Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Thị Lâm, Trưởng bộ môn Dị ứng Miễn dịch lâm sàng, Đại học Y Hà Nội, cho biết không phải ai cũng bị dị ứng vaccine, chỉ những người cơ địa dị ứng mới có nguy cơ dị ứng vaccine.
Ví dụ, bản thân hoặc thành viên trong gia đình mắc các bệnh dị ứng như dị ứng thuốc, dị ứng thức ăn, dị ứng vaccine, hen phế quản, viêm mũi dị ứng...
Hiện, tỷ lệ dị ứng vaccine và phản vệ do vaccine rất thấp. Tuy nhiên, khi nước ta đang trong chiến dịch tiêm chủng đại trà vaccine Covid-19, mối quan tâm đến các phản ứng sau tiêm, đặc biệt là dị ứng, nhiều hơn.
Vaccine cũng giống như các thuốc khác, đều có khả năng gây dị ứng và bất kỳ thành phần nào của vacine cũng có thể đóng vai trò là một dị nguyên (gây dị ứng). Dị ứng vaccine có thể là dị ứng type nhanh xảy ra trong vòng vài phút hoặc vài giờ với các biểu hiện như mày đay, phù quincke (sưng nề đột ngột), khó thở, phản vệ...
Dị ứng hoặc dị ứng type chậm (qua trung gian IgE hoặc không) xảy ra sau vài giờ đến vài ngày, thậm chí là vài tuần sau khi dùng vaccine. Trong đó cấp tính và nguy hiểm nhất vẫn là phản ứng phản vệ, đặc biệt là sốc phản vệ, có nguy cơ đe dọa tính mạng.
Khoảng 80% trường hợp phản vệ do vaccine xảy ra trong vòng 30 phút đầu sau tiêm. Các triệu chứng có thể có là mày đay mẩn ngứa, ban đỏ, hoa mắt chóng mặt, mệt mỏi, xuất hiện nhanh sau tiêm vaccine. Sau đó các triệu chứng tiếp tục tiến triển như khó thở, choáng váng, ngất suy hô hấp, trụy tim mạch... Nếu không cấp cứu kịp thời người bệnh có thể tử vong.
Thành phần gây dị ứng trong vaccine rất đa dạng, tùy từng loại vaccine. Đó có thể là do gelatin (có trong vaccine sởi, rubela, thủy đậu...), protein trứng (vaccine sốt vàng, sởi, rubella, vaccine dại ...), protein sữa (bạch hầu, ho gà, uốn ván....).
Một số chất bảo quản trong vaccine như thimerosal, aluminum, và phenoxyethanol cũng có thể gây dị ứng. PEG và Polysorbate là hai thành phần có trong vaccine Covid-19 cũng được liệt kê là các dị nguyên tiềm năng.
Nhân viên y tế tại Hà Nội tiêm vaccine AstraZeneca. Ảnh:Giang Huy.
Nhân viên y tế tại Hà Nội tiêm vaccine AstraZeneca. Ảnh:Giang Huy.
Hiện nay, có nhiều hướng dẫn cách tiếp cận và chẩn đoán dị ứng vaccine ở những người cơ địa dị ứng. Điều quan trọng nhất vẫn là thăm khám lâm sàng. Một số hướng dẫn đề nghị test để nhận biết nguy cơ dị ứng vaccine, tuy nhiên cách này đang gây nhiều ý kiến trái chiều. Bộ Y tế cũng không khuyến cáo test dị ứng trước khi tiêm vaccine.
Theo quan điểm của tiến sĩ Lâm: "Người cơ địa dị ứng có thể test, còn trường hợp không thuộc cơ địa dị ứng không khuyến cáo test dị ứng vaccine Covid-19".
Một số phòng xét nghiệm có thể xác định được mức kháng thể dị ứng với vaccine, thông thường là kháng thể IgE đặc hiệu với vaccine hoặc thành phần vaccine. Test da cũng là phương pháp được sử dụng. Tuy nhiên test da cũng có thể gây phản ứng phản vệ, nên chỉ được thực hiện tại các đơn vị có trang bị đầy đủ phương tiện cấp cứu và được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa hoặc có chứng chỉ về việc thực hiện test này.
Ngoài ra, còn có xét nghiệm IgE đặc hiệu với dị nguyên (vaccine) như protein trứng, protein sữa, gelatin, latex và nấm mốc hoặc kháng sinh (thành phần của vaccine).
Trong một số trường hợp đặc biệt, các bác sĩ sẽ sử dụng test kích thích để chẩn đoán người bệnh có dị ứng với vaccine hay không. Tuy nhiên, đây là thủ thuật có tính nguy hiểm cao, chỉ nên tiến hành tại các cơ sở y tế có trang bị đầy đủ phương tiện cấp cứu và được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa dị ứng.
Tiến sĩ Lâm đánh giá, với các phương pháp tiếp cận và chẩn đoán dị ứng vaccine, người có cơ địa dị ứng có thể thêm cơ hội yên tâm tiêm vaccine, giúp tăng thêm số lượng cá nhân tiêm vaccine, góp phần nhanh chóng tạo nên miễn dịch cộng đồng, đẩy lùi đại dịch.
Chiến dịch tiêm chủng vaccine Covid-19 toàn dân tại Việt Nam bắt đầu hôm 10/7, kéo dài đến tháng 4/2022. Mục tiêu là tiêm miễn phí hàng năm cho nhân dân để đạt được sự miễn dịch cộng đồng trên toàn quốc. Chiến lược tiêm chủng là "tiêm đến đâu an toàn đến đấy", đảm bảo an toàn cho người được tiêm, hạn chế đến mức thấp nhất trường hợp phản vệ.
Cẩn Thận Khi Đi Máy Bay Đường Dài - Dr. Tôn Thất Hứa
Chỉ một tích tắc sau khi chiếc máy bay khổng lồ Boeing 747 đáp xuống phi trường quốc tế Frankfurt của Đức Quốc, trực thăng cứu cấp đã chờ sẵn và bốc ngay Cô Emma C. 28 tuổi, vừa đi nghỉ hè tại Sydney trở về, vào bệnh viện cấp cứu. Tất cả mọi cố gắng của toán cấp cứu và bác sĩ, y tá bệnh viện không thể cải tử hoàn sinh người nữ hành khách trẻ tuổi bất hạnh này.
Lý do tử vong: cô bị nhồi máu vào hai buồng phổi (Lungenembolie – embolie pulmonaire – plumonary embolism) do cục máu đông của hai cẳng chân dội ngược lên. Một cơn bệnh chết người gần như 100% mặc dù trình độ phát triển y học hiện đại.
Đưa ra một đề tài đang tranh luận là làm thế nào để phòng ngừa một sự thay đổi của sự đông máu trong cơ thể con người đưa đến việc đột tử.
– Phòng ngừa và làm chận đứng sự đông máu đang di chuyển trong mạch máu
– Điều hành cơ chế tạo cục máu đông
Để dễ hiểu rõ vấn đề, bài viết được thu gọn trong một số câu vấn đáp cụ thể để giải thích những dữ kiện nêu trên như sau:
*1- Một chuyến bay đường xa nguy hiểm như thế nào?
Có một điều chắc chắn là thường một chuyến bay đường dài vì sự ngồi bất động trong suốt cuộc hành trình là nguyên nhân đưa đến sự đông máu ở phần hạ chi. Bao nhiêu hành khách trong số hàng triệu triệu lữ hành hằng năm khắp năm châu bốn biển gặp phải nghịch cảnh nói trên, chúng ta không thể tìm ra được một con số chính xác. Những phi trường quốc tế London, Paris, Lyon, Sydney hay Frankfurt đã phúc trình qua nhiều báo cáo y khoa nhưng sự thật vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Lý do chính là tai biến do thành hình cục máu đông ở phần dưới cơ thể không phát hiện sớm khi máy bay đáp xuống mặt đất, mà triệu chứng lâm sàng của tai biến mạch máu lại thường xảy ra khoảng 14 ngày sau đó. Do đó thống kê của các sân bay quốc tế không thể mang ra ánh sáng những con số chính xác được. Ngoài ra còn có những bản báo cáo thiếu dữ kiện không đem lại lợi ích chung cho khách hàng… Vậy điểm rõ ràng mà mỗi hành khách trước khi lên máy bay cần phải biết: những chuyến bay trên những đoạn đường xa, thời gian càng dài là yếu tố chắc chắn tạo nên sự đông máu mà chúng ta không ai có thể lường trước được.
*2- Sự nguy hiểm do đâu mà ra?
Chúng ta chỉ biết rõ là chức năng đưa đến sự đông máu thường lại xảy ra do chỗ ngồi quá hẹp của hạng bình dân (Economy-Class) . Chính vì sự kiện ngẫu nhiên này nên người ta đã không ngần ngại và đã nhầm lẫn khi viết: triệu chứng lâm sàng của sự đông máu ở hạng du lịch bình dân (Economy-Class- Syndrom). Sự nhận xét trên không đúng 100% vì ngay cả những hành khách hạng nhất, hạng thương gia cũng bị tai biến mạch máu nêu trên. Nguyên nhân được chứng minh rõ ràng là biến chứng tạo nên do sự tạo thành cục máu nhỏ rồi phát triển và lan dần rộng ra do các cục máu tụ kết hợp lại.
Hiện tượng máu tụ được hiểu biết là do là thiếu cử động trong chuyến bay và 2 cẳng chân xếp lại do tư thế ngồi trên máy bay. Hai nhận xét này thực ra rất đúng cho các hành khách máy bay ở hạng bình dân, do chỗ ngồi khá chật chội.
*3 -Hành khách di chuyển bằng xe buýt, tàu hoả và xe hơi trên chặng đường dài có gặp phải tai biến tuần hoàn trên không?
Có, hành khách sử dụng các phương tiện du lịch vừa kể trên cũng có thể xảy ra tai biến tạo thành cục máu rồi đưa đến đông máu tĩnh mạch ở hạ chi. Tuy nhiên một điểm phải được chú ý thêm nữa là trên máy bay, khí thông trong buồng hành khách rất khô. Ví dụ trong chuyến bay, quý vị để một chén cơm nóng thì chỉ cần 1 tiếng đồng hồ sau cơm sẽ khô như chén cơm chiên. Tác động “phụ” của không khí khô khan trong buồng hành khách sẽ “hút thêm” nước từ các mạch máu của cơ thể bạn trong hành trình, sự kiện “máu cô lại” chính là yếu tố quyết định nguyên nhân bắt đầu xuất hiện những cục máu đông nhỏ nằm ở phần hạ chi của con người.
Ngoài sự khô ráo, áp lực khí trong buồng máy bay cũng giảm xuống tạo thêm một yếu tố “rút nước” trong máu rồi tích lũy vào lớp mô. Đó cũng là một lý do đưa đến máu “khô” rồi… cục máu đông sẽ dễ thành hình. Nguy hiểm hơn nữa là trong chuyến bay, hành khách theo thói quen lại thích uống rượu ‘không mất tiền’. Chất rượu sẽ làm mạch máu nở rộng thêm ra; máu lưu hành trong cơ thể chảy chậm hơn cho nên hổ trợ mạnh mẽ cho sự đông máu được nhanh hơn. Sự di chuyển bằng máy bay như vậy nguy hiểm hai lần nhiều hơn bằng xe búyt hay ô tô. Di chuyển bằng xe lửa được xem như là an toàn hơn hết.
* 4-Nhóm hành khách nào có nhiều nguy cơ tai biến mạch máu?
Tất cả hành khách đi trên các chuyến bay đều có thể gặp phải, bất luận già hay trẻ. Tuy nhiên những hành khách cao niên, phái nữ thì khả năng bị tai biến dễ gặp hơn… Ngay cả những lực sĩ cũng bị tai biến mạch máu, như trường hợp 3 lực sĩ trong phái đoàn Anh Quốc đã bị tai biến đông máu trên đường đến tham dự thế vận hội Sydney trong năm vừa qua. Ngoài ra vẫn có một số hành khách tương đối “dễ gặp phải” tai biến hơn so với những nhóm người khác…
* 5- Những ai thuộc nhóm người này?
Nhóm hành khách nằm trong diện sau đây rất có thể bị tai biến mạch máu:
a.- mập
b.- các bà dùng thuốc thuốc ngừa thai.
c.- những hành khách trên 50 tuổi
d.- các bệnh nhân có tình trạng yếu tim
e.- trong gia đình có thân nhân đã bị tai biến mạch máu
g..- một vài loại thuốc an thần trong một vài điều kiện sẽ khích động tai biến mạch máu
h.- hút thuốc lá
Hành khách nào mang trong người càng nhiều yếu tố nêu trên thì dễ gặp phải tai biến hơn.
*6- Trường hợp nào tai biến mạch máu sẽ dễ dàng khởi động?
Nằm trong diện nguy hiểm này gồm có:
a.- đã có lần bị đông cục máu trước đây
b.- bị nhiễu loạn chu trình đông máu trong cơ thể mà người ta tìm thấy qua khám nghiệm cục máu đông sau tai biến
c.- đã bị tai biến mạch máu não và bị liệt một phần của cơ thể
d.- đang bị bó bột do chấn thương gãy xương
e.- vừa bị mổ xong nhất là sau các trường hợp mổ bụng
f.- sản phụ vừa mới sinh xong
g.- bướu trong người, bướu ung thư thường khuyến khích sự đông máu
*7- Hành khách nên chuẩn bị như thế nào?
. Hành khách nên đi lui tới trong buồng máy càng nhiều càng tốt
. Khi ngồi thì nên cử động bàn chân & cẳng chân tuồng như đang lái xe hơi (đạp thắng, nhả ga…)
. Nên tham gia chương trình tập thể dục được truyền hình trong chuyến bay (Flyrobic) – hiệu quả rất khả quan.
Một điểm nên chú ý nữa là:
. Không bỏ hành lý dưới chân.
. Không hút thuốc.
Điều quan trọng đáng lưu ý :
. Không uống rượu nhiều,
. Phải uống thật nhiều nước để bù lại sự mất nước.
*8-Thế nào là uống thật nhiều nước?
Tuỳ theo nhu cầu đòi hỏi của cơ thể và cường độ khát nước; nên uống trà, nước trái cây và nước suối.
*9- Hành khách trong nhóm “dễ” bị tai biến phải chuẩn bị như thế nào?
Trong trường hợp không cấm dùng thuốc có chứa Acetylsalicylsaure thì hành khách nên uống một viên Aspirin 100mg trước khi lên máy bay. Nhóm hành khách này nên ngồi ngoài lối đi hoặc cạnh chỗ lối thoát nạn để có thể cử động dễ dàng. Theo kinh nghiệm, nên mang thêm vớ chống sự tạo thành cục máu đông.
*10 – Còn các hành khách thuộc nhóm “nguy hiểm” thì phải xử trí như thế nào.
Nhóm người thuộc diện “nguy hiểm” thì phải nên suy nghĩ tìm một phương tiện chuyên chở an toàn hơn; tuy nhiên nếu phải xử dụng máy bay thì bắt buộc gặp bác sĩ gia đình trước khi lên đường, thường thì được chích loại thuốc loãng máu “Heparin” hai tiếng đồng hồ trước khi máy bay cất cánh. Thuốc “Heparin” có công hiệu trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Chuẩn bị thuốc men vẫn chưa đủ, hành khách thuộc nhóm “nguy hiểm” này phải tuân theo đúng những lời hướng dẩn đã nêu trên trong suốt hành trình.
*11- Thời gian và khí hậu thay đổi có kéo thêm sự khó khăn không?
Quá đúng như vậy. Vì giờ giấc bị thay đổi cho nên thời điểm cần phải uống thuốc cũng bị ảnh hưởng theo. Bệnh đái đường là nhóm người bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nhóm bệnh nhân dùng thuốc loãng máu “Macumar” không bị nhiễu loạn mạnh vì hiện tại thì thuốc “Macumar” được chia đều cho 7 ngày, nhóm hành khách trên thường không gặp phải biến chứng. Những chuyến du hành đến miền nhiệt đới hay về Việt-Nam thì tai biến đông máu thường dễ gặp phải hơn, vì khí hậu nóng và ẩm tại chỗ ngay sau khi đáp xuống phi trường địa phương dễ “khuyến khích” tai biến tạo cục máu đông. Một điểm nữa cũng phải cần lưu ý là các chuyến bay ban đêm dễ bị tai biến nhiều hơn những chuyến bay ban ngày vì ban đêm cơ thể thường ít hoạt động hơn.
*12- Phía các hãng máy bay quốc tế nên thay đổi thế nào để giảm bớt tai biến đông máu?
Các hãng máy bay quốc tế chuyên dành cho các “hành trình dài” phải tôn trọng các điều kiện căn bản tối thiểu để bảo vệ sức khỏe và sinh mạng hành khách. Chúng tôi thiết nghĩ:
. quảng cáo ưu điểm các bít tất có sức “co dãn mạnh” để ôm sát vào cẳng chân chống việc ứ máu phần hạ chi và cho phép bán trên máy bay.
. các hành khách “mập” phải có những “ghế bành ngồi” phù hợp với “thân hình đồ sộ” của khách hàng.
.. và khách hàng chuẩn bị “túi tiền” cho vé máy bay có tất cả điều kiện thích hợp để có sự bảo đảm về sức khoẻ trong chuyến bay và cho một cuộc sống chắc chắn sau khi đáp xuống phi đạo.
Saturday, November 25, 2017
Tìm Hiểu Về Protein - BS Hồ Ngọc Minh
Tôi thường khuyên bạn đọc nên bớt ăn đường và tinh bột, tăng lượng protein, và ăn mỡ thì cũng không đến nỗi tệ như quan niệm cũ. Trong bài nầy, ta sẽ ôn lại một số kiến thức cơ bản về protein.
Protein, chất đạm, cần thiết cho sự sống, có mặt trong mọi tế bào, các mô xây dựng nên các cơ phận nội tạng. Protein, cần thiết cho mọi hoạt động của cơ thể, từ tăng trưởng cho đến bảo trì. Tất cả những thức ăn chúng ta ăn vào, ngoại trừ đường, không ít thì nhiều đều có chứa protein.
Một số protein đóng vai trò truyền dẫn tín hiệu của hormone hay kháng thể, số khác giúp bảo trì và tăng trưởng các mô, tế bào, như bắp thịt, tế bào máu, và phần còn lại dùng làm năng lượng, hay biến sang mỡ, hay đa đường, để dành.
Ngày xưa còn bé, tôi thường nghe người lớn nói, ăn gì thì bổ cái ấy, thí dụ như ăn tim thì bổ tim chẳng hạn. Điều này không hoàn toàn đúng hẳn. Protein là những chuỗi hóa chất hữu cơ được cấu tạo từ các phân tử amino acids. Khi ta ăn thức ăn, protein được tiêu hóa thành amino acids, cơ thể sẽ hấp thụ những amino acids nầy và kết hợp trở lại thành những protein cần thiết cho cơ thể. Đại khái như trò chơi sắp LEGO của trẻ con. Những mẫu LEGO được tháo rời ra và sắp đặt trở lại. Lá gan có thể tổng hợp được 80% amino acids cần thiết từ protein có trong thực phẩm, phần còn lại phải đến nguyên thuỷ từ thức ăn.
