Bộ Quốc phòng Việt Nam sẽ đưa tàu ngầm ra diễu binh trong dịp kỷ niệm 80 năm ngày quốc khánh 2/9 năm nay. Thật hài hước khi diễu binh thì mang tàu ngầm ra ngạo nghễ, còn lúc tàu Trung Quốc, tàu “nước lạ” xâm phạm chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông thì những tàu ngầm này lặn mất tăm mất tích ở đâu không biết.
Không còn từ ngữ nào để diễn tả, dường như chính quyền, Bộ Quốc phòng Việt Nam đang trong cơn say, ngáo diễu binh hay sao. Mà lần diễu binh 2/9/2025 sắp tới còn có cả khối diễu binh dưới nước, với sự tham gia của tàu ngầm, cảnh sát biển, tàu nổi, bộ đội biên phòng. Những đơn vị này ở đâu khi tàu cá của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc tấn công, bắt ngư dân, tịch thu thuyền và đổ cá của ngư dân xuống biển?
Lần này Việt Nam tiếp tục mời quân đội Trung Quốc sang diễu binh. Vậy có diễu binh trên biển, thì có mời tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển, tàu khảo sát của Trung Quốc sang Vịnh Bắc Bộ mà diễu binh luôn thể, cho thắm tình đồng chí, tình anh em, láng giềng hữu nghị luôn thể đi.
Thực ra, mấy cái trò diễu binh này vẫn là một tay phe quân đội có chủ trương thực hiện. Vẽ vời diễu binh như này bản chất là rút ruột ngân sách nhà nước, móc tiền thuế của nhân dân, giải quyết khâu ngạo nghễ với dư luận viên chứ chẳng mang lại lợi ích gì.
Khác biệt vùng miền trong văn hóa Việt hậu thống nhất
Một người miền Bắc lần đầu vào Sài Gòn có thể thấy người ta nói năng bỗ bã, ăn mặc thoải mái, sống nhẹ như mưa bụi. Một người Nam ra Hà Nội, bối rối với những “dạ – vâng – anh – chị – em – cháu – cô – chú – bác – thưa – gửi” lắt léo như mê cung. Họ đều ở Việt Nam. Nhưng có lúc, họ không nghĩ vậy.
Sau gần nửa thế kỷ thống nhất, người Việt vẫn chia hai trong ngôn ngữ, giao tiếp, tư duy, quan niệm sống và đôi khi, trong niềm tin. Đó không chỉ là sự khác biệt vùng miền thông thường, mà là một khoảng cách tinh thần, có khi sâu hơn cả một đường biên giới. Bài viết này không nhằm phán xét, cũng không muốn làm trầm trọng thêm chia rẽ. Nó là một cuộc chiếu đèn thẳng thắn và nhân văn vào một hiện thực thầm lặng: Thống nhất đất, chưa thống nhất lòng.
Sự khác biệt giữa người Bắc và người Nam không phải là chuyện mới sau năm 1975. Nó là kết quả của những tầng lớp lịch sử chồng lên nhau, qua các đợt di cư, chiến tranh, thay đổi chính thể và va đập văn hóa kéo dài hàng thế kỷ.
Miền Nam, vùng đất của sự khai phóng. Từ thế kỷ 17, những cư dân miền Trung vào Nam khai hoang vùng đất mới không vua chúa, không nghi lễ khắt khe. Họ sống linh hoạt, phóng túng, khoan dung, thực tế và nhẹ nhõm.
Miền Bắc, vùng đất của thiết chế và nghi lễ. Là trung tâm của các triều đại phong kiến, miền Bắc phát triển một văn hóa giàu tính quy phạm, lễ nghĩa, và đề cao trật tự.
Từ 1954–1975, hai miền phát triển theo hai hệ tư tưởng. Miền Bắc sống dưới mô hình XHCN tập thể hóa; miền Nam sống theo kinh tế thị trường, truyền thông tư nhân, ảnh hưởng phương Tây. Hai thế hệ lớn lên trong hai nhịp tim văn hóa khác nhau và vết rạn ấy chưa bao giờ lành hoàn toàn.
