh đạo Nhà nước và Đảng CSVN” v́ ư kiến trích dẫn.
Kính gởi, đồng thời cám ơn, các trang báo Dân Luận, Đàn Chim Việt… những trang báo đă tạo điều kiện cho một “tiếng nói khác” có cơ hội được bày tỏ chính kiến của ḿnh.
———————————————————— —–
Công hàm ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng là tài liệu quan trọng nhứt của phía TQ đưa ra nhằm chứng minh VN đă công nhận chủ quyền của nước này tại HS và TS.
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc ra tuyên bố về lănh hải quốc gia. Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau:
Điều 1: Lănh hải của TQ rộng 12 hải lư. Điều này áp dụng trên toàn bộ lănh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3: Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của TQ th́ không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ.
Điều 4: Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả HS và TS.
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm 1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau:
«Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. »
1/ Công hàm 1958 là một «tuyên bố đơn phương»:
Nhiều người gọi «công hàm» 1958 của Phạm Văn Đồng là «lá thư» của ông Đồng gởi cho ông Chu Ân Lai, với hy vọng làm giảm thiểu tính quan trọng của văn bản. Thực ra việc gọi thế nào không quan trọng, mà quan trọng là trên quan điểm quốc tế công pháp văn bản này có hiệu lực pháp lư hay không?
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ thông qua (từ nay gọi tắt là Nguyên tắc Hướng dẫn) có nội dung:
Des déclarations formulées publiquement et manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm dịch: Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ư muốn tôn trọng (những ǵ đă tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lư. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đ̣i hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng.
Khoản 5 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
5. Les déclarations unilatérales peuvent être formulées par écrit ou oralement.
Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết hay bằng lời nói.
Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đă thể hiện một cách công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.
Khoản 2 của Nguyên tắc Hướng dẫn:
2. Tout État a la capacité d’assumer des obligations juridiques par des déclarations unilatérales.
Tạm dịch: Mọi quốc gia đều có khả năng đảm nhận những ràng buộc pháp lư qua các tuyên bố đơn phương.
Trên phương diện quốc tế công pháp, quốc gia gọi là VNDCCH có thể bị ràng buộc do tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đông. Vấn đề cần t́m hiểu là bị «ràng buộc» về những điều ǵ?
2/ Công hàm không có hiệu lực v́ người kư không có tư cách pháp nhân
Nhiều bài báo, nhiều ư kiến đóng góp về công hàm 1958 thường hay nói đến tư cách pháp nhân của ông Phạm Văn Đồng. Các ư kiến này cho rằng ông Đồng không có tư cách để ra một tuyên bố liên quan đến vấn đề lănh thổ.
TS Nguyễn Hồng Thao, trong cuốn «Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông » nói về việc này như sau:
La note de Pham Van Dong ne contient aucune renonciation explicite de la souveraineté sur les deux archipels au profit de la Chine. La portée de cette note n’a pas non plus la valeur obligatoire de renoncer à une souveraineté. En vertu de ses fonctions, un Premier Ministre n’a pas la compétence de céder le territoire. Cela relève au pouvoir de l’Assemblée Nationale de Viet Nam
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng không hề nói đến việc từ bỏ chủ quyền ở hai quần đảo cho TQ. Hiệu lực của lá thư này cũng không có giá trị bắt buộc ở việc từ bỏ chủ quyền. Theo chức năng của ông này, một thủ tướng không có thẩm quyền để nhượng lănh thổ. Đây là thẩm quyền thuộc về Quốc hội.
Về hiệu lực của công hàm 1958 sẽ nói ở dưới. Về tư cách pháp nhân, ư kiến này không phù hợp với quan điểm Quốc tế Công pháp. Thật vậy, điều 4 của Nguyên tắc Hướng dẫn, những viên chức nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao… là những người có tư cách để ra một tuyên bố. Nguyên văn điều 4:
4. Une déclaration unilatérale n’engage internationalement l’État que si elle émane d’ une autorité ayant compétence à cette fin. En vertu de leurs fonctions, les chefs d’État, les chefs de gouvernement et les ministres des affaires étrangères sont habilités à formuler de telles déclarations. D’autres personnes représentant l’État dans des domaines déterminés peuvent être autorisées à engager celui-ci, par leurs déclarations, dans les matières relevant de leur compétence.
Tạm dịch như sau: một tuyên bố đơn phương chỉ ràng buộc quốc gia (vào các vấn đề thuộc phạm vi) quốc tế khi tuyên bố này phát xuất từ một quan chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng của họ, chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ ngoại giao (là những người) có quyền để thành lập một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện cho quốc gia trong những lănh vực nhứt định có thể được phép gắn kết (quốc gia vào các vấn đề thuộc lănh vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ.