Có 22 loại amino acids, trong đó 9 loại không thể tổng hợp bởi cơ thể mà phải đến từ thức ăn, gồm có, phenylalanine, valine, threonine, tryptophan, methionine, leucine, isoleucine, lysine, và histidine. Trong số 13 loại amino acids kia, 6 loại chỉ được tổng hợp khi cơ thể bị stress, gồm có, arginine, cysteine, glycine, glutamine, proline, và tyrosine. Còn lại, có 5 loại cơ thể thường xuyên tổng hợp, gồm có, alanine, aspartic acid, asparagine, glutamic acid và serine.
Như thế, vì protein có vai trò quan trọng cho nhiều chức năng trong cơ thể, từ hệ thống miễn nhiễm, xương cốt và bắp thịt, cấu trúc cơ thể, sự sanh sản, và nhiều thứ khác nữa, protein là một nhu cầu quan trọng cho tất cả mọi người, từ giữ gìn sức khỏe cơ bản cho đến những hoạt động đòi hỏi sự bền bỉ, như thể dục thể thao.
Khi nói đến protein, không nhất thiết là chỉ thịt động vật mới có protein, tuy rằng, có thể hiểu đồng nghĩa protein với các loại thức ăn có chứa protein là thành phần chính so với tinh bột hay chất béo. Thí dụ, cá thu, gà tây, thịt bò được kể là protein vì hàm lượng protein rất cao. Trứng gà tuy có mỡ, cholesterol, nhưng vẫn kể là protein vì có chứa nhiều protein trong đó. Ngược lại, tuy bơ đậu phụng có chứa protein, nhưng lại là chất béo vì có nhiều chất béo hơn. Hoặc đậu đen, lại kể là tinh bột cho dù cũng có protein. Đa số thực vật tuy có protein nhưng lại thiếu hàm lượng của một số amino acids cần yếu. Để có đủ cân bằng về protein, nên ăn protein từ đủ các nguồn khác nhau, từ thực vật đến thịt cá, tuy rằng nên hạn chế ăn thịt đỏ càng ít càng tốt.
Trung bình chúng ta cần khoảng 0.6 gram protein mỗi ngày cho mỗi kilogram sức nặng. Tuy nhiên đó là lượng protein tối thiểu cho một cơ thể vận động trung bình. Trong trường hợp phải vận động nhiều, thể dục, thể thao, cần đến 0.8-1.0 gram protein cho mỗi kilogram sức nặng.
Không riêng gì những người tập tạ cần nhiều protein để xây dựng bắp thịt mà cả những người tập cardio như chạy bộ hay chạy xe đạp cũng cần protein nhiều hơn, vì lý do khi tập cardio nhiều, hệ thống miễn nhiễm sẽ bj tạm thời yếu đi. Vì protein đóng vai trò quan trọng cho hệ thống đề kháng, nó sẽ giúp cho những người chạy bộ đường trường, chạy xe đạp, hay các môn thể thao đòi hỏi sức bền, chóng hồi phục.
Để đo lường, có thể dùng bàn tay, ước lượng số protein có trong thực phẩm. Thí dụ, một lát thịt bằng độ lòng bàn tay, có chứa khoảng 20 đến 30 gram protein. Một khúc cá khoảng bằng nắm tay cũng chứa khoảng 20-30 gram protein. Một ly sữa có thể tích hơn một nắm tay rưởi có chứa khoảng 10 gram protein. Một nắm tay đậu đen, đậu đỏ, hay đậu nành có chứa 8 đến 10 gram protein. Một muỗng canh bơ đậu phụng có chứa 6 gram protein. Một quả trứng gà có chứa 6 gram protein.
Ở đây xin mở ngoặc, trứng có lẽ là nguồn protein tốt nhất. Đừng sợ trứng gà có chứa nhiều cholesterol. Mỗi ngày lá gan của chúng ta “đẻ ra” khoảng 10-12 cái trứng gà, và khi ăn trứng gà, cơ thể lại bớt sản xuất ra cholesterol, vì thế cuối ngày lại huề vốn. Vả lại cholesterol có trong trứng gà vì kích thước lớn nên ít gây ra việc nghẽn mạch máu.
Riêng với những người ăn chay, nếu theo trường phái không được ăn trứng gà hay thực phẩm chế biến từ sữa, sẽ rất khó để bảo đảm nhu cầu protein. Rất nhiều đồ ăn đến từ thực vật có chứa khá nhiều protein như các loại đậu, bơ đậu phụng, nhưng để có đủ lượng protein thì phải ăn nhiều, vì thế, có khi phải cần đến sữa whey protein như Ensure hay các sản phẩm tương tự. Một muỗng lớn, 30 gram bột whey protein có chứa khoảng 20 gram protein. Whey protein được biến chế từ sữa. Có nhiều người hiểu lầm, bột whey protein có chứa kích thích tố steroid hormone trong đó vì thấy những lực sĩ vai u thịt bắp thường uống loại protein này. Trên thực tế, “sữa người già”, Ensure, cũng được chế biến từ whey protein, nhưng lại chứa nhiều đường hơn.
Ngoài ra, muốn giảm cân, ta nên ăn nhiều protein vào đầu ngày, hay càng sớm càng tốt vì so với các loại thức ăn khác có chứa nhiều tinh bột hay chất béo, protein làm cho chúng ta mau no và no lâu. Trên nguyên tắc, khi ăn đúng hàm lượng protein mỗi ngày, ta dễ có sức nặng lý tưởng hơn là ăn những loại thức ăn có chứa tinh bột hay chất béo.
Thật ra, ăn nhiều protein không có nghĩa là ăn càng nhiều càng tốt, nhất là khi nguồn protein đến từ thịt động vật nhất là thịt đỏ. Ta cũng không nên ám ảnh nhiều về việc ăn sao cho đủ protein mà quên mất những nguồn thức ăn khác. Nên ăn nhiều rau đậu, nếu muốn sống lâu.
Trong vòng một thế kỷ qua, tuổi thọ trung bình kể từ lúc sinh ra của người sống tại Mỹ đã tăng lên đáng kể, từ 47 tuổi năm 1900, lên đến 77 tuổi năm 2004. Tính ra, vào năm 2030, người trên 65 tuổi sẽ chiếm hơn 20% dân số, tức khoảng 70 triệu người.
Hệ thống duy trì sức khỏe cho các vị cao niên tại Mỹ tốt, nhờ vào các phương cách y khoa phòng ngừa. Việc ngừa bệnh và tăng cường sức khỏe tại Mỹ hiện được chia làm ba cách: primary prevention (phòng ngừa tiên khởi, phòng ngừa thứ nhất), secondary prevention (phòng ngừa thứ nhì) và tertiary prevention (phòng ngừa thứ ba).
Phòng ngừa tiên khởi nhắm mục đích ngừa đừng để bệnh xảy ra trong tương lai; phòng ngừa thứ nhì nhắm mục đích tìm và chữa bệnh sớm trong giai đoạn bệnh chưa gây triệu chứng; phòng ngừa thứ ba nhận định tình trạng sức khỏe hiện tại của người bệnh, tìm các phương cách giúp người bệnh sống khỏe mạnh và an toàn hơn.
Phòng ngừa tiên khởi
Các vị cao niên nên tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày một tuần; bỏ ngay thuốc lá nếu đang hút; bớt uống rượu nếu có uống rượu nhiều. Thể dục thường xuyên giúp chúng ta tăng cường sức khỏe; giảm thiểu nguy cơ bị các bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, cao áp huyết, tiểu đường, rỗng xương, béo mập, ung thư ruột già, ung thư vú, căng thẳng tinh thần (anxiety), buồn chán (depression) , lẫn; giúp bớt té ngã, như vậy, ngừa những chấn thương do sự té ngã; khiến chúng ta sinh hoạt trong đời sống hàng ngày khá hơn; và cũng là cách trị liệu hữu hiệu trong nhiều trường hợp bệnh, như các rối loạn tinh thần khiến chúng ta lúc buồn lúc vui (mood disorders), lẫn, đau nhức kinh niên, suy tim, tai biến mạch máu não, bón, khó ngủ.
Aspirin nên được dùng cho những vị mang nguy cơ có thể sẽ bị bệnh tim mạch trong vòng 5 năm tới (nguy cơ >3% so với người thường), chẳng hạn như những người có bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, chúng ta cẩn thận khi dùng aspirin vì aspirin có thể gây chảy máu đường tiêu hóa, nhất là cho các vị trên 75 tuổi, các vị có bệnh loét bao tử hoặc từng chảy máu đường tiêu hóa trong quá khứ, các vị đang uống những thuốc warfarin, steroid.
Cứ mỗi 10 năm, chúng ta chích ngừa phong đòn gánh (tetanus), để lỡ có đứt tay trầy chân, chúng ta yên tâm sẽ không bị phong đòn gánh, một bệnh nhiễm trùng nguy hiểm có thể gây tử vong. Thuốc thường được pha chung với thuốc ngừa bệnh bạch hầu (diptheria, một bệnh nhiễm trùng nguy hiểm tạo những màng trắng ở họng), nên được gọi là thuốc chích ngừa Td (tetanus- diptheria vaccine).
Hàng năm, các vị cao niên 65 tuổi trở lên nên chích ngừa cúm khoảng tháng 10, 11, trước khi cúm đến vào mùa Đông. Người dưới 65 tuổi song đang mang các bệnh tim, phổi, hoặc những bệnh kinh nhiên khác khiến sức để kháng của cơ thể suy giảm, cũng nên chích ngừa cúm.
Các vị cao niên 65 tuổi trở lên cần chích ngừa bệnh sưng phổi pneumococcus, chỉ cần một lần trong đời. Giống ngừa cúm, người dưới 65 tuổi song đang mang các bệnh tim, phổi, hoặc những bệnh kinh nhiên khác khiến sức để kháng của cơ thể suy giảm, cũng nên chích ngừa sưng phổi pneumococcus.
Gần đây, có thuốc chích Zostavax ngừa bệnh shingles (một bệnh do siêu vi, gây đau đớn, có khi rất dữ, nhất là cho người lớn tuổi, Việt Nam ta hay gọi nôm na là “bệnh giời ăn”), các vị 60 tuổi trở lên nên chích thuốc Zostavax ngừa bệnh này.
Phòng ngừa thứ nhì
Phòng ngừa thứ nhì (secondary prevention) gồm việc truy tìm các ung thư ruột già, vú, nhiếp hộ tuyến, cổ tử cung; đo áp huyết định kỳ; thử máu xem có cao các chất mỡ trong máu; truy tìm bệnh rỗng xương; truy tìm bệnh phình nở động mạch aorta trong bụng (abdominal aortic aneurysm).
50 tuổi trở lên, cả đàn ông lẫn phụ nữ, chúng ta nên truy tìm ung thư ruột già, dù không có triệu chứng gì cả. Phương pháp truy tìm ung thư ruột già tốt nhất là soi toàn ruột già (colonoscopy) , nếu bình thường, 10 năm chúng ta sẽ soi lại.
Nguy cơ bị ung thư nhiếp hộ tuyến tăng sau tuổi 50. Tiếc thay, hiện vẫn chưa có phương pháp truy tìm ung thư nhiếp hộ tuyến thực chính xác. Từ 50 tuổi trở lên, đàn ông chúng ta nên nhờ bác sĩ thăm khám nhiếp hộ tuyến hàng năm, và thảo luận với bác sĩ có nên thử PSA hay không. [Thường chất PSA trong máu tăng cao khi có ung thư nhiếp hộ tuyến, nhưng có nhiều trường hợp thử thấy PSA tăng cao, khi đâm kim lấy mô nhiếp hộ tuyến xem dưới kính hiển vi (biopsy), không thấy có ung thư, ngược lại, cũng có trường hợp ung thư, song PSA lại không cao nhiều, nên phương pháp truy tìm ung thư này không thực chính xác lắm, việc có nên thử PSA hay không sẽ tùy vào ý muốn của bạn, sau khi nghe lời giải thích của bác sĩ.]
Ung thư vú tăng cao nhiều sau tuổi 50. Từ tuổi 40 trở đi, phụ nữ nên đi khám vú hàng năm, và chụp phim vú mỗi 1-2 năm. Đến tuổi 50 trở đi, vẫn đến bác sĩ khám vú hàng năm, và mỗi năm nên chụp phim vú.
Việc làm Pap smear để truy tìm ung thư cổ tử cung cần được tiếp tục cho đến khi quá tuổi 65-70 mới ngưng, nếu ít nhất 3 lần làm Pap smear trong vòng 10 năm trước đó hoàn toàn bình thường.
Cao áp huyết xảy ra rất nhiều ở người có tuổi, đưa đến các biến chứng tim mạch như chết cơ tim cấp tính (heart attack), tai biến mạch máu não (stroke). 1-2 năm, chúng ta nên đến nhờ bác sĩ đo hộ áp huyết, để nếu có cao áp huyết còn sớm chữa.
Bệnh rỗng xương nhiều ở phụ nữ đã mãn kinh. Phụ nữ 65 tuổi trở lên nên chụp phim truy tìm rỗng xương. Phụ nữ trước tuổi 65, đã mãn kinh, tùy trường hợp, bác sĩ sẽ khuyên chụp phim hay không.
Đàn ông hút thuốc lá có thể bị phình nở động máu aorta trong bụng (abdominal aortic aneurysm), nếu bể vỡ dễ gây tử vong. Đàn ông 65-75 tuổi hút thuốc lá hay từng hút trong quá khứ, hoặc có anh, em bị bệnh phình nở động máu aorta trong bụng, nên làm siêu âm bụng một lần để truy tìm bệnh phình nở động máu aorta.
Phòng ngừa thứ ba
Phòng ngừa thứ ba (tertiary prevention) nhận định hiện trạng sức khỏe của người bệnh, và tìm các phương cách giúp người bệnh sống khỏe mạnh và an toàn hơnỞ các vị cao niên, phòng ngừa thứ ba gồm những việc bác sĩ nhận định sức khỏe tổng quát của các vị, những hoạt động để chăm sóc cho chính bản thân hàng ngày (tắm rửa, ăn uống, …), rồi về mặt trí óc, tri thức có sáng suốt không, về mặt tinh thần, có dấu chứng buồn chán (depression) không.
Về mắt, các vị cao niên nên được khám bởi bác sĩ chuyên khoa Mắt mỗi 1-2 năm, truy tìm những bệnh quan trọng như cao áp suất mắt (glaucoma). Về tai, bác sĩ cũng nên để ý xem tai vị cao niên có nghe kém không.
Về dinh dưỡng, các vị cao niên cần một thực phẩm đầy đủ những chất cần cho cơ thể. Các vị cần ít nhất 1200 mg calcium, 800 đơn vị sinh tố D mỗi ngày. Hàng ngày, thuốc đa sinh tố (multivitamins) cũng rất tốt, ngừa một số bệnh kinh niên có thể xảy ra do thiếu sinh tố. Nếu vị cao niên nào xuống cân, 10% hay hơn sức nặng trong vòng 1 năm qua, bác sĩ cần lưu ý và tìm hiểu tại sao.
Hàng năm, có khoảng 30% người cao niên té ngã, tỉ lệ này tăng lên 50% ở các vị trên 80 tuổi. Té ngã có thể đưa đến gãy xương hoặc phải vào nhà thương, nên các phương cách giúp tránh té ngã cũng là những phòng ngừa quan trọng ở các vị cao niên. Các yếu tố khiến dễ té ngã gồm những thay đổi vóc dáng, cách đi đứng do tuổi tác, mắt kém, tri thức không sáng suốt, bệnh ảnh hưởng đến sức mạnh và sự phối hợp của các bắp thịt, các yếu tố môi trường (sàn nhà trơn trượt, thảm trải sàn không được chắc, đèn không đủ sáng, giầy dép không vừa chân, lỏng lẻo, vân vân), thuốc dùng. Riêng về thuốc, càng dùng nhiều thuốc, càng dễ có phản ứng phụ của thuốc và té ngã, bác sĩ nên thường xuyên nhận định thuốc nào vị cao niên còn cần, thuốc nào không cần nữa nên bỏ. (Khi đi khám bệnh, chúng ta nên luôn mang thuốc theo, và cho bác sĩ biết thuốc nào còn cần, thuốc nào không thấy cần nữa.)
Ngoài ra, nhưng việc khác như tiểu són, còn lái xe được không, ở nhà có bị con cái hất hủi, bỏ bê không, vân vân, bác sĩ cũng cần để ý thăm hỏi, giúp các vị cao niên giải quyết vấn đề.
Sức khỏe còn quí hơn vàng. Chúng ta may mắn sống trên đất Mỹ, nơi có nền y khoa tốt. Hiểu biết về các phương cách ngừa bệnh và duy trì sức khỏe ở đây, chúng ta không những sống khỏe mạnh và an toàn GÌ?
Uống thuốc vơí nước gì tốt nhất
Đối với nhiều người, uống thuốc với bất cứ nước gì có vẻ không quan trọng, thậm chí có người lựa chọn hẳn một loại nước có mùi vị thích hợp, nhằm loại trừ cảm giác khó chịu do dùng thuốc. Như có người uống thuốc với nước trà (chè) hoặc với nước trái cây (nước cam, nước chanh…) hay với nữ, thậm chí với bia rượu là loại thức uống đang có sẵn hay chỉ đểu có cảm giác dễ chịu!
Điều vừa kể thật ra có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị của thuốc, vì nếu dùng loại nước không thích hợp sẽ ảnh hưởng đến sự hấp thu của thuốc ở hệ tiêu hóa, đưa đến thuốc bị giảm tác dụng hay không còn tác dụng điều trị.
*Nước gì tốt nhất?
Nước lã đun sôi để nguội hoặc nước lọc hợp vệ sinh là loại nước tốt nhất dùng để uống thuốc. Uống thuốc với loại nước này với lượng nước đủ sẽ giúp đưa thuốc viên (viên nén hoặc viên nang) từ miệng xuống nhanh đến dạ dày, tan rã và hòa tan tạo dung dịch thuốc, sau đó trôi xuống ruột là vị trí dược chất sẽ hấp thu vào máu cho tác dụng.
Đối với thuốc là viên nang hay còn gọi là viên nhộng là dạng dễ nuốt, một số người uống khan, không uống chung với nước (đặc biệt là người cao tuổi do rối loạn tiểu tiện thường đi tiểu lắt nhắt rất ngại uống nước), viên nang uống khan có thể dính lại ở thực quản gây viêm loét thực quản rất tai hại. Vì vậy, uống thuốc với lượng nước đủ là cần thiết, thậm chí có một số thuốc đòi hỏi phải uống nước thật nhiều (như thuốc chứa dược chất sulfamid) để thuốc được lọc, bài tiết nhiều theo nước tiểu không gây đóng sỏi hại thận.
Có thể dùng nước đóng chai nhưng phải là nước tinh khiết chứ không nên dùng nước chứa các chất khoáng (còn gọi nước suối) để uống thuốc, bởi vì chất khoáng như: canxi, natri… có thể tương kỵ gây ảnh hưởng đến thuốc.
*Các loại nước không nên dùng?