Người Bắc quen nói vòng, nói khéo, “ý tại ngôn ngoại” điều quan trọng thì giấu trong lớp sương mù lịch thiệp.
Người Nam nói thẳng, nói thật, chêm “trời đất ơi”, “muốn xỉu” như kiểu trò chuyện bên quán cóc, cởi mở và đầy biểu cảm.
Sự khác biệt này không xấu. Nó phản ánh hai truyền thống: Miền Bắc, tư duy Khổng học, trọng thứ bậc. Miền Nam, tư duy khai phóng, dân dã và bình dân.
Một người Bắc ngạc nhiên khi được hỏi: “Chú ăn cơm chưa?” không biết là người Nam đang thể hiện sự quan tâm và gọi chú để thể hiện sự thân mật. Người Bắc lại nghĩ là chú em nên khó chịu.
Một người Nam bối rối khi nghe một cuộc trò chuyện toàn “dạ vâng ạ” mà vẫn… chưa hiểu ý chính nằm ở đâu.
Người Bắc: Thành công là có chức, có bằng, có quan hệ trong hệ thống.
Người Nam: Thành công là sống thoải mái, kiếm được tiền, có bạn, có niềm vui.
Ở miền Bắc, “cháu ông nọ”, “con bà kia” có thể là tấm thẻ bảo hành xã hội. Ở miền Nam, người ta quý “thằng đó tự thân mà lên, giỏi thiệt”.
Người Bắc chọn nhà nước làm trung tâm an toàn. Người Nam chọn tiệm nước, chợ búa, phố phường làm nơi sinh sống, giao dịch.
Cả hai đều phản ánh những chiến lược sinh tồn hợp lý nhưng va chạm nhau khi cùng chen vào không gian chung mà không hiểu bản đồ của người kia.
Chúng ta không đánh nhau, không cãi nhau nhưng lại có hàng ngàn va chạm thầm lặng mỗi ngày:
Hôn nhân Bắc – Nam: Bất đồng từ cách xưng hô đến cách dạy con.
Đồng nghiệp: Người thì cho rằng “làm việc phải chuẩn mực”, kẻ khác lại muốn “thoải mái, miễn xong việc”.
Hội đồng hương, nơi người ta né xung đột bằng cách… rủ nhau về đúng “phe mình”. Nguy hiểm hơn cả là những kỳ thị không tên, kiểu:
“Dân Bắc vào hay giành việc”.
“Dân Nam chỉ giỏi ăn chơi”.
Những định kiến ấy, khi lặp đi lặp lại, trở thành bức tường vô hình chắn giữa những con người cùng quốc tịch, cùng tổ tiên, cùng một ngôn ngữ (mà hóa ra không cùng cách nói).
Có những câu nói tưởng chừng vô thưởng vô phạt nhưng lại phản ánh cả một hệ hình tư duy xã hội. Ví dụ câu quen thuộc nơi miền Bắc: “Mày biết bố mày là ai không?”
Không chỉ là sự phô trương quyền lực kiểu gia trưởng, thiếu văn hoá, trịch thượng mà còn ẩn chứa tinh thần tôn ti, thứ bậc và quan hệ bảo kê, vốn ăn sâu trong xã hội lấy “địa vị làm thước đo”.
Người miền Nam, vốn sống trong môi trường cởi mở hơn, nghe câu ấy sẽ ngớ người ra: “Ủa, ủa, sao biết bố mày là ai?”
Hay như chiếc nón cối, một vật dụng quá quen thuộc với cán bộ miền Bắc sau 1954, vào Nam lại trở thành biểu tượng khó chịu. Bởi vì với nhiều người miền Nam, nón cối từng gắn với hình ảnh của sự kiểm soát, khẩu hiệu, mệnh lệnh và… tem phiếu, là sự thống trị và một thời kỳ nghèo đói, thiếu thốn khó quên. Nó không còn là cái nón, mà là một ký ức. Những hình ảnh như vậy không phải để phân biệt, mà để hiểu rằng:
Có những đồ vật, ngôn từ, cách nói… mang theo ký ức tập thể mà mỗi miền gánh mang một cách rất khác nhau. Và khi chúng ta bỏ qua ý nghĩa biểu tượng trong lịch sử người kia, chúng ta dễ giẫm lên những vết thương mà mình không nhìn thấy.