Theo tinh thần điều 4 văn bản hướng dẫn này, ông Phạm Văn Đồng là thủ tướng chính phủ nước VNDCCH, dĩ nhiên có tư cách và đầy đủ thẩm quyền để ra một tuyên bố về một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế.
Thí dụ dẫn từ hồ sơ CIJ về tư cách pháp nhân của người ra tuyên bố.
Trường hợp tranh chấp giữa Mă Lai và Singapour về các đảo Pedra Branca (tên Mă Lai là Pulau Batu Puteh), Middle Rocks và South Ledge (quan trọng hơn cả là đảo Pedra Branca). Nội vụ được đưa ra Tóa án Công lư Quốc tế (CIJ) vào tháng 2 năm 2003 và được phân xử ngày 23 tháng 5 năm 2005.
Trước ṭa, theo các chứng cớ lịch sử, Mă Lai đă chứng minh được chủ quyền lịch sử của ḿnh ở đảo Pedra Branca, từ thời mới lập quốc (vương quốc Johor, thế kỷ 15) cho tới năm 1850. Trong khi Singapour, được tiểu vương Johor nhượng cho Công ty Đông Ấn thuộc Anh vào ngày 02 tháng 8 năm 1824, lănh thổ bao gồm tất cả các đảo trong ṿng 10 hải lư. Trong khi đó đảo Pedra Branca cách Singapour đến 24 hải lư. Nhưng trong một khoảng thời gian dài, từ năm 1850, vương quốc Johor (quốc gia tiền nhiệm Mă Lai) đă không hành sử chủ quyền của họ tại đảo này. Khi người Anh ở Singapour cho xây một ngọn hải đăng trên đảo năm 1850 th́ không gặp sự phản đối nào của vương quốc Johor. Mặt khác, nhân dịp trả lời lá thư của Singapour về chủ quyền đảo Pedra Branca năm 1953, viên Bộ trưởng lâm thời Bộ ngoại giao vương quốc Johor viết công hàm xác nhận đảo Pedra Branca «không thuộc chủ quyền Johor». Mặc dầu phía Mă Lai phản đối rằng viên bộ trưởng kia không có thẩm quyền để tuyên bố về một vấn đề «lănh thổ». Nhưng ṭa đă bác lư lẽ này v́ cho rằng tuyên bố đó không có ư nghĩa của một tuyên bố về lănh thổ mà chỉ là ư kiến của vương quốc Johor về chủ quyền đảo Pedra Branca.
Công hàm 1953 của vương quốc Johor tương tự với trường hợp công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đó không phải là một kết ước về lănh thổ mà chỉ là ư kiến của nước VNDCCH về quyết định của nước CHNDTH (về lănh thổ và hải phận của TQ). Công hàm 1958 không hề là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền.
(Ở thí dụ này ta cũng thấy một nước, do thái độ của chính phủ nước này, có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở một vùng lănh thổ nào đó. Trường hợp VN và TQ tại hai quần đảo HS và TS, ta dễ dàng chứng minh VN có chủ quyền lịch sử tại hai quần đảo này, thông qua các tấm bản đồ, hay các sử liệu lịch sử, do chính từ TQ thành lập. Nhưng nếu trong một thời gian dài, nhà nước VN có những tuyên bố, hay các động thái tương đương với sự «đồng thuận – acquiescement», các hành vi này được xem là tự nguyện «từ bỏ chủ quyền», VN có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở các nơi này. Điều này có ư nói rằng vấn đề chủ quyền lịch sử là quan trọng nhưng thái độ của nhà nước đối với vùng lănh thổ đó c̣n quan trọng hơn.)
Ta cũng có thể dẫn từ các bản án mẫu của CIJ về các tuyên bố đơn phương mà vai tṛ của người tuyên bố, cũng như hoàn cảnh của tuyên bố bị đặt lại, nhưng vẫn không thể hủy bỏ hiệu lực của tuyên bố.
Trường hợp quốc vương Jordanie tuyên bố từ bỏ vùng lănh thổ Cisjordanie là một thí dụ khác. Ngày 31 tháng 7 năm 1988 quốc vương Jordanie đọc tuyên bố trước thần dân của ông về việc từ bỏ mọi liên hệ và thẩm quyền chính thức của Jordanie trên vùng lănh thổ Cisjordanie. Tuyên bố này trái với tinh thần hiến pháp của Jordanie, v́ nhà vua không có thẩm quyền quyết định về phạm vi lănh thổ. Tuyên bố của quốc vương Jordanie không hề nhắm đến một quốc gia nào (không phải là tuyên bố đơn phương) đồng thời vừa vi hiến. Dầu vậy hiệu lực của tuyên bố cũng đă được áp dụng trên thực tế, dân tộc Palestine chưa được thực sự độc lập cũng như quốc gia Palestine chưa được chính thức thành h́nh, nhưng vùng lănh thổ Cisjordanie thực sự không c̣n thuộc thẩm quyền của Jordanie.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực v́ vi hiến.