Tùy trường hợp, có loại nước hoàn toàn không thích hợp vì nếu uống với thuốc sẽ làm mất tác dụng của thuốc hay gây hại đối với cơ thể, cụ thể như sau:
Sữa: trong sữa có chứa canxi có thể kết hợp với một số kháng sinh (như tetracyclin) tạo thành phức hợp không tan, làm kháng sinh không hấp thu được vào máu để cho tác dụng. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp thuốc nên uống chung với sữa. Như dùng thuốc gây bào bọt dạ dày (aspirin), hay dễ nôn ói (thuốc ngừa thai phải uống hàng ngày dễ gây buồn nôn ở một số phụ nữ), hay cần chất béo để thuốc dễ hấp thu (vitamin A, vitamin D) thì cần uống chung với sữa. Như vậy, để lựa chọn đúng thức uống uống với thuốc nên hỏi bác sĩ hay dược sĩ để được tư vấn.
Cà phê, trà, nước giải khát có ga: trong các loại nước này, đặc biệt nước ngọt, nước tăng lực đều có chứa caffein (là chất kích thích giúp tỉnh táo) sẽ kết hợp với thuốc bổ chứa sắt, tạo thành chất kết tủa không hấp thu được. Ngoài ra, caffein còn làm giảm tác dụng các thuốc được dùng nhằm an thần gây ngủ nếu uống cùng lúc.
Nước ép trái cây: nhiều loại nước ép trái cây hiện nay đã được chứng minh là gây hại nếu uống chung với thuốc. Nước cam, nước táo dùng uống thuốc có thể làm giảm sự hấp thu một số thuốc, do làm chất sinh học ở ruột đảm nhận việc chuyển vận thuốc vào máu không hoạt động được. Nghiêm trọng nhất là nước bưởi chùm (grape-fruit, là loại bưởi dùng nhiều ở phương Tây, nhưng thận trọng cũng nên lưu ý cả nước bưởi trồng ở ta). Khi uống chung với một số thuốc (như thuốc statin trị rối loạn lipid huyết, thuốc atenolol trị tăng huyết áp…) nước bưởi chùm sẽ làm tăng độc tính của thuốc, do ức chế men chuyển hóa thuốc ở gan, làm tăng nồng độ thuốc quá đáng ở trong máu.
Bia rượu: đây là loại thức uống không nên uống chung với thuốc. Rượu làm tăng độc tính hại gan của paracetamol, tăng độc tính hại dạ dày của aspirin, tăng độc tính gây mê của thuốc an thần gây ngủ. Riêng với kháng sinh như: metronidazol, các cephalosporin… nếu uống chung với rượu bia sẽ gây phản ứng antabuse gây vật vã, hạ huyết áp rất khó chịu làm người dùng thuốc cứ tưởng sắp chết đến nơi.
Trong thời gian dùng bất cứ loại thuốc nào, an toàn hơn hết là kiêng hẳn, không nên uống rượu bia.
Saturday, December 9, 2017
Hiện Tượng Mất Trí Nhớ Và Bệnh Alzheimer - BS Hồ Ngọc Minh
Tình trạng mất trí nhớ (dementia) thường xảy ra cho người già, nhưng không phải mọi người khi già đều mất trí nhớ. Nhiều người tưởng lầm là sự mất trí nhớ và bệnh Alzheimer cùng là một thứ bệnh, nhưng thật ra không phải như vậy. Trung bình chỉ có 10% số người trên 65 tuổi bị bệnh Alzheimer, nhưng cho những cụ trên 85, tỉ số là 1/3. Hiện nay, theo ước tính, có khoảng năm triệu người Mỹ trên 65 tuổi bị bệnh Alzheimer và trên toàn thế giới có khoảng 35.6 triệu người bị mất trí nhớ.
Nói đúng ra, trí nhớ của tất cả mọi người đều không hoàn hảo. Có những dữ kiện chúng ta tưởng là nhớ đúng 100% nhưng trên thực tế theo thời gian, trí nhớ bị phai mờ với những “lỗ hổng”. Bộ não chúng ta sẽ tìm cách điền vào những “chỗ trống” đó bằng những hư cấu không có thực hay không chính xác. Vì thế khi chúng ta lớn tuổi, chuyện giảm trí nhớ xảy ra cho tất cả mọi người, nhưng mức độ và tốc độ suy sụp tùy theo bản chất của mỗi cá nhân. Riêng những người bị Alzheimer, tốc độ suy sụp rất nhanh, có khi trong vòng vài tháng đã thấy sự khác biệt.
Thế thì, những dấu hiệu khác biệt đó là gì?
Hầu hết các sách y khoa đều nói rằng dấu hiệu sớm nhất của bệnh Alzheimer là mất trí nhớ. Khổ nỗi là sự mất trí nhớ không xảy ra qua đêm trong thời gian đầu nên rất khó mà nhận biết. Mà nếu có chút lãng trí xảy ra thì thường bị bỏ qua, hay bị người thân phán cho những chữ như “già rồi, lẩm cẩm” là xong câu chuyện. Một khi sự mất trí nhớ xảy ra có thể nhận thấy được thì thường là quá trễ.
Người có triệu chứng Alzheimer thường bắt đầu lặp lại những câu chuyện hay câu hỏi nhiều lần và bất chợt. Ví dụ, có khi họ đang nói chuyện thời năm 1975, đùng một cái nhảy qua nói chuyện đánh football năm 2015, rồi quay lại thời cụ Diệm bị đảo chánh và vài ngày sau lại nhắc lại những chuyện đó. Hoặc, họ có vấn đề theo dõi câu chuyện của người khác. Ví dụ người ta đang bàn chuyện đám cưới, người có vấn đề lại “đóng góp” chuyện lính Mỹ đổ bộ ở Normandy! Nghĩa là, nhớ đâu nói đó, không có thứ tự. Không nên nhầm lẫn với thói quen tư duy của người bệnh. Đa số, thường bị bỏ qua là “lâu nay tánh vẫn thế!”
Cùng lúc với chuyện lãng trí, quên chỗ này, chỗ kia, dấu hiệu sớm nhất của bệnh Alzheimer là việc đi đứng không vững và hay té ngã. Dĩ nhiên là khi người lớn tuổi, hay bị té ngã có thể do nhiều nguyên do khác nhau đưa đến, nhưng không nên bỏ qua mà phán cho câu “già yếu nên như vậy”. Có người đang ngồi trên ghế vẫn bị té lăn quay xuống đất vì không giữ được thăng bằng, như vậy không phải hoàn toàn là yếu!
Người bị Alzheimer thường có dáng đi như lê lết trên mặt đất như chim cánh cụt. Họ không nhấc được bàn chân khỏi mặt đất và hai chân thường hay bị quíu, như không biết chân nào phải bước trước và chân nào theo sau. Có khi họ như lúng túng muốn bước hai chân tới trước cùng một lúc. Đó là lý do tại sao họ dễ bị té.
Ngoài ra, lý do dễ mất thăng bằng, và hay bị té là khả năng nhìn vật thể chung quanh theo định thức không gian 3 chiều không còn chính xác nữa. Thí dụ cái bàn, cái ghế có thể bị nhìn méo đi, hay khoảng cách ước lượng từ điểm A đến điểm B không còn đúng nữa.
Khoa học vẫn chưa tìm ra gene di truyền gây ra bệnh Alzheimer. Người ta đã tìm khắp bộ DNA của con người và ghi nhận được 33 điểm khả nghi. Tuy nhiên những người có gene apolipoprotein E (APOE) ở trên nhiễm sắc thể số 19 sẽ có nguy cơ tăng cao. Ngoài ra nguy cơ có thể thay đổi qua sự tương tác giữa gene và môi trường.
Căn nguyên của bệnh Alzheimer là do những vẩy (plaques) chung quanh tế bào não, tương tự như vẩy đóng trong mạch máu. Khác với vẩy cholesterol trong máu, những vẩy trong não này được tạo thành bởi chất protein. Những vẩy protein như những chất cách điện, hệ quả là những tín hiệu được truyền đi từ một tế bào thần kinh nầy đến tế bào khác bị ngăn chặn. Hiện tượng cách ly này không chỉ xảy ra giữa tế bào này với tế bào khác mà còn ở ngay trong tế bào thần kinh, như những chùm tơ nhện, gọi là “tangles of Tau protein”. Ngoài việc cách ly sóng điện, những vẩy protein còn tiết ra chất độc để hủy diệt tế bào thần kinh, vì thế não bộ dần dần teo nhỏ lại.
Hiện tượng đóng vẩy không xảy ra qua đêm mà kéo dài có khi cả chục năm trước khi triệu chứng đầu tiên xuất hiện. Nói cho dễ hiểu, “người thường” không có bệnh Alzheimer cũng bị đóng vẩy trong não chút đỉnh khi… già yếu. Nhưng đối với người có bệnh, tốc độ suy sụp, đổ dốc sẽ rất nhanh.
Dĩ nhiên, triệu chứng mấu chốt của bệnh mất trí nhớ phải là sự mất khả năng tư duy, khả năng nhớ, nhưng những triệu chứng khác do sự suy yếu của não bộ đưa đến, ví dụ như khả năng nói và vệ sinh cá nhân sẽ xảy ra cùng lúc, chứ không theo thứ tự.
Như thế, sự suy yếu xảy ra một cách toàn bộ, từ trí nhớ, đến suy yếu thị giác và khả năng giữ thăng bằng. Khi bệnh càng nặng, người bệnh sẽ mất khả năng tư duy, không còn nhận biết người quen, không nhớ những chuyện mới xảy ra gần như tức thì. Họ sẽ có vấn đề hiểu câu hỏi, sử dụng từ ngữ để diễn tả hay tốn nhiều thì giờ để trả lời một câu hỏi có khi rất đơn giản. Khuôn mặt như khờ đi, không biểu lộ được cảm xúc. Họ mất khái niệm về thời gian và không gian. Tâm tính của người bị mất trí nhớ cũng thay đổi, có khi họ trở nên trầm cảm, cô đơn nhưng có lúc hung dữ, bướng bĩnh vì trong tư duy hạn hẹp, không ai hiểu được họ. Cuối cùng là mất luôn khả năng vệ sinh cá nhân như tiểu tiện và đại tiện. Người bệnh chỉ nhận biết được một vài người thân săn sóc cho họ. Khi thiếu những người này, hay khi phải rời xa những môi trường quen thuộc, thường sẽ bị kích động những cơn sợ khủng hoảng tinh thần, gọi là panic attacks, làm cho họ cứng người đi, càng dễ bị té ngã thêm.
Trong phạm vi bài viết này, tôi không đi sâu vào việc chẩn bệnh và thuốc chữa trị. Tuy nhiên, dựa trên những kiến thức cơ bản ở trên, tôi hy vọng bạn đọc có thể phát hiện ra bệnh tình của người thân và đưa họ đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt. Nên nhớ tất cả các loại “thuốc chữa” hiện nay không có khả năng chữa dứt bệnh mà chỉ làm cho tốc độ phát triển của bệnh chậm đi. Và nếu thuốc chữa càng sớm thì chất lượng đời sống của bệnh nhân cũng như của người thân săn sóc cho bệnh nhân sẽ đỡ khổ hơn nhiều.
Nói chung, mọi người khi lớn tuổi đều có nguy cơ bị mất trí nhớ. Để giảm bớt nguy cơ bị mất trí nhớ, một số biện pháp cần thực thi ngay từ bây giờ:
Trước hết, bạn phải có một chế độ ăn uống cân bằng, điều độ, nhiều rau trái, tập thể dục đều đặn, như đi bộ ba tới năm giờ mỗi tuần, và ngủ đủ tám tiếng mỗi ngày. Ngủ đêm không đủ thì tranh thủ ngủ ngày! Những người ngủ đầy đủ và có ngủ trưa thường sống lâu và ít bị mất trí nhớ.
1. Học khiêu vũ:
Ta nói nôm na là tập… “nhảy đầm”. Nghiên cứu đăng trên tờ New England Journal of Medicine năm 2003 cho biết khiêu vũ vừa là một môn thể dục thể thao, vừa là một trò chơi đòi hỏi suy nghĩ, tiến thoái trong mỗi bước. Khi khiêu vũ, lượng máu không những chỉ dồn về bắp thịt mà còn đổ về phía não bộ nhiều hơn vì khiêu vũ đòi hỏi cả thể lực lẫn trí tuệ.
2. Học chơi một thứ nhạc cụ hoặc nghe nhạc:
Nhiều nghiên cứu cho thấy người chơi nhạc cụ trên 10 năm sẽ có trí nhớ tốt hơn một người không chơi nhạc. Trong trường hợp bạn không có đủ thời giờ hay năng khiếu âm nhạc, nên tập nghe và thưởng thức âm nhạc.
3. Học một ngôn ngữ khác:
Một nghiên cứu đăng trên tờ Neurology năm 2013 cho biết những người nói thông thạo hai thứ tiếng, khả năng bị mất trí nhớ chậm đi bốn năm rưỡi so với người chỉ biết một thứ tiếng.
4. Học đánh cờ hay chơi video game:
Một nhiên cứu của Pháp năm 2013 cho thấy những ai chơi cờ, hay chơi các loại game như bingo, xì lát, poker… ( nhưng đừng ghiền quá, và cũng tránh “ngồi computer” hay TV nhiều nhé ), khả năng bị mất trí nhớ giảm đi 15%.
5. Đọc sách:
Không cần phải đọc nhiều, nhưng khi đọc sách nên bỏ thì giờ suy nghĩ, nghiền ngẫm nội dung của sách, truyện. Đọc truyện mới lạ có lợi hơn là đọc chuyện cũ đã biết. Đừng đọc Thiên Long Bát Bộ hay Tam Quốc Chí đến lần thứ 10!
6. Chú tâm làm một việc cho xong, đừng ôm đồm nhiều thứ vô một:
Người chú tâm làm xong một việc ít bị lãng trí hay mất trí nhớ hơn người làm hai ba việc cùng một lúc. Ví dụ khi ăn thì đừng xem TV! Ngoài ra nên biết dùng thời giờ một cách hữu hiệu.
7. Học đan, may vá, hay làm vườn:
Khảo sát thống kê năm 2013 cho biết những người có những thú vui kể trên, trí óc minh mẫn hơn những người không có “thú vui ” để tiêu khiển.
8. Sống có mục đích:
Sống lạc quan, yêu đời và có giao thiệp với bạn bè người thân làm bớt tình trạng cô độc, sầu muộn.
9. Tập viết:
Viết văn, viết truyện, viết thơ cho bạn bè, viết nhật ký, viết hồi ký… làm giảm khả năng mất trí nhớ về sau.
10. Cuối cùng, tập làm việc nhà:
Những người làm lụng chân tay, làm việc trong nhà ít bị mất trí nhớ hơn người ngồi một chỗ xem TV hay nhìn “bóng câu qua khung cửa sổ”.
Nói chung là phải tích cực động não. Tất cả các hoạt động trên đây nên bắt đầu từ hôm nay, bất kỳ ở lứa tuổi nào. Không nên đợi tới 60, 70 mới lo ngăn ngừa mất trí nhớ!
Sức Khỏe :10 Dấu Hiệu Cho Thấy Cơ Thể Bạn Đã Cần Sớm Bổ Sung Vitamin C
Vitamin C là một chất chống oxy hoá tốt, nó tham gia vào nhiều hoạt động sống quan trọng của cơ thể. Nếu cơ thể thiếu đi vitamin này, có xuất hiện các biểu hiện bất thường như: Mệt mỏi, giảm cân, cảm cúm, chảy máu cam, vết thương lâu lành…
Theo nghiên cứu thì phụ nữ cần ít nhất 75mg vitamin C mỗi ngày, trong khi đó đàn ông cần ít nhất 90mg. Tuy nhiên, 500-1000mg vitamin C mỗi ngày là lý tưởng nhất. Một khi thiếu vitamin C, cơ thể sẽ có những biểu hiện như:
1. Cơ thể xuất hiện bị bầm tím
Vitamin C có tác dụng giúp tăng cường mạch máu bằng cách thúc đẩy sản xuất collagen nên mạch máu sẽ chắc khỏe và ít bị vỡ hơn. Do đó, nếu cơ thể thiếu hụt vitamin C sẽ khiến thành mạch máu bị yếu nên cho dù là va chạm nhẹ thì các mạch máu dưới da cũng nhanh vỡ và dẫn đến tình trạng bầm tím dễ dàng.
2. Bị bệnh thường xuyên
Vitamin C giúp kích thích sản xuất các tế bào bạch cầu tấn công vi khuẩn và virus nên cũng được xem là một phần phản ứng miễn dịch của cơ thể. Ngoài ra, vốn là một chất chống oxy hoá nên vitamin C cũng giúp bảo vệ các tế bào miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn. Do đó sẽ ngăn ngừa được các loại vi khuẩn, virus tấn công cơ thể. Đây là lý do vì sao khi cơ thể thiếu hụt vitamin C thì bạn dễ bị bệnh hơn, nhất là các bệnh thường gặp như cảm lạnh, cảm cúm, sốt, ho, viêm họng…
3. Các vết thương lâu lành
Cơ chế chữa lành vết thương phụ thuộc một phần vào vitamin C. Bởi vitamin C giúp tăng cường hệ miễn dịch chống lại các loại vi khuẩn tấn công gây nhiễm trùng vết thương. Đồng thời, vitamin C cũng thúc đẩy tăng cường collagen, tái tạo các mô cơ nên vết thương cũng nhanh lành hơn. Do đó, khi bạn cảm thấy vết thương tuy nhỏ nhưng lại quá lâu lành và dễ bị nhiễm trùng thì khả năng cơ thể bị thiếu hụt vitamin C là khá cao.
4. Làn da bạn khô và xuất hiện nếp nhăn
Dấu hiệu rõ rệt khi cơ thể bạn thiếu vitamin C là làn da giảm sức sống và xuất hiện nếp nhăn. Với tác dụng là một chất chống oxy hoá, vitamin C giúp hạn chế thiệt hại cho da do tiếp xúc với tia cực tím, giảm nguy cơ bị cháy nắng… do đó, nếu thấy tình trạng da chuyển biến xấu đi thì bạn cũng nên tăng cường bổ sung thêm các thực phẩm giàu vitamin C cho làn da khỏe mạnh hơn.
5. Tóc trở nên yếu và khô
Khi mái tóc của bạn chắc khỏe và sáng bóng là dấu hiệu tốt cho thấy bạn đang có chế độ dinh dưỡng đầy đủ. Nhưng nếu tóc bạn xơ rối, chẻ ngọn và đặc biệt là quá khô thì có thể do cơ thể thiếu vitamin C gây ra. Lý do là vì khi thiếu hụt vitamin C thì hiệu quả sản xuất collagen trong cơ thể bị giảm sút nên tóc cũng yếu, khô và dễ gãy rụng hơn.
6. Chảy máu cam
Khi cơ thể thiếu vitamin C sẽ dẫn đến tình trạng các mạch máu nhỏ trong mũi dễ bị vỡ nên gây chảy máu mũi hay còn gọi là chảy máu cam. Do đó, nếu không va chạm vào đâu mà mũi bị chảy máu thì bạn cũng nên lưu ý theo dõi thêm các biểu hiện khác để bổ sung vitamin C kịp thời.
7. Chảy máu chân răng, sưng nướu
Nướu răng được cấu tạo từ một phần collagen, trong khi đó vitamin C lại có tác dụng tăng cường collagen nên khi cơ thể thiếu hụt vitamin C thì nướu thường nhạy cảm hơn, dễ sưng tấy và chảy máu. Vì thế, việc bổ sung vitamin C đầy đủ cũng giúp bảo vệ sức khỏe răng miệng tốt hơn.