Để giải quyết tình trạng này, cố gắng không đồng hóa, chỉ cần thấu hiểu. Không cần phải giống nhau. Chỉ cần không chê nhau khi khác nhau.
Thống nhất không phải là cùng ăn một món, nói cùng một kiểu, mặc cùng một đồng phục. Thống nhất là:
Biết người kia đang nói theo ngữ pháp vùng miền của họ.
Biết “bỗ bã” chưa chắc là vô lễ.
Biết “nói khéo” chưa chắc là thủ đoạn.
Chúng ta không cần một “tiêu chuẩn văn hóa Việt thống nhất”, điều đó chỉ làm nghèo đi bản sắc. Chúng ta cần học cách dịch tâm hồn nhau, như người học ngoại ngữ, không phải để sửa lỗi, mà để đọc được tình cảm qua khác biệt.
Ngoài những lý do trên, còn có lý do chính trị. Không phải chỉ vì ngôn ngữ, món ăn hay cách xưng hô mà người Việt hai miền có lúc thấy “lạ” nhau. Còn một tầng sâu hơn, âm ỉ hơn: Vết thương chính trị chưa bao giờ lành hẳn.
Người miền Nam, hoặc đúng hơn là một phần lớn người từng sống trong thể chế Việt Nam Cộng Hòa, có lý do để không xem “giải phóng” là giải phóng.
Với họ, 30.4.1975 không hẳn là ngày độc lập, mà là ngày mất mát. Không chỉ mất chính quyền, mà mất cả nếp sống, sách vở, trí nhớ tập thể. Những tiệm sách bị đốt. Hàng ngàn văn hoá phẩm bị tiêu huỷ. Nhiều cửa hiệu, doanh nghiệp bị tịch thu.
Những viên chức, quân nhân chế độ cũ bị đi “học tập cải tạo”. Hàng trăm người đã chết nơi rừng sâu, nước độc vì thiếu ăn và bịnh tật. Những gia đình bị đưa đi “kinh tế mới”, rời thành thị về rừng sâu. Những người bị gắn “lý lịch xấu”, và từ đó con cái không thể vào đại học, không được làm công chức.
Biết bao nhiêu gia đình bị ly tán, biết bao nhiêu người bỏ mình nơi biển sâu trong hành trình vượt biển. Đó không chỉ là chính sách, mà là những hình phạt tinh thần kéo dài cả thế hệ.
Và trong khi ấy, một số người miền Bắc tin rằng họ đang làm “sứ mệnh cách mạng”, mang ánh sáng chủ nghĩa xã hội vào miền Nam. Cái “ánh sáng” ấy, với người bên kia, có khi chỉ là đèn dầu soi tem phiếu.
Chúng ta không cần phải thống nhất quan điểm lịch sử. Nhưng cần thống nhất ở một điều: Lắng nghe nỗi đau của nhau.
Khi người miền Bắc nói về “thành tựu thống nhất”, hãy để họ nói. Khi người miền Nam nhắc lại những mất mát, đừng bảo họ “chống phá” là “phản động”. Bởi im lặng về tổn thương không làm nó biến mất, chỉ khiến nó hóa đá.
Việt Nam là một dải đất dài, nhiều tiếng nói, nhiều tạng khí và nhiều vết đau lịch sử. Nhưng khi miền Bắc khóc vì miền Trung lũ lụt, miền Nam đau vì Hà Nội dịch giã, đó là lúc tim ta cùng đập.
Một đất nước: Nhiều tâm hồn.
Một dân tộc: Nhiều bản thể văn hóa.
Và đó không phải là vấn đề.
Miễn là chúng ta không khước từ nhau, không ép nhau giống nhau, không coi nhau là lạ.