Nhiều bài báo, nhiều ư kiến ở VN gần đây cho rằng chiếu theo hiến pháp VN, ông Đồng không có tư cách để tuyên bố về một vấn đề liên quan đến chủ quyền lănh thổ. Thật vậy, theo hiến pháp của VN hiện tại, hay trong thời kỳ ông Đồng làm thủ tướng, vấn đề phân định biên giới phải được thể hiện bằng một kết ước, có sự đồng thuận giữa hai nước, phải được quốc hội thông qua. Ư kiến của TS Nguyễn Hồng Thao đă dẫn ở trên trong chừng mực cũng nằm trong chiều hướng này.
Nhưng tuyên bố 1958 của ông Đồng, đă nói ở trên, không phải là một « tuyên bố về lănh thổ », có mục tiêu làm thay đổi lănh thổ nước VNDCCH. Nếu văn bản có mục tiêu làm thay đổi lănh thổ th́ tuyên bố này vi hiến.
Xét nội dung của cả hai bản tuyên bố. Bản tuyên bố của TQ trước hết là một tuyên bố về chủ quyền, theo đó TQ khẳng định ư chí của họ về chủ quyền của TQ tại Đài Loan, Bành Hồ… (đang dưới quyền kiểm soát của phe Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lănh đạo). Sau đó là tuyên bố về hệ thống đường cơ bản và bề rộng lănh hải 12 hải lư (điều 2). Điều 3 khẳng định quyền tài phán của TQ tại vùng không gian và vùng nước thuộc lănh hải TQ. Điều 4 qui định các đảo Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) cùng các đảo khác của TQ đều có qui chế xác định ở điều 1 và điều 2.
Bối cảnh bản tuyên bố của TQ, sẽ nói rơ hơn ở phần dưới, cũng như tuyên bố của nhiều nước khác cận biển trong cùng thời kỳ, được thể hiện sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lănh hải và vùng tiếp giáp lănh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể kư nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Một Nghị định thư không bắt buộc về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được thông qua. V́ không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đ̣i hỏi của nước này về lănh hải và vùng tiếp cận. Ta thấy tuyên bố bề rộng lănh hải 12 hải lư của TQ hoàn toàn phù hợp với Công ước về lănh hải và vùng tiếp giáp lănh hải.
Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng là tuyên bố ủng hộ tuyên bố của TQ về lănh hải và vùng tiếp giáp lănh hải của nước này. Thực ra việc này không cần thiết. Bởi v́, cũng như tuyên bố của các nước khác, nếu nội dung tuyên bố của TQ không có điều ǵ phải phản đối, tự động tuyên bố này có hiệu lực đối với tất cả các nước trên thế giới. (Tuyên bố của TQ bị Hoa Kỳ phản đối v́ hệ thống đường cơ bản lấn biển khá xa).
Tức là, có hay không có tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng, nếu VN không lên tiếng phản đối hay bảo lưu về một điều ǵ đó liên quan đến nội dung tuyên bố của TQ, tự động tuyên bố này có hiệu lực pháp lư.
Tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không phải là một tuyên bố về « lănh thổ ». V́ vậy tuyên bố này không vi hiến.
Dầu vậy, theo tập quán quốc tế, một tuyên bố đơn phương nếu đi ngược lại tinh thần hiến pháp của quốc gia tuyên bố, hiệu lực của tuyên bố vẫn có thể cao hơn hiến pháp của quốc gia. Tuyên bố đơn phương không phải là một văn bản «hành chánh» thuộc phạm trù quốc gia mà là một văn bản (hay hành vi) thuộc phạm trù quốc tế. Một văn bản hành chánh chịu chi phối của luật quốc gia nhưng một tuyên bố đơn phương (liên quan đến một vấn đề quốc tế) chịu chi phối của luật pháp quốc tế. Mà luật quốc tế có giá trị «cao» hơn luật quốc gia.
Thí dụ sau đây cho thấy những rắc rối đưa đến từ việc mâu thuẩn giữa luật quốc nội và luật quốc tế về tuyên bố đơn phương.
Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela về lập trường của Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes. Công hàm này xác định chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes.