8. Mệt mỏi
Người thiếu vitamin C rất dễ bị mệt mỏi ngay cả khi đã ngủ ngon giấc hoặc giảm mức tiêu thụ năng lượng tổng thể. Khó chẩn đoán rằng cơ thể thiếu vitamin C nếu chỉ dựa trên dấu hiệu mệt mỏi.
9. Giảm cân
Thiếu hụt vitamin C có thể dẫn đến giảm cân không giải thích được và thậm chí khiến một người nào đó trở nên gầy gò. Đây là hiện tượng phổ biến ở những người bị suy dinh dưỡng.
10. Tâm trạng thất thường
Sự thiếu hụt này ảnh hưởng đến trạng thái cảm xúc của một người. Người thiếu vitamin C sẽ thường xuyên nóng nảy và dễ bị kích động, ngay cả khi đây không phải là tính cách của họ.
Lưu ý :
Vitamin C có thể gây tương tác với thuốc, sẽ có một số ảnh hưởng nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú. Vậy nên trước khi dùng vitamin C bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ.
Chi Mai
dkn.tv
Chuyên mục Sức khỏe, thời báo Đại Kỷ Nguyên nỗ lực mang đến cho bạn đọc những thông tin chính xác và bổ ích nhất. Tuy nhiên khoa học về thân thể người thật rộng lớn và còn nhiều điều y học chưa nhận thức đến được, do đó, các bài viết tại đây chỉ mang tính chất tham khảo. Mọi việc chẩn đoán, điều trị bệnh hay các tình trạng sức khỏe và làm đẹp cần phải có ý kiến các chuyên gia y tế được cấp phép.
Tăng Cường Khả Năng Giữ Thăng Bằng Cho Người Cao Tuổi
Cứ 3 người lại có một người ở tuổi 65 trở lên bị ngã. Đây chính là lúc đánh giá lại và tìm cách cải thiện khả năng cân bằng của bạn.
Rất nhiều người lớn tuổi tập trung vào những bài tập thể dục và chế độ ăn để giữ gìn sức khỏe. Nhưng một trong những thủ phạm tồi tệ nhất với sức khỏe - thăng bằng kém - thường là chỉ được nghĩ đến sau. Chuyên gia vật lý trị liệu đã chứng kiến rất nhiều người già thờ ơ với việc giữ thăng bằng.
Thật không may, mất cân bằng là nguyên nhân phổ biến dẫn đến những cú ngã, điều này chính là nguyên nhân khiến hàng nghìn người ở Mỹ phải đến phòng cấp cứu mỗi năm vì bị gãy xương hông và chấn thương đầu. Nhưng có rất nhiều cách bạn có thể làm để cải thiện thăng bằng cơ thể. Các cách thức dưới đây được coi là những cách hiệu quả nhất:
Vật lý trị liệu
Vật lý trị liệu cho thăng bằng cơ thể tập trung vào khả năng của các khớp xương và sự truyền tín hiệu của não, hệ thống cân bằng trong tai (hệ thống tiền đình), và tầm nhìn. Chúng ta sẽ phối hợp cả ba với các bài tập như đứng trên một chân, đầu tiên là mở mắt rồi sau đó nhắm mắt lại. Chúng ta cũng làm việc dựa trên tính linh hoạt của các khớp xương, đi bộ và các bài tập chi dưới trên một hoặc hai chân. Các bài tập khác đẩy nhanh cân bằng của cơ thể. Hãy chắc chắn rằng bạn đã được đào tạo trước khi thử các bài tập này tại nhà.
Tăng cường sức mạnh cơ bắp
Sức mạnh trung tâm rất quan trọng trong việc giữ thăng bằng. Nếu các cơ bụng ở trung tâm của bạn yếu, nó không thể hỗ trợ các chi, đặc biệt khi bạn đi lại. Nếu các cơ mông ở mông và hông của bạn không khỏe, chúng sẽ không thể đẩy bạn tiến về phía trước. Tăng cường cơ bắp có thể giúp cải thiện điều này. Hãy bắt đầu với những bài tập cốt lõi nhẹ nhàng như bài nghiêng xương chậu (nằm trên sàn, đầu gối co lên, rồi đưa xương chậu của bạn lên) sau đó đến các bài tập cường độ cao hơn như bài tập ván tường (đứng cách tường 15 cm, giữ thẳng người sau đó ngả người về phía trước với cẳng tay giữ sát vào tường và giữ nguyên trong 20 giây). Các bài tập nâng chân sẽ tăng cường cơ mông, nếu thêm đai đàn hồi vào thì sẽ làm cho bài tập có hiệu quả hơn.
Thái cực quyền và yoga
Thái cực quyền và yoga là những bài tập giúp bạn chú ý vào kiểm soát và chất lượng của chuyển động, hơn là tập trung vào số lượng, điều này giúp cải thiện cân bằng của bạn. Trong thái cực quyền, bạn tập chậm, chuyển động liên tục và chuyển trọng lượng từ chi này sang chi kia. Yoga kết hợp một loạt các tư thế tập trung và thở. Cả hai bài tập đều tăng tính linh hoạt, phạm vi của chuyển động và tăng sức mạnh của chân và sức mạnh cốt lõi, phản xạ. Kết quả: bạn sẽ cân bằng tốt hơn trong một số tư thế khác nhau, điều này giúp bạn không bị té ngã khi bạn gặp vỉa hè mấp mô hay vật cản trên đường.
Điều chỉnh tầm nhìn
Nếu bạn không thể nhìn thấy mình đang đi đâu, nguy cơ bạn bị ngã sẽ tăng cao. Chuyên gia vật lý trị liệu thường điều trị cho rất nhiều người có vấn đề về cân bằng bởi vì họ di chuyển mà không nhìn thấy thứ gì đang ở trên mặt đất. Cách khắc phục có thể rất đơn giản như là cắt kính mới. Hãy khám toàn diện, kiểm tra mắt mỗi một hoặc hai lần trong năm.
Các thiết bị hỗ trợ đi bộ
Một cây gậy hay khung tập đi có thể hoàn thiện thăng bằng của cơ thể và làm cho bạn ổn định và tự tin hơn khi đi bộ. Nhưng đừng tự ý mua thiết bị cho mình. Nếu thiết bị quá cao hay quá thấp, nó lại có thể là nguyên nhân gây ngã. Các thiết bị đó cần được đo đạc, và bạn cần được hướng dẫn sử dụng. Đào tạo sử dụng chỉ mất một vài buổi vật lý trị liệu. Khung tập đi có sẵn bánh xe dành cho các địa hình khác nhau, hệ thống phanh có thể khóa, ghế, giỏ và các tính năng khác như đèn pha. Gậy chống thì rất đạng với các loại tay cầm và phần đế chống khác nhau.
Bài tập chuyển động: Ghế đứng
Bài tập tăng cường sức mạnh chân, mông và bụng. Có thể sử dụng ghế ăn, ghế làm việc hay thậm chí ghế dài.
Ngồi trên ghế với chân rộng bằng hông. Đặt tay lên đùi.
Siết chặt các cơ mông và bụng. Thở ra và từ từ đứng lên.
Hít vào và từ từ ngồi xuống. Làm lại bài tập 10 lần.
Theo Health Harvard
at 6:09 PM
Nói đến sâm là phải nghĩ ngay tới nước Trung Hoa với vua Thần Nông. Đây là một nhân vật với nhiều huyền thoại, sống cách đây nhiều ngàn năm, vừa là một đấng minh quân vừa là một nhà nông kinh nghiệm, biết thêm về y lý trị bệnh. Nhà vua chỉ dẫn cho dân chúng về cách dùng dược thảo và đã viết một cuốn sách nói về cả trăm thứ cây thuốc mà ông đã khổ công đi đó đây để sưu tầm.
Theo sách, thì vua Thần Nông là người đầu tiên đã nhận ra công dụng chữa bệnh của một loại rễ cây có hình dạng giống con người, mọc hoang trong rừng. Nhà vua đặt tên cho cây đó là Nhân Sâm.
Nhân sâm đã được coi như một dược thảo hàng đầu (Sâm, Nhung, Quế, Phụ) ở nhiều quốc gia Á châu như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, và ở Nga. Trong những thập niên vừa qua, nhân sâm bắt đầu được sử dụng ở các quốc gia Âu Mỹ và cũng được khoa học thực nghiệm nghiên cứu về công hiệu chữa bệnh của một thảo mộc mà nhiều triệu người đã và đang dùng, do kinh nghiệm truyền cho nhau. Nhiều nhà bào chế thuốc đã xếp sâm vào nhóm những chất có tác dụng thích nghi (adaptogen) đối với nhiều chức năng của cơ thể và coi sâm như một chất dùng thêm có khả năng tăng cường sinh lực, giảm căng thẳng, ngăn ngừa một số bệnh tật và làm chậm tiến trình lão suy.
Nguồn gốc
Nguyên thủy thì nhân sâm mọc hoang trên rừng núi, dưới bóng mát ở những nơi có khí hậu lạnh như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, miền Đông Liên Bang Sô Viết, Bắc Mỹ châu.
Người Trung Hoa được coi như dân tộc đầu tiên biết sử dụng sâm để trị các bệnh của tuổi già và họ giữ kín cho tới thế kỷ thứ 18 công dụng của sâm mới được các quốc gia Âu Mỹ biết tới. Thoạt đầu, các nhà thảo mộc Tây phương cũng không tin tưởng cho lắm vào công dụng của sâm như người Trung Hoa tả. Nhưng sau khi nhìn thấy tận mắt một số hiệu quả, thì họ tin theo.
Năm 1716, tu sĩ dòng Tên Petrus Jartoux truyền đạo ở miền Bắc Trung Hoa, viết một tài liệu cho hay sâm có thể mọc ở miệt rừng núi Gia Nã Đại vì môi trường giống nhau. Tu sĩ Lafitau ở Gia Nã Đại bèn cho người khai thác sâm hoang ở chung quanh vùng Montreal và xuất cảng sang Tầu để gây quỹ cho dòng tu. Cũng vào thế kỷ 18, một số nhà thám hiểm người Pháp thấy thổ dân Bắc Mỹ dùng một loại cây hoang để trị bệnh tiêu hóa, họ mang một ít về Âu châu để thử nghiệm và thấy công hiệu.
Các loại sâm
Theo American Botanical Council thì có ba loại sâm chính: sâm Á châu, sâm Mỹ châu và sâm Siberian.
1- Sâm Á châu
Thường được gọi là nhân sâm, tên thực vật học là Panax ginseng C.A. Meyer. C.A. Meyer là tên nhà thảo mộc học đã nghiên cứu sâm đầu tiên vào năm 1842. Đây là loại sâm nổi tiếng của Trung Hoa, đã được coi là đứng đầu các vị thuốc bổ (sâm, nhung, quế, phụ), để tu bổ ngũ tạng, làm dịu cảm xúc, bớt náo động, loại trừ chất độc trong cơ thể, làm thị giác tinh tường, làm tăng trí nhớ và tinh thần minh mẫn và nếu dùng liên tục thì sẽ sống lâu. Panax do gốc Hy Lạp pan có nghĩa là tất cả, và alkos là chữa lành, tức là trị bá bệnh; còn ginseng theo nghĩa tượng hình Trung Hoa là “tinh túy của đất trong hình dạng người”.
Y học Á châu đã dùng nhân sâm từ nhiều ngàn năm. Tây phương biết đến nhân sâm là qua sự nhận xét và giới thiệu của một tu sĩ dòng tên Petre Jartoux vào khoảng năm 1714. Trong khi truyền giáo ở miền Bắc Trung Hoa, vị tu sĩ này thấy dân chúng dùng một loại rễ cây hoang để trị nhiều bệnh rất công hiệu, ông ta bèn viết một bài để giới thiệu với các thầy thuốc ở Âu châu. Từ đó, các nhà nghiên cứu ở Âu châu, Nhật Bản, Liên Xô, Hoa Kỳ đã để tâm nghiên cứu về loại dược thảo có hình người này.
Nhân sâm có thành phần hóa học như sau: hỗn hợp saponins, tinh dầu panaxen, phytosterol, tinh bột, đường, amino acid, acid phosphoric, vài sinh tố B1, B2 và vài khoáng chất. Hiện nay có khoảng 22 chất saponin được phân loại, gọi là ginsenosides hay panaxosides, là những dược liệu chính của sâm. Hóa chất này có công thức hóa học tương tự như loại kích thích tố mà cơ thể con người dùng để đối phó với căng thẳng của đời sống.
W.H Lewis cho hay chất triết của nhân sâm có tác dụng làm chậm sự phát triển của một vài tế bào u bướu, có vài tác dụng làm giảm đường trong máu. Nghiên cứu của V.W. Petkov và D. Staneva- Stoicheva ở Bulgarie cho hay nhân sâm có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, giảm huyết áp, giảm đường trong máu, kích thích hô hấp, hỗ trợ tế bào thần kinh đáp ứng với stress, tăng hồng huyết cầu và huyết tố, giảm cholesterol. Ng và H.W. Yeung cho hay nhân sâm có công dụng làm giảm thời gian phản ứng với các kích thích thính, thị giác; tăng sự lanh lợi, tập trung trí thuệ; tăng phối hợp giữa thị giác và cử động. Họ cũng cho hay nhân sâm có công dụng như chất antioxidant chống lại một vài bệnh về gan, mắt, vữa xơ động mạch. S. Shibata, O. Tanaka và H. Saito cũng cho rằng sâm làm tăng sự bền bỉ, chịu dựng của cơ thể với căng thẳng các loại, có tác dụng chống kinh phong hạ nhiệt, tăng chức năng bao tử, chống viêm tế bào.
Bên Đức, chính quyền cho phép nhân sâm được mang nhãn hiệu bán như một thuốc bổ, tăng cường sinh lực khi bị suy nhược, mệt mỏi, khi kém tập trung, và trong thời kỳ phục sức sau bệnh hoạn. Dược thư Liên Xô xuất bản năm 1961 công nhận nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học của Liên bang này.
Cho tới nay, đã có cả trăm nghiên cứu khoa học về công dụng của nhân sâm. Sự nghiên cứu này cần được tiến hành lâu dài và có hệ thống hơn nữa để có thể xác định giá trị chữa bệnh của loại dược thảo này.
2- Sâm Mỹ châu:
Sâm Mỹ châu được tu sĩ Joseph Francois Lafitau khám phá ra cách dây gần ba trăm năm, ở vùng Montreal, Gia Nã Đại, có tên khoa học là Panax quinquefolius. Vị tu sĩ này đã khai thác, xuất cảng rất nhiều sang Trung Hoa từ thế kỷ thứ 18.
Sâm Mỹ châu mọc hoang ở miền Đông Bắc Mỹ châu, từ Quebec, Ontario xuống Wisconsin, Minnesota, Florida, Alabama, Oklahoma. Không như sâm Á châu bị khai thác triệt để nên còn rất ít, sâm Mỹ châu hiện vẫn còn nhiều và được các quốc gia Hoa Kỳ, Gia Nã Đại coi là cây hiếm quý cần được bảo vệ.
Sâm Mỹ châu đã được Abraham Whisman ở Virginia bắt đầu trồng từ năm 1870. Hiện nay Gia Nã Đại đứng hàng đầu trong việc trồng và xuất cảng sâm này. Nước Mỹ cũng xuất cảng tới 30% tổng số sâm Mỹ châu trên thế giới. Năm 1995, có tới hơn 700,000 kí sâm trồng và 150,000 kí sâm mọc hoang được xuất cảng từ Hoa Kỳ. Trung Hoa và Đại Hàn dẫn đầu trong việc xuất cảng sâm các loại trên thế giới.
Sâm Mỹ châu rất được dân chúng Trung Hoa ưa thích vì tính chất bổ âm (âm/dương) của nó, và ngọt dịu hơn sâm Á châu. Theo quan niệm Á châu, sự hài hòa giữa âm và dương trong vũ trụ và trong con người đưa tới sự ổn định môi trường và sự khỏe mạnh của con người. Sâm Á châu có nhiều dương tính, nóng, làm hưng phấn cơ thể, làm tăng cường sức lực. Ngược lại, sâm Mỹ châu có nhiều âm tính, lạnh, làm giảm căng thẳng, làm mạnh nội tạng.
Sâm Mỹ được thổ dân ở đây dùng để chữa chẩy máu cam, khó thở, tăng cường sự mầu mỡ sinh sản nữ giới, làm tăng trí tuệ, sức khỏe thể xác, chống mỏi mệt. Vợ một tù trưởng có thai kể cho chồng hay là trong giấc mơ ban đêm, thần nhân nói nếu muốn sanh không đau thì cứ ngậm một miếng củ sâm hoặc uống một chút nước lá sâm.
Sâm Mỹ châu đã được ghi vào sách the United States Pharmacopeia từ năm 1842 tới 1882. Sâm này cũng có hóa chất như nhân sâm đặc biệt là hỗn hợp gisenosides. Sâm, nói chung, vẫn chưa được hội nhập vào kỹ thuật trị liệu ở Hoa Kỳ, mặc dù rất nhiều người đang dùng dược thảo này. Lý do là chưa có nhiều nghiên cứu khoa học về sâm Mỹ như nhân sâm, và có nhiều ý kiến khác nhau về sâm. Thực ra, công dụng của sâm thay đổi đôi chút với loại sâm, thời gian hái sâm, bộ phận cây sâm, cách pha chế, cách dùng và phân lượng dùng.
E.J Staba và S.E. Chen, trong “An Overview of Ginseng Chemistry, Pharmacology and Anti-tumor Effects” đã ghi nhận là với phân lượng nhỏ, sâm làm kích thích hệ thần kinh, nhưng phân lượng cao lại làm dịu; chống mệt mỏi, thích nghi được với các căng thẳng, chống nhăn da và làm tế bào da mau sinh sản; chống lại độc tính của chloroform, amphetamines; làm tăng trọng lượng của túi tinh dịch và nhiếp hộ tuyến, tăng tinh trùng; làm tăng kí với lượng nhỏ nhưng giảm kí với lượng lớn. Việc nghiên cứu công dụng của sâm ở Hoa kỳ còn mới mẻ và chưa hội nhập vào với phương pháp trị bệnh thực nghiệm. Theo một vài tác giả, cần có những quan tâm mạnh hơn nữa nhất là kết quả việc dùng sâm ở con người với lợi điểm cũng như tác dụng không tốt của sâm.
3- Sâm Siberian:
Tên thực vật học là Eletherococcus senticosus, sâm này có nhiều ở Đông Bắc Trung Hoa, kế cận với Nhật và Đại Hàn và miền Đông Nam nước Nga.
Tiến sĩ Stephen Fulder cho rằng đây không phải thuộc họ sâm nhưng được gọi như sâm vì nó tác dụng tương tự, đã được người Nga dùng thay thế cho nhân sâm quá đắt và khó kiếm. Hoạt chất của sâm là chất eleutherosides, có công dụng giống như ginsenosides của sâm Á châu hoặc sâm Mỹ châu.