Thống nhất thật sự không nằm ở bản đồ. Nó nằm ở một khoảnh khắc nhỏ: Khi một người Bắc nghe giọng miền Nam mà mỉm cười. Và một người Nam nghe chất giọng miền Bắc mà thấy… cũng là quê hương mình.
Có tám nạn nhân trong vụ cháy cư xá Độc Lập, bốn người nhà 019 và bốn người nhà 020.
Nhà 019 là hàng xóm: Hai người già 75 và 73 tuổi, cùng hai phụ nữ trung niên: 41 và 48 tuổi.
Điều kỳ lạ là báo chí chỉ nêu tên bốn người trong nhà 019 mà không nhắc gì thêm về họ như gia cảnh, nghề nghiệp, họ hàng… hay mô tả thêm về vị trí tìm thấy xác hay mô tả thêm tại sao họ không thể thoát ra được.
Nhà 020 có VF3 cháy thì dễ suy luận là khó thoát: Nhà ống, mặt tiền 4m, dài 15m bao gồm hai phòng ngủ, bếp, phòng khách. Nhà có hai xe máy, một ô tô và nhiều đồ trang trí liên quan đến nghề nghiệp làm event của ông chủ xe VF3. Ông này làm rất nhiều chương trình cho ca sĩ Mỹ Tâm và đã từng được em vợ cảnh báo để quá nhiều đồ đạc dễ cháy bịt lối đi.
Không bàn luận về nguyên nhân gây cháy, chập điện hay VF3 phát cháy khi đang sạc pin. Điều này không là chủ đề của bài viết này. Nhưng chắc chắn đã có 1 chiếc xe Vinfast VF3 cháy và nó cháy rất nhanh, rất lớn, làm cho bốn người, gồm hai người lớn 40, gần 40 và hai trẻ em 11 và 7 tuổi không thể vượt qua được. Họ còn đủ thời gian để gọi ít nhất hai cuộc điện thoại cho em gái nhưng cuối cùng phải chết.
Rồi căn hộ phía bên trên không có thiệt hại về người nhưng hư hại hết toàn bộ tài sản. Rồi ai sẽ bồi thường họ? Không ai cả.
Rồi ai sẽ kêu oan cho bốn mạng trong gia đình 019? Không ai cả.
Cô bé ở Vĩnh Long còn có ông cha. Ông cha hy sinh tấm thân mình tìm công lý cho con. Mà Công Lý thì đột quỵ nên cũng chỉ cử động được một chút. Ú ớ vài câu. Rồi lại im lặng.
Vụ Nguyễn Sỹ Cương, ai tìm công lý cho cô bé sắp tốt nghiệp lớp 12? Vụ Hồ Sỹ Phong Bắc Ninh…
Nhiều người nói Công Lý còn chẳng có với người sống, đòi hỏi chi ở người đã chết? Nghe mà đắng lòng.
Công Lý – có lẽ nên bắt đầu từ những kẻ được gọi là nhà-báo.
Một ngày chúng gặp nạn, lũ nhà-báo đó, đừng hỏi tại sao tôi cười sằng sặc.
‘Hồn Trương Ba, da hàng thịt’ là câu chuyện dân gian đầy tính bi hài; thế nhưng, ngày nay trong đời sống và trong chính sự, quan hệ đã đảo ngược với ‘Hồn hàng thịt, da dẻ Trương Ba’ như một thảm kịch kéo dài, dài đến vô cùng tận nếu không có gì thay đổi.
Đầu tiên là câu chuyện dân gian mà nhân vật chính là Trương Ba, một con người tao nhã và tử tế, cũng là một tay cờ lão luyện, đã nhiều lần so tài với Đế Thích, được ông thần này đem lòng mến mộ. Ngày nọ, do nhầm lẫn của Nam Tào mà chết oan, Trương Ba được Đế Thích giúp cho hồi sinh nhưng vì da thịt đã phân hủy nên chỉ có thể tái sinh trong thân xác của anh hàng xóm hành nghề hàng thịt vừa mới qua đời.