Năm 1971, Ủy ban Quốc gia Colombie nhận được một khiếu nại cho rằng công hàm 1952 vi hiến v́ các vấn đề thuộc chủ quyền lănh thổ phải được thể hiện bằng một hiệp ước, và phải được quốc hội thông qua. Thực tế là công hàm của Bộ ngoại giao có làm thay đổi « biên giới » nước Colombie, v́ trực tiếp nh́n nhận quần đảo Los Monjes thuộc Venezuela. Tháng 3 năm 1971 Ủy ban Quốc Gia Colombie phán xét rằng Ủy ban không có thẩm quyền để hủy bỏ công hàm 1952 bởi v́ đây là một văn bản thuộc phạm vi quốc tế. Một văn bản quốc tế th́ phải áp dụng Quốc tế Công pháp. Tháng 4 năm 1971, phán quyết này lại khiếu nại lên Ủy ban Quốc Gia. Lần này lư lẽ phía khiếu nại cho rằng phán quyết không phù hợp với hiến pháp Colombie trong các vấn đề liên quan đến các văn bản quốc tế. Bên khiếu nại nhấn mạnh, để tuyên bố có hiệu lực, ư chí của hai quốc gia cần phải được thể hiện. Tức là, quan điểm của hiến pháp Colombie th́ không công nhận hiệu lực các tuyên bố đơn phương mà chỉ nh́n nhận các hết ước có tính qui ước (có sự đồng thuận của hai bên).
Điều ghi nhận ở đây, khác với hiến pháp của phần lớn các quốc gia khác, hiến pháp Colombie không nh́n nhận « tuyên bố đơn phương » là một văn bản quốc tế. Một văn bản quốc tế, theo họ, phải có sự đồng thuận của hai bên. Trong trường hợp chủ quyền quần đảo Los Monjes, phải xác định bằng một hiệp định.
Vấn đề quần đảo Los Monjes được đưa lên Ủy ban Hiến Pháp quyết định. Ủy ban này cũng từ khuớc v́ cho rằng không có thẩm quyền (23-5-1975). Cuối cùng, ngày 20-10-1992, Ủy ban Quốc gia phán quyết : Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela là không có gia trị.
Nhưng dường như hành động của Ủy ban Quốc gia Colombie chỉ nhắm đến việc giải quyết trong nội bộ Colombie, để xoa dịu thành phần chống đối. V́ trên thực tế, hiện nay nhà nước Colombie công nhận chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes qua việc phân định hải phận giữa hai nước. Việc tranh chấp hai bên là vùng nước chung quanh Los Monjes, phía Colombie chủ trương các đảo này có hiệu lực giới hạn trong khi phía Venezuela đ̣i hỏi vùng biển phía ngoài các đảo, có đầy đủ hiệu lực.
4/ Công hàm 1958 không có hiệu lực v́ tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế.
Có ư kiến cho rằng công hàm 1958 không có hiệu lực v́ tuyên bố của phía TQ vi phạm luật quốc tế. Ư kiến này cho rằng tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế v́ hệ thống đường cơ bản của TQ không phù hợp với Luật quốc tế về Biển 1958.
Theo khoản 8 bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
8. Une déclaration unilatérale en conflit avec une norme impérative du droit international général est nulle.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương mâu thuẩn với một nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế th́ nó không có giá trị.
Như đă nói ở phần 2, tuyên bố về hải phận của TQ là một tuyên bố đơn phương. Nếu tuyên bố này mâu thuẩn với luật Quốc tế th́ tuyên bố này không có giá trị. Dĩ nhiên công hàm 1958 cũng không có giá trị.
Ta thấy qui ước về đường cơ bản trong Công ước về Lănh hải và Vùng tiếp giáp 1958 không khác nhiều nội dung bộ Luật biển 1982. Hệ thống đường cơ bản của TQ từ năm 1958 đến nay không thay đổi. Trong chừng mực, một số đoạn trong hệ thống đường cơ bản của TQ khá xa bờ, nhưng việc lấy các đảo cận biển để làm điểm cơ bản th́ việc này không mâu thuẩn với Luật quốc tế về Biển. Tập quán này đă được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng (kể cả VN). Tuyên bố về đường cơ bản của TQ bị các nước (như Hoa Kỳ) phản đối. Nhưng nói rằng nó không có giá trị trên toàn bộ là không thuyết phục. Bởi v́, nếu bị chống đối, TQ (hay VN cũng như các nước có chung trường hợp), có thể thay đổi để phù hợp với Luật biển 1982.
V́ thế khi cho rằng tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không có giá trị v́ ủng hộ một tuyên bố vi phạm luật quốc tế là không có căn cứ.