I.Brekham, một chuyên gia người Nga về sâm, cho binh sĩ uống sâm chạy thi với nhóm khác uống thuốc lừa (placebo), thì nhóm dùng sâm chạy mau hơn và lâu hơn. Các nhà khoa học Nga xếp sâm vào nhóm thực vật làm tăng sức đề kháng không đặc biệt, giúp cơ thể có thể chịu đựng mệt mỏi, bệnh tật, tuổi già, làm việc cực nhọc, vượt qua được các bệnh thông thường như cảm lạnh.
Năm 1961, một hội nghị về sâm đã diễn ra ở Lenigrad, Liên Sô. Năm sau, sâm Siberian được chính quyền Sô Viết chấp thuận cho dân chúng dùng như loại thuốc bồi bổ sức khỏe, thích nghi với căng thẳng của đời sống và chữa các bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, viêm phế quản kinh niên, bệnh thần kinh tâm lý, vữa xơ động mạch máu.
Theo J. A. Duke và E.S. Ayensu trong Medicinal Plant of China, thì loại sâm này được dân chúng ở vùng Đông Bắc Hoa Lục dùng để chữa các bệnh phong khớp xương, viêm cuống phổi, bệnh tim, đồng thời nếu dùng liên tục, để tăng cường sức khỏe, làm ăn ngon miệng, giúp trí nhớ tốt, kéo dài tuổi thọ.
Chính quyền y tế Đức quốc cũng coi sâm Siberian có công dụng như nhân sâm để giúp cơ thể khỏe mạnh, giúp mau hồi phục sau bệnh hoạn cũng như gia tăng sự bền bỉ trong lao động trí óc, chân tay.
Theo nhiều nhà chuyên môn, sự khác biệt của ba loại sâm chính này như sau:
- Sâm Á châu có tính cách kích thích, làm nóng cơ thể, tăng cường sức khỏe, được dùng ở người lớn tuổi, người suy yếu tổng quát, người cần dùng sức lao động và sự bền bỉ .
- Sâm Mỹ có hàn tính, thoa dịu, thích hợp cho người hay năng động, nhưng cũng giúp cơ thể tăng cường dẻo dai, sức chịu đựng.
- Còn sâm Siberian thì dung hòa giữa hai loại trên, không ôn quá mà cũng không hàn quá, và có cùng đặc tính.
Ngoài ra còn các loại sâm khác như sâm Brazilian, sâm Angelica sinensis, sâm Acanthopanax sessiliflorus. Giáo sư Đỗ Tất Lợi, trong tác phẩm Những Cây Thuốc và Vị Thuốc Việt Nam còn kể thêm nhân sâm Việt Nam, Đảng sâm có ở quận Thượng Đảng, Trung Quốc, ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Việt Nam; sâm Bố Chính ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình Việt Nam; Thổ Cao Ly sâm, Sa sâm.
Trồng sâm
Sâm được trồng từ hạt giống của cây sâm khỏe, tốt đã mọc từ 6, 7 năm trở lên. Sâm không thể trồng như trồng lúa. Trồng sâm cần thời gian lâu để sâm mọc. Hạt giống sâm được chôn sâu dưới đất mầu mỡ, không có nước ứ đọng, dưới bóng mát. Bên Trung Hoa người ta dùng phân xanh và khô dầu để bón, tránh dùng phân bắc và nước tiểu. Âu Mỹ dùng phân hóa học và thuốc sát trùng để diệt nấm độc ăn hại sâm.
Cứ đến mùa Đông thân lá sâm héo tàn, nhưng khi Xuân đến, cây nẩy chồi từ củ sâm nằm sâu dưới đất. Khoảng 6, 7 năm sau đào sâm lấy củ. Củ sâm được chế biến, sấy khô rồi đóng hộp. Riêng những củ to thường được hấp trước khi sấy khô để giữ tinh túy của sâm. Sâm mọc hoang có khi lâu đời cả mấy chục năm trong rừng gỗ lớn nên rất đắt và quý. Nhưng số sâm mọc hoang mỗi ngày một khan hiếm vì nhiều người đi tìm lấy. Đa số sâm bán trên thị trường bây giờ là sâm trồng. Việc trồng sâm đã được nhiều quốc gia thực hiện, nên hiện nay trên thị trường có đủ loại sâm.
Phần chính làm thuốc của cây sâm là khúc củ sâm, mầu vàng sậm, có nhiều rễ nhánh nhỏ, nằm sâu dưới đất. Lá sâm có năm cánh, với một bông hoa nhỏ mầu xám lạt nằm ở cuống lá; thân cây gắn trên củ sâm nằm sâu dưới đất. Thân cây sâm thường héo chết vào mùa Đông, để rồi mọc trở lại từ củ sâm vào đầu mùa Xuân. Toàn cây cao độ 60 phân.
Lựa sâm
Trên thị trường có rất nhiều loại sâm, nhưng thường thấy nhất và nhiều người mua là hồng sâm và bạch sâm. Hồng sâm là những củ to, mập, dáng đẹp, giống hình người còn bạch sâm nhỏ hơn, trắng và khô. Sau khi đào, sâm được rửa sạch, phơi sấy, và đóng hộp: hồng sâm trong hộp gỗ, bạch sâm trong hộp giấy. Ngoài ra còn sâm bách chi (rễ phụ), nhân sâm tu với rễ nhỏ như râu tóc, sâm nhị hồng với rễ nhỏ hơn nữa mọc ngang từ rễ chính ra.
Sâm Mỹ thường được xuất cảng qua Á châu và rất được ưa chuộng. Còn ở Mỹ thì lại có nhiều sâm nhập cảng từ Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản. Nổi tiếng trên thế giới vẫn là sâm Đại Hàn và sâm Trung Hoa.
Sâm càng to càng tốt vì sống lâu năm dưới đất, hút nhiều chất dinh dưỡng nên khỏe hơn.
Hồng sâm tốt hơn bạch sâm.
Sâm từ Đại Hàn là tốt nhất rồi dến sâm từ Trung Hoa rồi Nhật Bản.
Khi nếm, sâm tốt có vị hơi đắng nhưng ngọt dịu. Sâm mà không có vị gì là sâm không tốt.
Củ sâm tốt hơn râu và lá sâm.
Cách thức dùng sâm
Có nhiều cách dùng sâm:
1. Thái mỏng rồi ngậm sâm trong miệng cho tới khi mềm tan..
2. Nấu sâm trong ấm sành, ấm thủy tinh độ một giờ rồi uống nước sâm. Sâm nấu như vậy có thể giữ trong tủ lạnh rồi uống dần mỗi ngày. Vì sâm khá đắt, nên có thể nấu nước thứ hai mà sâm vẫn còn hương vị. Tránh dùng ấm kim loại sợ kim khí vô hiệu hóa hoạt chất của sâm.
4. Sâm chế biến thành bột hòa tan trong nước sôi, uống như cà phê hay trà.
5. Sâm viên uống như các thuốc viên khác. Kỹ nghệ chế sâm viên hiện nay khá phổ biến và chính xác, vì phân lượng hoạt chất chính trong mỗi viên thuốc sâm đều như nhau.
6. Sâm bốc chung với các vị thuốc, sắc lên rồi uống nước thuốc.
7. Sâm miếng thái mỏng nấu thành súp với thịt hoặc gạo.
An toàn của sâm
Một câu hỏi thường được nhiều người nêu ra là sâm có an toàn không?
Giáo sư Brekhman thuộc Institute of Biologically Active Sciences bên Nga cho hay, để có ảnh hưởng không tốt, con người phải dùng cả mấy kí lô sâm một lúc.
Tính cách an toàn của sâm chưa bao giờ bị cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) nghi ngờ và cơ quan này đã cho sâm được bán tự do vì các nghiên cứu cho hay sâm không có tác dụng nguy hại cho người dùng.
Sâm đã được ghi vào danh bạ y dược tại các nước ở Âu châu và được công nhận như một thực phẩm dùng thêm rất an toàn.
Tuy nhiên, cũng như dược phẩm khác, khi dùng sâm nên theo chỉ dẫn của lương y hay nhà bào chế.
Áp dụng thực tế
Sâm đã được dùng ở các nước Á châu từ nhiều ngàn năm và đang được y học hiện đại nghiên cứu, sử dụng. Cũng như các dược thảo khác, tác dụng của sâm nhẹ nhàng, thấm từ từ nhưng kéo dài chứ không mau, mạnh như Âu dược.
Theo Đông y, sâm không phải là thứ để chữa lành một bệnh riêng biệt nào mà được coi như chất bồi bổ sức khỏe, duy trì sinh lực và kéo dài tuổi thọ. Sâm rất công hiệu khi cơ thể suy nhược, dưới nhiều căng thẳng thể xác và tâm thần, phục hồi sinh lực sau khi bị trọng bệnh...
Sự dùng sâm thay đổi tùy theo điều kiện cấu tạo cơ thể và sức khỏe của mỗi cá nhân. Theo kinh nghiệm, nếu muốn tăng cường sinh lực chung thì loại sâm nào cũng như nhau. Người trên 45 tuổi nên dùng sâm Á châu vì sâm này kích thích mạnh; dưới tuổi 45 còn trai tráng có thể dùng hai loại sâm ôn hòa kia. Người cần sức lao động cao thì sâm Á châu giúp bền bỉ, sung sức hơn; nữ giới thích hợp với sâm Mỹ châu còn nam giới thì sâm Á châu lại tốt.
Đấy chỉ là gợi ý. Trước khi dùng, nên tham khảo ý kiến người có hiểu biết về món dược thảo này. Cũng như với các dược thảo khác, ta nên bắt đầu dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần để dò sức chịu đựng của mình đồng thời lượng định công hiệu và tác dụng không muốn của thuốc.
Thursday, January 11, 2018
Rau Sẫm Màu Và Rau Sáng Màu: Loại Nào Có Chứa Nhiều Chất Dinh Dưỡng Hơn?
Rau quả tươi chỉ là những gia đình nhận thức độc nhất vô nhị để phòng bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho cơ thể. Nhiều người quan niệm rau sẫm màu sẽ tốt hơn loại màu sắc, phần tốt hơn thân cành, rau lá tốt hơn rau củ.
Bữa ăn chứa nhiều loại rau, quả và củ rất có lợi cho sức khoẻ của thân thể, bảo đảm bình thường của đường ruột, nâng cao sức đề kháng, giảm nguy cơ các bệnh mạn tính như béo phì, bệnh tiểu đường, cao huyết áp vv Các thế hệ năm trở lại đây, trong ẩm thực dinh dưỡng của nước nhấn mạnh, tăng số lượng và các loại rau trong bữa ăn.
Bổ sung rau cho bữa ăn (Ảnh: Khoobsurati.com)
Thật vậy, rau là nguồn cung cấp nguyên tố vi lượng, xơ thực phẩm và chất chống oxy hóa thiên nhiên.Thường rau tươi chứa 65% -95% nước, đa số nước rau sạch trên 90%.Rau chứa vitamin, chất xơ, pectin, tinh bột, carbohydrate, đại đa lượng năng lượng tương ứng, là một loại thực phẩm low calo.Chúng còn là nguồn cung cấp caroten, vitamin B1, vitamin C, axit folic, canxi, phốt pho, kali, sắt rất tốt.
Loại rau thân, lá, hoa non như bắp cải, rau chân vịt, bông cải xanh, là nguồn carotene, vitamin C, vitamin B2, khoáng chất cho đến xơ thực phẩm rất tốt, vitamin C chuyển hóa mạnh tại lá, hoa, thân hàm lượng phong phú, cùng với diệp lục tố phân bố song song.
Ảnh: Khoeplus24h.com
Thường thì rau sẫm màu có hàm lượng carotene, riboflavin và vitamin C, tương đối cao hơn rau sáng màu, đồng thời còn chứa càng nhiều hoạt chất thực vật có lợi ích tốt cho sức khỏe. Trong cùng một loại rau, hàm lượng vitamin của phần lá thường cao hơn phần thân rễ, như rau diếp, lá cần tây, củ cải mầm cao hơn phần thân rễ tương ứng gấp mấy lần. Giá trị dinh dưỡng của rau lá thường cũng cao hơn rau củ.
Các loại rau củ chất xơ thực phẩm thấp hơn rau lá. Rau họ cải như cải bi xen, súp lơ, cải bắp v.v, có chứa nhiều hoạt chất thực vật như Isothiocyanate thơm, đó là thành phần ức chế khối u chủ yếu.
Nhóm tảo nấm như nấm mỡ, nấm hương, mộc nhĩ, men và rong biển v.v, còn có chứa protein, polysaccharide, carotene, khoáng chất sắt, kẽm, và selen v.v, trong nhóm nấm tảo hải sản như rong biển, tảo bẹ còn dồi dào iốt, vô cùng hữu hiệu trong phòng chống bướu cổ.
Ảnh: Kiyomi.com
Rau sẫm màu là chỉ rau màu xanh lục sẫm, màu đỏ, màu cam, màu đỏ tím, chứa nhiều beta carotene đặc biệt là cà rốt, là nguồn vitamin A chủ yếu cho bất kỳ ai.
Ngoài ra, rau sẫm màu còn chứa nhiều loại khác như các chất drasticle, lutein, lycopen, anthocyanin vv, cho một số chất thơm, phú cho màu sắc cây rau, hương vị và hương thơm, có tác use aesthetically values, a temporary print a number of the activity of students.
Vì vậy thật không phải là vô trách nhiệm khi người ta thường chọn ăn nhiều rau quả hơn là màu sắc.
Một số bài thuốc từ lá tre dùng để chữa nhiều bệnh
October 26, 2014
Share
Đã từ rất lâu, cây tre là người bạn thân thiết của người dân Việt Nam. Ngoài ra, tre cũng là cây cho nhiều vị thuốc quý, cụ thể chữa được nhiều loại bệnh khác nhau.
Cây tre được sử dụng làm thuốc trong dân gian và Đông y từ rất lâu đời. Tác dụng làm thuốc của cây tre được ghi lại sớm nhất trong sách “Danh y biệt lục”, cách nay khoảng 1500 năm.Cây tre có tên khác là tre gai, tre nhà. Bộ phận dùng làm thuốc là (lá tre) tên thuốc là trúc diệp. Lá tre chứa chlorophyll, cholin…
Theo Đông y, lá tre vị ngọt nhạt, hơi cay, tính lạnh; vào kinh tâm và phế, có tác dụng thanh nhiệt, giải cảm, giải độc, hay được dùng trong các trường hợp mụn nhọt viêm tấy mưng mủ và sốt nóng trong dịch sốt huyết. Liều dùng 6-10g khô, 30-60g tươi dưới dạng nấu, sắc, hãm…
Một số bài thuốc sau chữa bệnh từ lá tre:
1. Lá tre chữa cảm sốt
– Lá tre 30g, thạch cao 12g, mạch môn 8g, gạo tẻ 7g, bán hạ 4g, nhân sâm 2g, cam thảo 2g. Sắc uống ngày 1 thang. Chữa cảm sốt, miệng khô khát.
– Lá tre 16g, kim ngân hoa 16g, cam thảo đất 12g, kinh giới 8g, bạc hà 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Chữa cảm cúm, sốt cao.
2. Lá tre chữa co giật trẻ em
Lá tre 16g, sinh địa 12g, mạch môn 12g, câu đằng 12g, lá vông 12g, chi tử 10g, cương tằm 8g, bạc hà 8g. Sắc uống.
3. Lá tre chữa sởi thời kỳ đang mọc
Lá tre 20g, sài đất 16g, kim ngân hoa 16g, mạch môn 12g, sa sâm 12g, cát căn 12g, cam thảo đất 12g. Sắc uống.
4. Chữa thủy đậu
Lá tre 8g, liên kiều 8g, cát cánh 4g, đạm đậu sị 4g, bạc hà 3g, chi tử 3g, cam thảo 3g, hành tăm 2 củ. Sắc uống ngày 1 thang.
5. Chữa ho suyễn, hoặc trúng phong cấm khẩu
Gừng sống giã vắt lấy nước cốt 1 chén, hòa với 1 chén trúc lịch cho bệnh nhân uống dần.
6. Chữa nấc
Dùng lá tre, tinh tre, gạo tẻ (rang vàng) mỗi thứ 20g, thạch cao (nướng đỏ) 30g, bán hạ 8g, mạch môn (bỏ lõi) 16g, tai quả hồng 10 cái; nước 800ml, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày.
7. Chữa viêm bàng quang cấp tính
Lá tre 16g, sinh địa 12g, mộc thông 12g, hoàng cầm 12g, cam thảo 6g, đăng tâm thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
8. Chữa miệng lưỡi lở loét
Búp tre 15-20g, sinh địa 10g, mộc thông 10g, cam thảo 8g, sắc nước uống thay nước trong ngày.
9. Chữa đái ra máu
Lá tre, mạch môn, mã đề, rễ cỏ tranh, thài lài tía, râu ngô mỗi thứ 20g; nước 700ml, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày.
10. Chữa viêm màng phổi có tràn dịch
Lá tre 20g, thạch cao 20g, vỏ rễ dâu, hạt rau đay, hạt bìm bìm, rễ cỏ tranh, thổ phục linh, bông mã đề mỗi thứ 12g. Dùng 600ml nước, sắc còn 200ml; uống hết một lần trước bữa trưa 30 phút. Lại thêm nước, sắc lần thứ hai, uống trước bữa cơm chiều. Cùng với việc điều trị bằng kháng sinh, bài thuốc này có tác dụng hỗ trợ rất tốt.
Trứng gà ngải cứu: bài thuốc quý cho sức khỏe phụ nữ
Trứng gà ngải cứu là món ăn giàu dinh dưỡng, rất tốt cho sức khỏe con người. Đặc biệt đối với phụ nữ, đây là món ăn bài thuốc có tác dụng giải độc, chữa nhiều bệnh phụ khoa và làm đẹp da vô cùng hiệu quả.
July 19, 2021
Share
Công dụng của món ăn trứng gà ngải cứu
Trong Đông y, lá ngải cứu (lá ngải, ngải diệp) có tính ấm, vị đắng, không độc, giúp cơ thể tăng dương, thông 12 kinh, hồi dương, cân bằng khí huyết, tiêu trừ lạnh, cầm máu, an thai; có thể dùng để châm cứu, xoa bóp, xông ngâm hoặc ăn trực tiếp.
Đông y đề cao tác dụng của ngải cứu trong việc điều trị các bệnh liên quan đến hàn lạnh như: xuất huyết, đau bụng đi ngoài, phụ nữ bị rối loạn kinh nguyệt, đau bụng kinh, đau bụng, chảy máu tử cung và làm đẹp… Vì thế, ngải cứu còn được gọi với biệt danh là “thuốc thần” chữa bệnh phụ khoa.
Còn trứng gà có chứa hàm lượng protein cao; lòng đỏ trứng gà có nhiều canxi, sắt, vitamin rất tốt cho sức khỏe con người.
Theo các chuyên gia, khi kết hợp trứng gà với ngải cứu sẽ mang đến những tác dụng không ngờ cho sức khỏe. Khi nấu cùng với nhau, trứng không chỉ bổ dưỡng mà còn có mùi vị đặc biêt; món ăn này có tác dụng thúc đẩy lưu thông máu và loại bỏ máu ứ.
Với phụ nữ, món ăn này còn giúp chăm sóc và bảo vệ da vô cùng tuyệt vời; bởi vì nó có thể giữ ẩm cho da; giúp loại bỏ chất cặn bã, vết bẩn bám trên da, khiến các vết thâm nám dần biến mất. Phụ nữ thường xuyên ăn món này, có tác dụng rất lớn trong việc trì hoãn sự lão hóa của da; khiến da luôn mịn màng và trắng hồng rạng rỡ.