“Hồn” Trương Ba đưa “xác” anh hàng thịt về nhà và sau những sợ hãi lo lắng ban đầu, người vợ nhận ra chồng trong thân thể cục mịch của anh hàng thịt. Thế nhưng vợ anh hàng thịt không chịu và chuyện được đưa đến cửa quan. Nghe hai bên kể lể sự tình, viên quan đành phân giải nước đôi, ban ngày làm anh hàng thịt, tối làm ông Trương Ba.
Từ đây bi hài kịch từ xung đột giữa hồn và xác bắt đầu.
Nhưng câu chuyện sâu sắc hơn và, nhất là, nhuốm nhiều chất bi hơn khi nhà thơ kiêm kịch tác gia Lưu Quang Vũ khai thác.
Trong vở kịch cùng tên, “hồn” Trương Ba đã tỏ ý khinh rẻ phần xác thịt thấp hèn và tin chắc rằng mình vẫn đường hoàng sống một cuộc đời trong sạch và chính trực thì, ngược lại, “da hàng thịt” cho rằng không có phần hồn nào có thể thoát khỏi sự chi phối của mình.
Và chính những thân nhân của Trương Ba đã khiến cái “hồn” này thay đổi. Vợ ông, con dâu ông, rồi cháu nội, từ từng góc độ khác nhau, đã chỉ ra những chuyển biến mà Trương Ba không nhìn nhận được ngay.
Người vợ chỉ ra rằng chồng đã thay đổi, không còn trong sạch và thẳng thắn như trước nữa và, do xấu hổ, chỉ muốn đi biệt tích cho rồi. Cô cháu nội thì cho rằng ông mình đã chết và kẻ xa lạ này chỉ là một người thô lỗ, hậu đậu. Cô con dâu thì thông cảm và thương cha chồng hơn trước nhưng vẫn nói thằng rằng, ông không còn là ông Trương Ba của trước đây nữa.
Dần dà, từ giọng điệu mạnh mẽ khi phủ nhận ảnh hưởng của xác thịt lúc đầu, Trương Ba mềm giọng, ấp a ấp úng rồi, trong tuyệt vọng, đã bịt tai lại, không muốn nghe thêm nữa. Mất tự tin với cuộc sống đang có, Trương Ba than thở với Đế Thích rằng vị thần này đã quá đơn giản khi nghĩ rằng cho mình sống lại là xong mà không hề nghĩ đến việc ông ta sẽ “sống như thế nào”.
Trương Ba tuyên bố: “Không được bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Và Trương Ba nhấn mạnh: “Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”.
Hiểu như thế, Trương Ba chấp nhận cái chết, không sống để tự dằn vặt mình và khiến người khác phải dằn vặt về mình.
Nếu đó là chất “bi” thì năm 2006 đạo diễn Nguyễn Quang Dũng – con trai Nguyễn Quang Sáng – đã khai thác câu chuyện này trong điện ảnh nhưng lại biến nó thành một chuyện hài. Tôi chưa xem phim này và, thường không có mấy hứng thú với thể loại này của điện ảnh Việt Nam, phần nhiều khá vô duyên, nhạt nhẽo và, có thể nói, rẻ tiền.
Nếu câu chuyện trên được người đời sau khai thác về mặt nghệ thuật với sự phân hóa ở hai hướng bi – hài thì, trong đời sống và chính sự, lại đảo chiều với màu sắc thảm kịch.
Như có thể thấy từ thảm kịch mang tên Covid-19. Vốn đã thảm rồi, đại dịch còn thảm hơn với những mệnh lệnh hành chánh từ cấp cao nhất với chủ trương cưỡng bức xét nghiệm, mở đường cho việc tiêu thụ hàng loạt bộ xét nghiệm mang tên Việt Á.
Tên đầy đủ là Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á, công ty có chủ nhân bề nổi là Phan Quốc Việt nhưng chủ nhân thật sự lại thấp thoáng bóng hình vợ của Nguyễn Xuân Phúc. Sản phẩm trên nhập từ Trung Quốc với giá 0.955 Mỹ kim, lúc đó tương đương 21.560 đồng Việt Nam; nếu tính hết chi phí rồi cộng thêm 5% lợi nhuận thì chỉ 143.000 đồng.