Món ăn trứng gà ngải cứu trị bệnh
Tăng cường hệ miễn dịch
Đây là món ăn giàu chất dinh dưỡng, giúp chị em bổ sung các chất cần thiết cho cơ thể. Với những phụ nữ có thể chất yếu, dễ bị cảm lạnh, nên ăn trứng gà luộc ngải cứu sẽ giúp tăng cường hệ miễn dịch và giúp phòng ngừa nhiều bệnh tật.
Giúp làm ấm phần phụ, điều trị đau bụng kinh
Theo y học cổ truyền, lá ngải cứu có tính ấm, nên có tác dụng tốt trong việc giảm hàn lạnh thể chất khi phụ nữ vào kỳ kinh nguyệt. Giảm hiện tượng cơ thể lạnh và đau bụng kinh. Hỗ trợ sức khỏe bà bầu, phòng tránh sảy thai.
Nếu tử cung của phụ nữ có môi trường quá lạnh sẽ làm giảm đáng kể khả năng thụ thai. Bên cạnh đó, tử cung lạnh sẽ gây nguy cơ cao dẫn đến hiện tượng thai lưu, sảy thai, khó giữ thai ở phụ nữ trẻ tuổi. Vì vậy, để làm ấm tử cung và phần phụ; việc thường xuyên ăn món trứng gừng ngải cứu có tác dụng hỗ trợ việc an thai rất tốt.
Đau bụng kỳ kinh nguyệt là nỗi ám ảnh của phụ nữ.
Món ăn hỗ trợ việc an thai cho phụ nữ rất hiệu quả; nhưng chị em chú ý trong 3 tháng đầu không nên ăn quá nhiều nhé! (ảnh: Pixabay)
Người bị hỏng thai nhiều lần, ăn món này sẽ cảm nhận rõ tác dụng cho lần mang thai kế tiếp. Nhưng chú ý, không nên ăn quá nhiều trong ba tháng đầu thai kỳ; vì sẽ làm tăng nguy cơ ra máu; co bóp cổ tử cung; dễ dẫn đến sảy thải hoặc sinh non.
Trứng gà ngải cứu chữa kinh nguyệt không đều
Lá ngải cứu có tác dụng cầm máu rất tốt. Những người cơ thể lúc nào cũng cảm thấy lạnh, ớn rét, tay chân buốt, nổi da gà khi gặp gió lạnh sử dụng món ăn này rất tốt. Phụ nữ kinh nguyệt không đều, thường xuyên đau bụng kinh, chảy máu nhiều; có thể dùng món ăn bài thuốc trứng gà ngải cứu này. Ăn cho đến khi triệu chứng kinh nguyệt ổn định bình thường.
Loại bỏ dư thừa độ ẩm trong cơ thể
Dư thừa độ ẩm có thể khiến cơ thể phù thũng, cảm giác nặng nề, mệt mỏi, người thiếu năng lượng, chân tay lạnh… Trong Đông y, trứng gà và ngải cứu kết hợp thêm gừng tươi được xem là món ăn hiệu quả trong việc loại bỏ độ ẩm dư thừa trong cơ thể.
Ngải cứu và gừng trong món ăn đều thuộc tính ấm, nên có tác dụng nâng cao nhiệt lượng của cơ thể,; tiêu trừ ẩm ướt nhanh chóng. Khi ăn vào, dương khí trong cơ thể sẽ tăng lên.Khi ngải cứu kết hợp với trứng gà, có thể mang thêm lợi ích bổ sung dinh dưỡng, làm cho cơ thể dễ dàng hấp thụ và phát huy tối đa tác dụng trong việc bồi bổ sức khỏe.
Cách nấu trứng gà hầm ngải cứu
Rau ngải cứu: 1 nắm
Trứng gà: 1 quả.
Gừng tươi: 1 lát mỏng thái chỉ.
Cho trứng gà, gừng và ngải cứu (đã rửa sạch để ráo) vào nồi với lượng nước vừa đủ và nấu chín. Khi trứng chín có thể bóc vỏ thì lấy ra bóc bỏ vỏ; rồi lại cho vào nồi tiếp tục nấu thêm 1 lúc; ăn cả nước lẫn cái khi cón nóng.
Ăn ngải cứu trứng gà thế nào cho tốt?
Trứng ngải cứu là món ăn rất ngon và bổ dưỡng. Tuy nhiên, không nên ăn quá nhiều; nếu không sẽ bị phản tác dụng; hoặc những người không ăn được trứng ngải cứu thì sẽ rất có hại. Do đó, không nên ăn quá nhiều một lúc; hay trong 1 khoảng thời gian kéo dài.
Những ai không nên ăn món này?
Người bị viêm gan: Tinh dầu trong ngải cứu là thành phần có tác dụng chữa bệnh, nhưng cũng là thành phần có độc tính. Người bệnh viêm gan ăn trứng gà hầm ngải cứu có thể gây rối loạn chuyển hóa của tế bào gan; dẫn tới viêm gan cấp tính do trúng độc và viêm gan vàng da; gan to, nước tiểu đục, nước tiểu có lẫn dịch mật…
Người bị rối loạn đường ruột cấp tính: Ngải cứu giúp làm tăng việc đi tiểu nhiều; và có thể được sử dụng như là thuốc nhuận tràng. Do đó, người bị rối loạn đường ruột không nên ăn ngải cứu.
Mỗi lần nhớ lại cuốn truyện Bá Tước Kích Tôn Sơn (Le Comte de Monte Cristo) của A. Dumas, tôi đều cảm thấy rùng mình trước lòng thù hận và sự trả thù của nhân vật chính trong truyện. Nhưng sự tha thứ đối với người gây tổn thương cho mình không phải là dễ thực hiện, dù chúng ta có thể biết rằng tha thứ có lợi cho sức khỏe của chính mình.
Gần như tất cả mọi người đều đã từng bị tổn thương bởi những hành động hay lời nói của kẻ khác. Có thể là bạn bị mẹ chỉ trích khả năng làm cha mẹ của bạn, đồng nghiệp phá hoại một dự án của bạn chẳng hạn. Những tổn thương này có thể để lại cho bạn những cảm xúc tức giận, cay đắng hoặc thậm chí ý muốn trả thù.
Nhưng nếu bạn không thực hành sự tha thứ, bạn có thể là một trong những người phải trả giá đắt nhất. Bằng cách tha thứ, bạn có thể có được an bình, hy vọng, lòng biết ơn và niềm vui. Hãy tìm biết tại sao tha thứ có thể dẫn bạn đi trên con đường an lành của thể chất, tình cảm và tâm linh.
Tha thứ là gì?
Nói chung, tha thứ là quyết định buông bỏ sự oán giận và những ý tưởng trả thù. Những chuyện đã làm tổn thương hoặc xúc phạm bạn có thể vẫn còn đó, là một phần của cuộc sống của bạn, nhưng tha thứ có thể làm những giảm ảnh hưởng của chúng lên bạn và giúp bạn tập trung vào những phần tích cực hơn trong cuộc sống của bạn. Sự tha thứ thậm chí có thể làm bạn hiểu biết, cảm thông và từ bi đối với người làm tổn thương bạn.
Sự tha thứ không có nghĩa là bạn cho phép người làm tổn thương bạn tránh trách nhiệm, và nó không giảm thiểu hoặc biện minh cho những sai lầm. Bạn có thể tha thứ cho một người mà không biện minh cho hành động của họ. Sự tha thứ mang lại niềm an bình giúp bạn bỏ qua và tiếp tục tiến bước trong cuộc sống.
Buông bỏ mối hận thù và lòng cay đắng có thể mở đường cho hạnh phúc, sức khỏe và bình an. Tha thứ có thể dẫn đến:
-Những mối quan hệ lành mạnh
-Sự lành mạnh tâm tinh và tâm lý
-Bớt lo âu, căng thẳng và thù nghịch
-Hạ huyết áp
-Triệu chứng của bệnh trầm cảm ít hơn
-Hệ thống miễn dịch mạnh lên
-Cải thiện sức khỏe tim mạch
-Lòng tự trọng tăng cao
Khi đang bị tổn thương bởi người bạn yêu thương và tin tưởng, bạn có thể trở nên giận dữ, buồn hay bối rối. Nếu bạn cứ nghĩ về sự kiện hoặc tình huống gây tổn thương, mối ác cảm đầy oán giận, thù hận và muốn trả thù có thể tạo căn rễ và lớn mạnh. Nếu bạn cho phép những cảm xúc tiêu cực che lấp những cảm xúc tích cực, bạn có thể cảm thấy mình bị nuốt chửng bởi cảm giác cay đắng hoặc cảm thấy bị bất công.
Nếu không thể tha thứ, bạn có thể:
-Mang theo sự tức giận và cay đắng vào mọi mối quan hệ và kinh nghiệm mới
-Luôn nhớ tới những sai lầm thành ra không thể tận hưởng hiện tại
-Trở nên trầm cảm hay lo âu
-Cảm thấy cuộc sống của bạn thiếu ý nghĩa hay mục đích, hoặc là đang đi ngược lại với niềm tin tâm linh của bạn
-Mất đi sự kết nối phong phú đầy giá trị với những người khác
Làm sao để tha thứ
Tha thứ là một cam kết cho một tiến trình thay đổi. Để bắt đầu, bạn có thể:
-Tìm biết về giá trị của sự tha thứ và tầm quan trọng của nó trong cuộc sống của bạn vào một thời gian nào đó.
-Suy nghĩ về các sự kiện của tình hình, cách bạn đã phản ứng, và ảnh hưởng của 2 việc này lên đời sống, sức khỏe và hạnh phúc của bạn
-Chủ động lựa chọn sự tha thứ cho người đã xúc phạm bạn, khi bạn đã sẵn sàng
-Ra khỏi vai trò nạn nhân và chối bỏ ảnh hưởng của người vi phạm và sự việc lên cuộc sống của bạn
Khi đã buông bỏ mối hận thù, bạn sẽ không còn cảm thấy cuộc sống của bạn bị định nghĩa bằng việc bị tổn thương. Bạn thậm chí còn có thể thấy từ bi và hiểu biết.
Tha thứ có thể rất khó khăn, nhất là nếu người làm tổn thương bạn không thừa nhận đã sai hoặc không nói về nỗi buồn của mình. Nếu bạn thấy mình bị mắc kẹt trong tình huống như vậy, hãy:
-Xem xét lại câu chuyện từ quan điểm của người khác.
-Tự hỏi tại sao họ lại cư xử như vậy. Có lẽ bạn sẽ có phản ứng tương tự như vậy nếu bạn gặp phải tình trạng tương tự.
-Suy nghĩ về những lúc bạn đã làm tổn thương người khác và những người đã tha thứ cho bạn.
-Viết nhật ký, cầu nguyện hoặc thiền định - hoặc nói chuyện với một người khôn ngoan và từ bi, chẳng hạn như một nhà lãnh đạo tinh thần, một người cung cấp sức khỏe tâm thần, hoặc một người thân hoặc bạn bè vô tư.
-Nhận ra rằng sự tha thứ là một tiến trình và thậm chí những xúc phạm nhỏ nhặt cũng có thể cần phải được xem xét lại và tha thứ nhiều lần.
Nếu các sự kiện gây tổn thương liên quan đến một người mà bạn coi trọng mối quan hệ với họ, sự tha thứ có thể dẫn đến sự hòa giải, nhưng không phải là luôn luôn như vậy. Hòa giải có thể không xảy ra nếu người phạm tội đã chết hoặc không muốn giao tiếp với bạn. Trong các trường hợp khác, sự hòa giải có thể không thích hợp. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể tha thứ dù không hòa giải.
Nếu bạn chưa đạt tới trạng thái tha thứ, đến gần người làm bạn tổn thương có thể làm bạn phải căng thẳng và căng thẳng. Để đối phó với tình huống này, hãy:
-Nhớ rằng bạn có thể chọn tham dự hoặc tránh các cuộc tụ họp mà bạn người đó sẽ có mặt . Nếu bạn chọn tham dự, không nên ngạc nhiên là sẽ có sự ngượng ngùng hoặc những cảm xúc mãnh liệt hơn khi đối diện.
-Tôn trọng chính mình và làm những gì có vẻ tốt nhất.
-Cố gắng mở rộng trái tim và tâm trí. Bạn có thể thấy rằng kinh nghiệm không vui đó sẽ giúp bạn tiến lên với sự tha thứ.
Bắt một người khác thay đổi hành động, hành vi hay lời nói của họ không phải là mục đích của sự tha thứ. Hãy nghĩ rằng sự tha thứ có thể thay đổi cuộc sống của bạn - bằng cách mang lại cho bạn sự bình an, hạnh phúc, và chữa lành tình cảm và tâm linh. Tha thứ có thể làm tan biến ảnh hưởng mà người kia vẫn tiếp tục có được trên cuộc sống của bạn.
Bước đầu tiên là phải thành thực đánh giá và thừa nhận những sai lầm bạn đã làm và ảnh hưởng của chúng lên người khác. Đồng thời, tránh đánh giá mình quá gay gắt. Bạn là người, và bạn sẽ có những sai lầm.
Nếu đang thực sự hối hận về những gì bạn đã nói hay làm, hãy xem xét thử bạn có thể thú nhận điều đó với người bạn đã làm tổn hại. Nói lên nỗi buồn hay hối tiếc chân thành của bạn, và đặc biệt xin được tha thứ - mà không bào chữa.
Hãy nhớ rằng, bạn không thể ép buộc một người nào đó tha thứ cho bạn. Mỗi người đề cần phải đi đến việc tha thứ bằng cách và tốc độ riêng của họ. Dù kết quả ra sao, bạn hãy cam kết sẽ đối xử với người khác bằng tình thương, sự đồng cảm và tôn trọng.
Hãy tự kiểm tra sức khỏe của chính mình - Thật đơn giản
Nắm chặt tay trong 30 giây để biết tình trạng sức khỏe của bạn
Chỉ cần nắm chặt tay trong 30 giây, bạn đã có thể biết tình trạng sức khỏe hiện tại của mình mà không cần phải đến bệnh viện kiểm tra! Hãy thử thực hiện những thử nghiệm dưới đây.
Thử nghiệm 1:
Nắm chặt tay thành nắm đấm trong vòng 30 giây sau đó mở ra xem
Chúng ta hãy cùng thực hiện một thử nghiệm để kiểm tra tình trạng sức khỏe của chính mình: nắm bàn tay nghiến chặt lại với nhau trong vòng 30 giây, sau đó mở ra và quan sát xem màu trắng ở lòng bàn tay sẽ biến mất ngay lập tức hay phải mất một khoảng thời gian.
Khi nắm chặt tay sẽ khiến cho các mạch máu ở dưới tay bị ép lại và gây áp lực lên lòng bàn tay. Hành động bóp chặt này sẽ ngăn chặn và cản trở hệ thống tuần hoàn máu, do đó lòng bàn tay sẽ trở nên trắng xanh.
Bàn tay khi bị biến thành màu trắng, nếu nó khôi phục lại màu sắc ban đầu ngay lập tức, thì điều đó có nghĩa rằng các mạch máu của bạn vẫn khỏe mạnh. Tuy nhiên, nếu như chúng phải mất nhiều hơn 10 giây để khôi phục, thì bạn nên cẩn thận, đó có thể là một dấu hiệu của bệnh xơ cứng động mạch.
Thử nghiệm 2:
Bóp chặt gốc của móng tay, dùng lực ấn mạnh
Theo học thuyết kinh lạc trong Trung Y, 5 ngón tay của con người đều có rất nhiều kinh huyệt chạy qua. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nội tạng, đặc biệt nếu một ngón tay có cảm giác đau đớn, điều đó có nghĩa là những cơ quan nội tạng tương quan với các kinh huyệt này đang gặp vấn đề.
Bạn hãy nhấn mạnh vào gốc của móng tay, sau đó dùng lực ấn và day chúng, hãy bắt đầu từ ngón út, vê từng ngón một và cảm nhận xem có thấy đau đặc biệt ở một ngón nào không? Cảm giác đau ở mỗi vị trí khác nhau trên ngón tay báo hiệu vấn đề ở từng bộ phận khác nhau.
Đau ngón út:
Những người bị đau ở ngón tay út thường mắc các bệnh về tim hoặc ruột non. Đầu ngón tay út bên mặt áp sát với ngón đeo nhẫn (áp út) gọi là Thiểu Xung huyệt, bên còn lại gọi là Thiểu Trạch huyệt. Thiểu Xung huyệt có quan hệ mật thiết với tim, do đó khi cơn đau tim đến hãy dùng lực ấn mạnh đầu ngón út, có thể giúp giảm bớt cơn đau. Thiểu Trạch huyệt là kinh huyệt của ruột non, khi tình trạng ruột non không được khoẻ, có thể dùng lực ấn mạnh một bên đầu ngón út này.
Đau ngón áp út:
Người có độ dài ngón áp út và ngón trỏ (cạnh ngón tay cái) tương đồng thường có xác suất lên cơn đau tim cao hơn. Khi ngón áp út bị đau có thể gây ra do triệu chứng đau họng hoặc đau đầu. Phía trên của phần tam tiêu kinh trên ngón áp út có một huyệt vị Quan Xung, khi bị cảm cúm, sốt thì có thể dùng tay chà sát vào vị trí này giúp giảm thiểu cơn bệnh.
Đau ngón giữa:
Trên ngón tay giữa có một huyệt Trung Xung, nó có tương quan tới vị trí bao quanh màng tim, nhiều lúc tim không thể chịu được do nhiệt độ gia tăng, ở vị trí huyệt này sẽ cảm thấy đau nhói.
Đau ngón trỏ (ngón áp ngón cái):
Ngón trỏ có chứa huyệt Thương Dương tương quan đến đại tràng (ruột già), khi xuất hiện hiện tượng táo bón, nó sẽ gây áp lực lên khu vực này khiến cho ngón tay trỏ cảm thấy rất đau, điều đó cho thấy bạn đang có vấn đề về đại tràng.
Đau ngón tay cái:
Huyệt Thiểu Thương nằm trên ngón tay cái có liên quan chặt chẽ đến phổi. Chẳng hạn khi phổi xuất hiện bệnh trạng, thì khi ấn vào vùng này ở ngón cái sẽ cảm thấy rất đau.
Nếu bạn cảm thấy rất đau khi nhấn vào đây, vậy thì nhất định nên chú ý, rất có thể một bộ phận nào đó trong cơ thể có tương quan đến đang có vấn đề, tốt nhất hãy đến bệnh viện kiểm tra.
Ngay cả khi đau nhẹ thì nó cũng có liên quan đến huyệt vị trên ngón cái này, nó cho thấy bộ phận tương quan đang có dấu hiệu không bình thường. Lúc này cần ấn và day một cách cẩn thận tại vị trí đó trên ngón cái, việc này sẽ giúp bệnh nhanh chóng được cải thiện.
Không chỉ đối với hai bàn tay như vậy, mà chúng ta cũng nên tạo thói quen hàng ngày như thường xuyên ấn hay vê hai chân, hai tay. Theo thời gian, nó sẽ thúc đẩy sự lưu thông tuần hoàn máu, giúp các bộ phận cơ thể đặc biệt là tim trở nên khoẻ mạnh hơn.