Nhưng “Hồn hàng thịt, da dẻ Trương Ba”, công ty lại quảng bá rằng đây là sản phẩm mình tự nghiên cứu, phát triển và “sạch sành vét cho đầy túi tham” với với giá 470.000 đồng. Lời này là của Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, viết để diễn tả sự tham tàn của lũ sai nha, hành động như giặc cướp, tịch thu hết của cải nhà Vương ngoại, không chừa thứ gì. Nhưng ở đây chính là “giặc Việt”, với thế lực chính quyền trong việc quảng bá và cưỡng ép tiêu thụ, đã “sạch sành sanh vét” chính đồng bào máu mủ đang khốn khổ cùng cực vì đại dịch.
Bây giờ thì, mới nhất là thảm kịch chết cháy tại Chung cư Độc Lập ở Tân Phú (Sài Gòn) với tám nạn nhân, lớn tuổi nhất là một bà cụ 73 và nhỏ nhất là một cháu bé 11. Thông tin kèm những hình ảnh ban đầu cho thấy, thảm nạn xuất phát từ chiếc xe điện VF3, có thể phát cháy giữa lúc đang xạc điện.
Thảm kịch đã đặt ra câu hỏi về độ an toàn của bình điện VF3. Đây là bộ phận nhạy cảm nhất vì nguy cơ cháy nổ khi xạc điện và từ lâu, bình điện Trung Quốc – từ cục pin trên điện thoại di động, đến mô tô điện hay xe hơi điện – đã khét tiếng về điều này.
Nhưng VF3 là sản của VinFast, thuộc quyền sở hữu của Phạm Nhật Vượng, tài phiệt số một Việt Nam, kẻ có thói quen sai phái công an bịt miệng những người dám chê bai sản phẩm của mình, kể cả sản phẩm giáo dục. Vượng quảng cáo rằng, VF3 được sản xuất tại nhà máy ở Hải Phòng, đã tự chủ nhiều bộ phận quan trọng, trong đó có bình điện.
Có nhiều nghi vấn cho thấy, cái bình điện đó cũng chỉ là một sản phẩm “Hồn hàng thịt, da dẻ Trương Ba” như bộ xét nghiệm của Việt Á. Mà trên thực tế, tất cả những gì chính quyền đang tiến hành, là “hư vô hóa” sự hiện diện của chiếc VF3 trong thảm nạn, chỉ lu loa về những vi phạm trong “quy định phòng cháy chữa cháy” của chung cư.
Nhưng xét ra thì những bi kịch “Hồn hàng thịt, da dẻ Trương Ba” trong những vấn đề kỹ thuật mang tính vi mô này chỉ là sản phẩm ắt có của một đại bi kịch “Hồn hàng thịt, da dẻ Trương Ba” lớn hơn, mang tính vĩ mô.
***
Đất nước đang có một “chính quyền nhân dân” thế nhưng “nhân dân” chỉ là là cái vỏ, cái xác, bởi đó là thứ chính quyền hay tòa án đang bị những tài phiệt, những nhóm lợi ích sai phái xoành xoạch.
Đất nước có một một hệ thống “Tòa án nhân dân” với vô số những nhầm lẫn gây nên án tử hình oan, tương tự nhầm lẫn của Nam Tào đã khiến Trương Ba chết oan. Nếu Đế Thích sai lầm khi cứu sống Trương Ba mà không xem xét thấu đáo việc ông ta sẽ sống như thế nào, thì kể ra vị thần này cũng chấp nhận rằng Nam Tào đã sai, ông ta phải làm cái gì đó để cứu chuộc.
Còn thứ “Tòa án nhân dân” này thì luôn luôn tìm cách ém nhẹm sai sót của Nam Tào, nhân dân sống chết mặc bay, như cái án tử hình oan khuất của Hồ Duy Hải…
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.