Trong cuộc sống bình thường, chúng ta cũng có thể sử dụng những phương pháp này để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của mình. Nó thực sự rất hiệu quả.
Cẩn thận khi dùng thuốc: nhiều loại thuốc có thể làm tăng huyết áp
BS Nguyễn Thị Nhuận.
Ai cũng biết là thuốc thường có những tác dụng phụ mà người dùng thuốc không muốn xảy ra. Một trong những tác dụng phụ có thể gây tai hại cho người dùng thuốc là tác dụng làm tăng huyết áp. Có rất nhiều loại thuốc có tác dụng phụ tai hại này, bao gồm những thuốc có toa, thuốc mua tự do ngoài quầy, kể cả thuốc bổ hay thuốc
“dược thảo”. Ngoài tác dụng làm tăng huyết áp, các thuốc này có thể ảnh hưởng đến những thuốc giảm huyết áp mà bệnh nhân đang uống khiến những thuốc này giảm bớt hay không còn công hiệu, do đó huyết áp không còn được kiểm soát nữa.
.
Bài này kể ra những loại thuốc làm tăng huyết áp. Nếu bạn đang uống những thuốc này và sợ rằng chúng ảnh hưởng đến huyết áp của bạn, nên đem thuốc đến nói chuyện với bác sĩ.
1) Thuốc giảm đau hay chống viêm:
Một vài loại thuốc giảm đau hay chống viêm có thể làm bạn giữ nước trong người, gây ra vấn đề thận và làm tăng huyết áp. Dưới đây là một vài thí dụ:
- Indomethacin (tên hiệu là Indocin)
- Thuốc chống viêm không phải là steroid (NSAIDs), gồm có naproxen sodium (tên hiệu là Aleve, Anaprox) và ibuprofen (tên hiệu là Motrin IB, Advil)
- Piroxicam (Feldene)
Nếu bạn đang dùng các thuốc giảm đau và chống viêm này, nên đo huyết áp thường xuyên. Hỏi BS xem thuốc giảm đau nào là tốt nhất cho bạn. Nếu bạn cần phải uống loại thuốc làm tăng huyết áp, BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp.
2) Thuốc chữa trầm cảm:
Thuốc chữa tràm cảm hoạt động bằng cách đổi cách cơ thể của bạn phản ứng với các chất hóa học do não sản xuất, là những chất serotonin, norepinephrine và dopamine, ảnh hưởng tới cảm xúc của bạn. Các chất này cũng có thể làm tăng huyết áp. Dưới đây là một số thí dụ:
Nếu bạn đang dùng những thuốc chống trầm cảm trên, nên đo huyết áp thường xuyên. Nếu huyết áp của bạn tăng lên hay không thể kiểm soát được, hỏi BS cho thuốc khác thay thế. BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp.
3) Thuốc hay dụng cụ ngừa thai
Thuốc ngừa thai hoặc các dụng cụ ngừa thai có chứa kích tố làm tăng huyết áp do làm các mạch máu co lại. Hầu như tất cả các loại thuốc uống ngừa thai, thuốc dán ngừa thai hay vòng âm đạo đều có lời khuyến cáo là huyết áp có thể tăng. Nguy cơ tăng huyết áp sẽ cao hơn nếu người dùng thuốc lớn hơn 35 tuổi, cân nặng quá khổ hay có hút thuốc.
Không phải ai dùng thuốc ngừa thai có kích tố đều bị tăng huyết áp nhưng để cẩn thận, nên đo huyết áp ít nhất mỗi 6 tháng. Nếu bạn đã bị cao huyết áp, nên tìm cách ngừa thai khác. Nguy cơ bị tăng huyết áp sẽ ít hơn nếu bạn dùng loại thuốc có chứa liều lượng estrogen thấp.
4) Chất caffeine
Chất caffeine có thể làm tăng huyết áp? Điều này vẫn còn đang được bàn cãi. Nếu bạn uống một lúc 200- 300mg chất caffeine, huyết áp của bạn có thể tăng cao, nhưng tác dụng này không biết là chỉ tạm thời hay kéo dài lâu.
Caffeine có thể tạm thời gây ra huyết áp cao, bằng cách ngăn chặn một loại kích tố làm cho mạch máu nở ra để máu chạy thông hơn. Ngoài ra, caffeine, còn khiến cơ thể chúng ta tiết ra nhiều cortisol và và adrenaline khiến máu chạy nhanh hơn gây ra tăng huyết áp.
Tuy nhiên, vẫn chưa có chứng cớ cho thấy tác dụng tăng huyết áp của caffeine sẽ kéo dài. Dưới đây là một vài thuốc hay sản phẩm có chứa caffeine:
- Thuốc caffeine (tên hiệu là Vivarin)
- Cà phê, nước năng lực và một số nước uống khác
Một vài nghiên cứu đưa giả thuyết cà phê có chứa một chất làm hạ huyết áp, làm vô hiệu tác dụng của caffeine. Thêm nữa, nồng độ caffeine trong các loại cà phê khác nhau xa, do đó khó có thể đưa ra lượng cà phê mỗi ngày người ta có thể uống mà an toàn. Nếu muốn thử xem caffeine có làm tăng huyết áp của bạn không, nên đo huyết áp 30 phút sau khi uống 1 cup cà phê hay một loại thức uống nào có chứa caffeine. Nếu huyết áp tăng lên từ 5- 10 điểm, bạn có thể bị nhạy cảm với tác dụng tăng huyết áp của cà phê.
5) Thuốc nghẹt mũi
Thuốc nghẹt mũi làm các mạch máu co lại khiến máu khó chạy qua hơn đưa đến việc tăng huyết áp. Thuốc trị nghẹt mũi cũng có thể khiến vài loại thuốc trị cao huyết áp bớt hiệu quả. Đây là vài thí dụ về thuốc trị nghẹt mũi: Pseudoephedrine (Sudafed), Phenylephrine (Neo- Synephrine). Nên xem kỹ nhãn hiệu của loại thuốc cảm hay thuốc chữa dị ứng của bạn để xem nó có chứa thuốc nghẹt mũi không. Nếu bạn bị huyết áp cao, tốt nhất là tránh uống thuốc nghẹt mũi. Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ về các loại thuốc chữa nghẹt mũi dành cho người bị huyết áp cao.
6) Thuốc bổ sung (supplementals) hay dược thảo
Hãy nhớ nói cho bác sĩ biết những thứ thuốc bổ sung hay “dược thảo” bạn đang dùng hay định dùng để xem những thuốc này có thể làm tăng huyết áp hoặc tương tác với các thuốc chữa huyết áp cao.
Dưới đây là ví dụ về các thuốc bổ sung dược thảo có thể ảnh hưởng đến huyết áp hoặc tương tác với thuốc huyết áp:
- Kim sa (Arnica montana)
- Cam đắng (Citrus aurantium)
- Ephedra (ma- huang)
- Ginkgo (Ginkgo Bilboa)
- Nhân sâm (Panax quinquefolius và Panax ginseng)
- Guarana (Paullinia cupana)
- Cam thảo (Glycyrrhiza glabra)
- Senna (Cassia senna)
- St. John's wort (Hypericum perforatum)
Các loại “dược thảo” thường xưng là an toàn vì là thiên nhiên, điều này không nhất thiết là đúng. Nên nói chuyện với bác sĩ trước khi dùng bất cứ dược thảo nào. Nên tránh những loại thuốc bổ có thể làm tăng huyết áp của bạn hoặc gây trở ngại với thuốc hạ huyết áp của bạn.
7) Thuốc ức chế miễn dịch
Một số thuốc ức chế miễn dịch có thể làm tăng huyết áp của bạn, có thể vì ảnh hưởng đến thận. Dưới đây là các thuốc ức chế hệ miễn dịch có thể làm tăng huyết áp:
Nên đo huyết áp thường xuyên. Nếu huyết áp của bạn tăng hoặc không được kiểm soát tốt, hãy hỏi bác sĩ về những thuốc thay thế cho các loại thuốc này. BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp.
8) Thuốc kích thích
Những thuốc kích thích, chẳng hạn như methylphenidate (Ritalin), có thể làm cho tim bạn đập nhanh hơn hoặc tăng huyết áp của bạn một cách đột xuất.
Nên đo huyết áp thường xuyên nếu bạn cầm uống những thuốc kích thích. Nếu huyết áp của bạn tăng hoặc không được kiểm soát tốt, hãy hỏi bác sĩ về những thuốc thay thế cho các loại thuốc này. BS có thể khuyên bạn nên thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn hoặc cho bạn uống thêm thuốc làm bớt huyết áp.
9) Thuốc bất hợp pháp
Các thuốc bất hợp pháp có thể làm tăng huyết áp bằng cách thu hẹp các động mạch cung cấp máu cho tim của bạn. Điều này làm tăng nhịp tim và thiệt hại cho cơ tim.
Các loại thuốc bất hợp pháp có thể ảnh hưởng đến tim gồm có:
- Amphetamine, bao gồm methamphetamine
- Anabolic steroids
- Cocaine
Nếu bạn đang sử dụng ma túy bất hợp pháp, nên ngưng lại. Hãy hỏi bác sĩ của bạn về các chương trình tư vấn hoặc điều trị bằng thuốc.
hương pháp chữa bệnh bằng dầu mè .
Chữa bệnh bằng cách nhai dầu mè hoặc dầu hướng dương
CHỮA BỆNH BẰNG CÁCH NHAI DẦU
Bác sĩ y khoa F. Karach đã thuyết trình trước hiệp hội người Ukraina. Buổi hội nghị được các bác sĩ chuyên gia ung thư và nhà vi khuẩn học thuộc viện Hàn Lâm khoa học Xô viết tham dự. Bác sĩ Karach đã giải thích về quá trình chữ bệnh đơn giản nhưng lạ thường bằng cách sử dụng dầu . ..
Những kết quả từ liệu pháp của ông gây ra sự ngạc nhiên và nghi ngờ về những nội dung trong báo cáo của ông. Tuy nhiên sau khi đã kiểm chứng thêm về những công dụng của liệu pháp nhai dầu, bạn có thể thấy tính hiệu dụng của nó.
Những kết quả nầy thật bất ngờ đạt được chỉ với phương pháp chữa bệnh sinh học hoàn toàn không gây hại. Phương pháp đơn giản có thể được chữa nhiều loại bệnh và trong vài trường hợp có thể giúp bạn tránh sự can thiệp của phẩu thuật hay dược phẩm mà có thể có tác dụng phụ.
Yếu tố thú vị nhất của liệu pháp nầy là tính đơn giản của nó. Nó bao gồm việc súc và nhai dầu trong miệng ( dầu hướng dương hay dầu mè), loại tinh chế mà bạn có thể mua ở siêu thị, đều có kết quả với tất cả mọi người.
Quá trình chửa bệnh đạt được trên các cơ quan của cơ thể. Bằng cách nầy việc chữa các tế bào, mô và tất cả các bộ phận đồng thời có thể thực hiện được và cơ thể sẽ loại bỏ được các chất thải độc hại mà không làm xáo trộn thể trạng.
Bác sĩ Karach nói rằng con người ngày nay chỉ sống một phần hai quãng đường của họ. Họ có khả năng sống khoẻ mạnh đến 140 hay 150 tuổi.
PHƯƠNG PHÁP.
Buổi sáng, trước khi ăn sáng để dạ dày trống, bạn hãy cho một muỗng dầu vào trong miệng (không nuốt), nhai từ từ trong miệng như súc miệng bằng dầu, nhai tới nhai lui, súc qua kẽ răng từ 15 đến 20 phút.
Trong quá trình nầy làm cho dầu hoàn toàn hòa lẫn với nước bọt. Việc nầy làm kích hoạt các Enzyme và các Enzyme nầy sẽ hút các độc tố ra khỏi máu. Dầu không được nuốt vì lúc nầy nó trở thành một chất độc. Sau khi nhai và súc miệng, dầu sẽ trở nên loãng và trắng.
Nếu dầu vẫn còn vàng, chứng tỏ nó vẫn chưa được nhai đủ. Sau khi nhổ dầu ra khỏi miệng, các kẽ răng phải được súc lại bằng nước muối, cạo lưỡi hoàn toàn thật kỹ .
Vì dầu nhổ ra có chứa nhiều vi khuẩn độc hại và độc tố của cơ thể, nên bồn rửa (Waschbecken) phải lau chùi thật sạch bằng xà bong và nước khử trùng. Nếu bạn có dịp nhìn một giọt dầu này dưới kính hiển vi phóng đại 600 lần, bạn sẽ thấy các vi khuẩn ở giai đoạn đầu phát triển.
Điều này là quan trọng để hiểu rằng trong lúc nhai dầu, quá trình trao đổi chất của bạn sẽ được tăng cường. Nó sẽ giúp tăng cường sức khỏe.
Một trong những kết quả đáng ngạc nhiên nhất của quá trình này là nó làm chặt các răng lung lay của bạn, giảm thiểu nướu bị chảy máu và làm trắng răng.
Nhai Dầu đạt hiệu quả tốt nhất trước buổi ăn sáng. Để quá trình chữa bệnh nhanh chóng, bạn có thể nhai dầu 3 lần 1 ngày, nhưng luôn luôn là trưóc bữa ăn với dạ dày trống.
Những Điều Cần Đề Phòng
Không được nuốt, dầu nhai phải nhổ ra. Nhưng nếu bạn nuốt phải thì cũng không có gì đáng lo. Nó sẽ đi ra ngoài theo đường đại tiện.
Nếu bạn dị ứng với loại dầu nào, hãy đổi loại dầu đó và ngậm loại dầu khác.
Dầu hướng dương hay dầu mè đều có hiệu quả ngang nhau trong việc chữa bệnh. Các loại dầu khác thì không tốt bằng. Do đó không thể đổ lỗi cho việc nhai dầu nếu sử dụng các loại dầu khác. Nên sử dụng dầu tinh chế (100%).
Hypertension, thường được gọi là bệnh áp huyết cao, làm cho khoảng 50,000 người Mỹ chết mỗi năm. Bệnh này cần được theo dõi thường xuyên, vì vậy có rất nhiều máy đo áp huyết giúp bệnh nhân tự theo dõi mỗi ngày tại nhà.
Thử nghiệm mũ đội tại nhà giúp thu nhỏ khối u não
Các nhà khoa học phát triển loại mũ có thể tạo ra từ trường tấn công tế bào ung thư, lần đầu tiên thử nghiệm thành công trên người.
Nhóm chuyên gia tại Viện Thần kinh học Methodist Houston sử dụng mũ từ trường để thu nhỏ 1/3 khối u não của một bệnh nhân tại nhà, IFL Science hôm 27/7 đưa tin. Đây là lần đầu tiên thử nghiệm này thực hiện trên người, cho thấy một phương pháp mới tiềm năng và không xâm lấn để điều trị ung thư não. Nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Frontiers in Oncology.
TẢN MẠN VỀ SỨC KHOẺ
Mọi người thường nói: mình sẽ không biết quý trọng cái gì đó cho đến khi nó bị mất.
Có rất nhiều thứ từ vật chất đến tinh thần đúng với nhận định đó, trong đó có một phạm trù rất quan trọng: SỨC KHỎE.
Không phải vì mình là bác sĩ nên đề cao vấn đề sức khỏe mà vì mình đã từng trải nghiệm về nó trong nhiều vai trò khác nhau.
1. Khi là sinh viên Y khoa:
Khi là sinh viên, hàng ngày mình tiếp xúc với bệnh nhân thường xuyên hơn bác sĩ vì phải khai thác càng nhiều thông tin của bệnh nhân càng tốt – không đơn thuần chỉ là các triệu chứng về bệnh tật mà còn về công việc, hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, môi trường làm việc … để có thể chẩn đoán bệnh được chính xác, để có một bộ hồ sơ bệnh án đầy đủ nhất phục vụ cho công việc học tập.
Suốt 4-5 năm dài như thế, mình nhận thấy có rất nhiều người đã bỏ lỡ khoảng thời gian vàng để điều trị bệnh. Do thiếu kiến thức cũng có, do phải vất vả mưu sinh không có thời gian cho chính bản thân mình cũng có, do điều kiện kinh tế hạn hẹp cũng có và do chủ quan cũng có … để rồi khi nghe bác sĩ thông báo thì đã quá muộn. Một sự hối hận muộn màng!
Kinh nghiệm rút ra: Cần phải biết LẮNG NGHE CƠ THỂ và QUAN TÂM ĐẾN SỨC KHỎE ĐÚNG LÚC NHẤT.
2. Khi là Bác sĩ:
Trực tiếp tham gia khám bệnh, điều trị, phẫu thuật mình mới nhận ra: “Ông trời” đôi khi cũng đánh đố con người! Có những bệnh không hề lên tiếng nên không thể lắng nghe, có những bệnh xuất hiện đột ngột không kịp lắng nghe, có đôi khi cơ thể phát tín hiệu giả nên bị nghe nhầm và cũng có khi lắng nghe quá kỹ rồi lầm tưởng vấn đề trầm trọng nên bị stress - nhất là hiện nay khi có thêm sự xuất hiện của bác sĩ Google.
Kinh nghiệm rút ra: nên duy trì KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ, quản lý tốt HỒ SƠ SỨC KHỎE của chính mình và đừng chần chừ, hãy đến GẶP BÁC SĨ ngay khi cảm thấy sức khỏe có vấn đề.
3. Khi đưa người nhà đi khám bệnh:
Người thân của bác sĩ cũng mắc bệnh và nếu bệnh thuộc lĩnh vực chuyên khoa khác, bác sĩ cũng phải đưa người nhà đến bệnh viện.
Thời gian chờ đợi người nhà đi khám và làm cận lâm sàng là thời gian bác sĩ quan sát, ngầm so sánh dịch vụ ở đó với nơi mình làm việc. Nó có thể tốt hơn, có thể tệ hơn nhưng nói chung là: mệt mỏi!
Kết luận: dù là trải nghiệm tốt hay xấu, tốt nhất là CẢ NHÀ CÙNG KHỎE MẠNH để đừng có dịp trải nghiệm tại bệnh viện.
4. Khi là người nuôi bệnh:
Người nhà bệnh nặng nằm trong ICU, tôi cũng trải chiếu nằm lăn lóc ở hành lang. Hàng ngày, chờ đợi gọi tên đi đóng thêm tiền tạm ứng, gọi tên đưa thêm khăn tả, chờ đợi đến giờ các cô điều dưỡng kéo rèm để được nhìn người nhà qua tấm vách kính vài phút. Trong phòng ICU, những bệnh nhân còn tỉnh cũng mong đến giờ kéo rèm để dáo dác nhìn qua vách kính tìm gương mặt người thân như những người bên ngoài. Cảnh tượng đau lòng làm sao!
Sau này người nhà tôi kể lại: Lúc đó ước ao chỉ cần được là một trong số những người bình thường đứng ngoài kia, bất kể sống ở đâu, bất kể làm nghề gì, giàu cũng được, nghèo cũng không sao, chỉ cần được khỏe mạnh.
Thế mới thấy SỨC KHỎE LÀ TÀI SẢN LỚN NHẤT của mỗi người. HÃY GIỮ GÌN CẨN TRỌNG, không được để mất, chủ động làm cho nó ngày càng dồi dào nếu được; Hoặc chí ít - không để nó bị hao hụt, bào mòn do sử dụng lãng phí hoặc không đúng cách – nhất là khi ta còn trẻ.
5. Khi chính mình là bệnh nhân:
Tôi cũng từng vài lần nằm bệnh viện. Tuy may mắn chỉ là những bệnh thông thường nhưng người nhà cũng phải nghỉ việc vào chăm sóc.
Những lần bệnh nhẹ nằm tại nhà cũng làm mọi người lo lắng, họ đi làm cũng không yên tâm.
Do đó, cần phải KHỎE ĐỂ KHÔNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGƯỜI THÂN, chưa kể nếu bạn là trụ cột - sẽ ảnh hưởng đến kinh tế gia đình.
Lời kết: Mong ước cho mình, cho gia đình mình và mọi người luôn được KHỎE MẠNH, BÌNH AN vượt qua mùa đại dịch.
Ngày 25/02 - năm Covid thứ hai.
Thấy bài hay xin share lại - Chân thành cám ơn
Rau xanh, Bắp rang - thực phẩm vốn được coi là lành mạnh bậc nhất cũng có thể biến thành nguy cơ ung thư khi chúng ta tiêu thụ sai cách.
Trong khuyến cáo về những thực phẩm có khả năng phòng ngừa ung thư . Tổ chức Y tế thế giới (WHO) từng liệt kê rau xanh, hoa quả là một trong những món ăn tiêu biểu nhất. Có 3 loại thực phẩm dưới đây đã được giới chuyên gia cảnh báo có thể gây ung thư cho đường tiêu hóa. Nên hạn chế hay tránh hẳn thì hơn.
1. Rau củ bị mốc: Gây ung thư gan
Các loại thịt thường bị vứt bỏ khi chúng có dấu hiệu thiu, mốc nhưng với các loại rau xanh ai cũng cho rằng chúng chỉ bị mốc ở phần bên ngoài, chỉ cần gọt bỏ là có thể ăn tiếp.
Tuy nhiên, cách này không thể loại bỏ hoàn toàn độc tố aflatoxin do nấm mốc sản sinh ra.
Aflatoxin là một loại độc tố có trong các thực phẩm mốc, sản sinh bởi loài nấm mốc tên là Aspergillus. Bên cạnh việc gây ra tình trạng ngộ độc cấp tính thì aflatoxin còn có thể làm tổn thương trực tiếp tế bào gan, gây thoái hóa và hoại tử. Độc tính aflatoxin tương đương gấp 10 lần lượng kali xyanua và gấp 68 lần so với asen.
Ăn rau củ bị mốc có thể khiến chúng ta tăng nguy cơ tiếp xúc với loại độc tố nguy hiểm này. Tuy nhiên nếu bạn tiêu thụ rau tươi, an toàn thì lại có thể giảm sự hấp thụ aflatoxin vào cơ thể do rau có chất diệp lục. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng rau bina, bông cải xanh, cải bắp và các loại rau xanh khác rất giàu chất diệp lục.
2. Rau muối chua: Ung thư dạ dày
WHO nhận định các thực phẩm càng chứa nhiều muối càng tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư dạ dày. Trong đó, các thực phẩm chứa nhiều muối mà WHO chỉ ra đó là cá muối kiểu Trung Quốc, thịt muối và rau muối. Nguyên nhân được cho là do muối có thể gây làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng, tăng sự phát triển của vi khuẩn HP và cuối cùng tạo nên ung thư.
Ngoài WHO, nhiều chuyên gia cũng lên tiếng cảnh báo cần hạn chế sử dụng món ăn này do trong dưa cà muối có chứa hợp chất nitroso, chất này cũng khiến gan phải hoạt động vất vả để đào thải ra khỏi cơ thể, gây quá tải cho gan, gây viêm gan, xơ gan, thậm chí ung thư gan.
3. Bắp rang bơ.
Những túi đựng bắp rang bơ có chứa Perfluoroalkyl, axit perfluorooctanoic (PFOA) và perfluorooctane sulfonate (PFOS) để ngăn dầu thấm qua bao bì. Khi tiếp xúc với nhiệt nóng, những hóa chất này sẽ thấm vào bắp rang.
Khi bạn ăn phải những chất này, chúng xuất hiện dưới dạng chất gây ô nhiễm máu. Chất PFOA có mối liên hệ với các khối u trong cơ quan động vật (gan, tuyến tụy, tinh hoàn và tuyến vú ở chuột), đồng thời nó cũng làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
Mỹ ái - sưu tầm
An toàn thực phẩm – Đường thốt nốt ngọt dịu, đường phèn ngọt thanh, đường cát ngọt vừa, đường thẻ ngọt đậm,.. Đường làm từ củ cải, hay từ mía,…Tất cả đều là đường, có công thức giống nhau, có độ ngọt bằng nhau. Đã ăn kiêng giảm béo, hay tiểu đường là phải giảm hết mấy thứ đường này.
Màu, hương và vị đánh lừa cái lưỡiĐường cát được xem là đường tinh khiết (99,9%). Đường để pha cà phê, nấu chè, mình gọi là đường ăn, Mỹ gọi là đường bàn (table sugar) – đường trên bàn ăn. Mỗi gram đường ăn sinh ra 4 Calo
Đường ăn bao gồm đường phèn, đường mật, đường thẻ, đường thốt nốt,…đều có tên hoá học là sucrose, nên độ ngọt của chúng bằng nhau.
Để so sánh độ ngọt giữa các chất tạo ngọt, người ta quy ước đường sucrose (đường ăn) có độ ngọt là 1. Các loại đường khác như đường trái cây (fructose) có độ ngọt (1,7), đường glucose (0,75) cũng sinh năng lượng tương tự như đường ăn. Nhưng đường aspartame, một loại đường hoá học có độ ngọt là 200, nhưng hầu như không sinh năng lượng .
Đường thẻ mịn, có độ ẩm cao, nên dễ tan trong miệng, lưỡi cảm nhận được vị ngọt ngay, nên có cảm giác ngọt đậm. Đường phèn ở dạng tinh thể, gồ ghề lởm chởm, “nhả” đường ra chút chút vào lưỡi, nên có cảm giác ngọt nhẹ, ngọt thanh. Đường thốt nốt cho cảm giác ngọt dịu có lẽ do “tạp chất” có trong đường.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, màu sắc của thực phẩm ảnh hưởng đến cảm nhận độ ngọt. Với dung dịch đường sucrose < 1%, thì dung dịch màu sẫm cho cảm giác ngọt hơn từ 1-10% so với dung dịch nhạt màu (*). Mùi của thực phẩm cũng làm cảm nhận độ ngọt khác đi (**). Mấy bà làm bếp, lỡ tay nêm mặn, thường “chữa cháy” bằng cách thêm đường. Thêm gì đi nữa, thì nồng độ muối (độ mặn) trong đồ ăn vẫn thế.
Hương vị tự nhiên của đường thô
Hầu hết đường ăn trong nước đều làm từ mía. Ép mía thành dịch, cô lại, lọc, tẩy trắng, rồi kết tinh thành đường cát, gọi là đường tinh luyện (refined).
Trên thị trường có hai loại đường cát: đường RE (refined extra) và đường RS (refined standard). Đường RE trắng hơn, tạp chất ít hơn so với đường RS
Đường phèn làm từ đường cát, hoà tan lại thành dung dịch, dùng thêm trứng gà trứng vịt, nước vôi để lọc tạp chất, rồi cho kết tinh chậm, nên có được những tinh thể to.
Đường thốt nốt làm bằng nước cốt thu được từ bông thốt nốt. Nước cốt ngay sau khi thu hoạch phải đem nấu đường ngay, nếu không sẽ bị lên men chua. Cách nấu đường theo kiểu thủ công, nên đường thốt nốt còn lẫn một ít chất béo, protein, khoáng,…có tự nhiên trong nước thốt nốt. Do đó, đường thốt nốt có hương vị đặc trưng riêng, cảm giác ngọt dịu là thế.
Bên Tây còn có loại đường nâu (brown sugar), tinh thể đường được phủ lớp mật đường (molasses) có màu nâu nhạt, được dùng để uống cà phê, làm bánh,… Không chỉ cầu kỳ màu sắc mà thôi, đường nâu lẫn chút mật đường cũng tạo ra hương vị riêng. Nhưng đường nâu ở Việt Nam, thường gọi là đường cát vàng, là loại đường kết tinh còn lẫn mật đường, tinh luyện chưa kỹ hoặc không tẩy trắng.
Huyền thoại đường phèn
Ở Việt Nam, thứ gì ngọt đều gọi là đường. Đường tạo ra từ phản ứng hoá học như đường acesulfame K, saccharin gọi là đường hoá học. Đường stevia có tự nhiên trong cỏ ngọt gọi là đường cỏ ngọt. Những loại đường này có độ ngọt gấp trăm lần đường ăn, nhưng hầu như không sinh năng lượng, sẽ được đề cập trong bài viết khác.
Ngoại trừ đường thốt nốt và đường thẻ làm bằng phương pháp thủ công nên còn lẫn chút hương vị, và tạp của nguyên liệu ban đầu (mía hoặc thốt nốt), tương tự như loại dầu olive extra virgin ép nguội.
Nhưng đường phèn, và đường tinh luyện được xem là đường tinh khiết (99,9%), không có một chút dinh dưỡng nào cả (vitamin, khoáng,…), ngoại trừ sinh năng lượng.
Người ta nói đường phèn làm giảm ho, long đờm, chữa viêm họng, trợ tiêu hoá… Những công dụng này chưa được khoa học xác nhận. Đường phèn chỉ là đường sinh năng lượng.
Giới khoa học không…hảo ngọt, thấy của ngọt là không ưa, đường loại nào cũng không thích, đặc biệt là đường ăn. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhấn mạnh rằng họ có bằng chứng, ăn trên 50 g đường mỗi ngày dễ bị sâu răng, tăng cân, béo phì, từ đó mở màn cho nhiều căn bệnh thời đại khác (tim mạch, tiểu đường,…).
Khuyến cáo tiêu thụ không quá 50 g đường chỉ là chiến thuật “nhượng bộ” ban đầu mà Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra. Điều mà WHO muốn là không quá 25 g đường/ ngày.
Bớt muối giảm đường, cuộc đời trở nên… nhạt nhẽo. Giá mà khoa học phát minh ra thứ thuốc nào đó, để mặn ngọt thoải mái mà không bị sâu răng béo phì, tiểu đường cao huyết áp thì đời đẹp biết bao!
Vũ Thế Thành (trích, “Ăn để sướng hay ăn để sợ?”, tập
CẦN BIẾT VỀ COVID -19 VÀ VIỆC
Chu Thụy Nguyên
“Sáng hôm nay 25.02.2021, người phụ trách hội cao niên tại Worcester, Massachusetts cô Dung Phan đã mời dược sĩ Bill nói chuyện online qua phone và ipad, ông đã trả lời mọi câu hỏi đặt ra của bà con cao niên người Việt liên quan đến covid-19, vaccine chủng ngừa covid-19, và những thắc mắc của bà con liên quan đến việc chủng ngừa.
Tôi cũng chỉ là người nghe online qua phone, nhưng nhờ trước 1975 có học qua khoa tốc ký của báo chí nên tôi đã ghi nhanh lại được bài nói chuyện này của dược sĩ Bill. Bây giờ ngồi viết lại chi tiết hầu quý bạn đọc, xin các bạn cứ mạnh dạn chia sẻ rộng rãi đến với người thân, cùng bạn bè khắp nơi trong cộng đồng người Việt mà không cần phải hỏi qua ý kiến của tôi. - Chu Thụy Nguyên”
1) Trước tiên dược sĩ đã nhấn mạnh để chúng ta hiểu rõ về vaccine ngừa covid-19 lần này, so với các loại vaccine xưa kia mà chúng ta từng được chích ngừa như: chủng ngừa đậu mùa, uốn ván, lao phổi, phong đòn gánh… Tạm gọi những vaccine xưa đó là thuốc chủng ngừa truyền thống.
Ở các thuốc chủng ngừa truyền thống đó phòng bào chế đã tạo ra bằng cách dùng chính con virus gây ra bệnh đó, làm cho nó suy yếu bớt đi, sau đó chích nó vào cơ thể con người. Cơ thể chúng ta luôn có sự đề kháng lại với bất cứ vật lạ nào, kể cả vi trùng lạ xâm nhập. Các kháng thể trong người chúng ta luôn giữ vai trò các chiến sĩ phòng thủ, mỗi khi thấy sinh vật lạ vào là các quân lính tinh nhuệ ấy sẽ bao vây và đánh nhau tơi bời với các sinh vật lạ ấy. Khi đó chúng ta có thể có phản ứng như: sốt, đau nhức…Và cuộc chiến ấy nhằm mục đích thao dợt trước cho các chiến sĩ đề kháng của chúng ta chiến đấu tốt để luôn sẵn sàng bảo vệ cơ thể chúng ta. Lỡ một mai, vi trùng các bệnh ấy xâm nhập thật vào cơ thể chúng ta, đội ngũ các chiến sĩ đã quen mặt quân địch rồi nên chúng sẽ kéo nhau ra bao vây và đập cho bọ vi trùng kia một trận tơi bời để bảo vệ cơ thể chúng ta.
Nhưng với Covid-19 ngày nay thì khác, tầm sát hại của nó quá lớn và mạnh, vì vậy ngành dược không thể áp dụng phương thức truyền thống, tức là lấy virus covid làm yếu đi để chích vào cơ thể chúng ta được, vì như vậy sẽ rất nguy hiểm cho bệnh nhân. Do đó, vaccine chủng ngừa covid-19 lần này được các nhà bào chế áp dụng phương pháp mới có tên gọi là MRNA Vaccine .
Vaccine ngừa covid-19 của Mỹ hiện nay do 2 hảng Pfizer và Moderna bào chế hiệu quả 95% đều là loại MRNA Vaccine. Với loại vaccine này các nhà bào chế không dùng virus covid-19 làm suy yếu đi, nhưng các nhà bào chế đã nghiên cứu thấy hình thù của con virus covid-19 có dạng của một tế bào có gai lởm chởm. Từ đó, các nhà bào chế đã chế tạo vaccine MRNA này.
Khi tiêm loại vaccine này vào người, các tế bào trong cơ thể của chúng ta sẽ bao vây, nhai nuốt ngấu nghiến và ăn sạch các MRNA này, và ngay sau đó sẽ tạo ra một loại protein có gai lởm chởm giống y hình thù con Chinese virus covid-19. Và ở ngay mũi chích thứ nhứt, kháng thể trong cơ thể mình liền vùng lên chống lại những tế bào có gai đó. Đây chính là cuộc tập trận giả mà bia để bắn là hình thù y chang kẻ địch trong tương lai.
Đến khi chích mũi thứ 2, lượng protein có gai càng nhiều hơn, quân lính kháng thể sẽ tha hồ đập tơi tả kẻ thù (giả). Và một ngày nào đó, nếu bạn chẳng may dính đúng covid-19 thứ thiệt. Khỏe re! Kháng thể sẽ lao ra nhận diện kẻ thù, ồ! Cũng toan là đám giặc có gai, chẳng mấy chốc đã nghe quân kháng thể đồng lòng hét thật to: - Bọn gai đây rồi! Chiến đấu thôi! Vậy là virus covid-19 thứ thiệt sẽ bị tiêu diệt chết như rạ thôi.
Tóm lại, chích thuốc chủng ngừa covid -19 lần này là chích chất liệu sẽ tạo các tế bào hình gai giống cá tế bào covid-19 thật cho cơ thể của mình. Hiện nay, chúng ta nói công nghệ bào chế Vaccine MRNA này là mới, nhưng thật ra Mỹ đã tìm ra cách đây 15 năm trước nhưng bây giờ mới mang ra sữ dụng. Sau đây là những câu thắc mắc xoay quanh đề tài này và các giải đáp từ phía dược sĩ Bill.
2) Câu hỏi: - Người đã bị covid-19 rồi và đã khỏi bệnh có nên chích vaccine ngừa covid nữa không?
- Đáp: - Chúng ta đã bị covid-19 và đã khỏi, nhưng không có gì bảo đảm là chúng ta không dính lại và nặng hơn. Do đó khi được chích vẫn nên chích ngừa.
3) Câu hỏi: - Nhiều người nghe nói hiện nay virus covid-19 đã biến thể sang loại virus mới, vậy có nên ngồi chờ khi nào có vaccine ngừa virus biến thể mới rồi hãy chích không?
- Đáp:- Đó là kiểu ngồi chờ chết. Chúng ta vẫn phải chủng ngừa vaccine covid-19, còn biến thể của chúng khi nào có thuốc sẽ tính sau.
4) Câu hỏi: Đã chích ngừa đủ 2 mũi vaccine rồi, có còn phải tối ngày đi ra đường cứ phải bịt cái mặt nạ quái quỷ nhột nhạt này và lo giữ khoảng cách nữa không?
- Đáp: - Vaccine của Mỹ tuy đạt được độ bảo vệ đến 95%, nhưng ai dám nói 5% còn lại không bị nhiễm và không gây tử vong? Hơn nữa nhờ mình đã chích ngừa đủ 2 mũi rồi nên khi dinh covid-19 lần nữa, mình sẽ không hề thấy rõ triệu chứng như ho sốt, mất vị giác… và khi đó chính mình sẽ ỷ y mình không hề bệnh, và sẽ đi lây lan cho bao nhiêu người khác mà mình không hề biết.
5) Câu hỏi: - Vấn đề dị ứng thuốc sau khi chích ra sao?
- Đáp: - Có người không hề bị dị ứng gì cả, hôm sau ngày chích chỉ có cảm giác chỗ chích hơi nhức chút thôi. Cũng có người sau khi về nhà bị sốt, nhức minh mẩy… Sau khi được chích mũi thứ nhứt, nên ngồi lại đó khoảng 15 phút để nhân viên theo dõi xem mình có bị phản ứng gì nặng không. Với mũi chích thứ hai, bạn nên ngồi lại đó 30 phút. Trường hợp nếu bị khó thở, y tá có thể giúp chích thuốc để mở khí quản của bạn ra cho bạn dễ thở hơn. Nặng hơn nữa, họ sẽ gọi ambulance chở bạn đi cấp cứu.
6) Câu hỏi: - Có nên uống thuốc Tylenol hay các loại thuốc chữa đau nhức trước ở nhà trước khi đi chích vaccine không?
-- Đáp: Hoàn tòan không nên uống Tylenol hay thuốc đau nhức ở nhà trước khi đi tiêm vaccine cả 2 mũi. Lý do: Tylenol hoặc thuốc chống đau nhức uống giữa lúc cơ thể đang bình thường, nó sẽ cho cái lệnh lên não là cơ thể sẽ dịu lại trong khi ta chưa hề chích thuốc. Lát sau khi ta đi chích thì tác dụng của các thuốc đó chẳng giúp ích được gì. Bạn chỉ nên uống 2 viên Tylenol hay thuốc đau nhức sau khi chích vaccine, trở về nhà và thấy bị vật như hành sốt, đau nhức mình mẩy…Còn nếu cơ thể chỉ bị hơi đau chỗ chích thì khỏi uống Tylenol, 24 tiếng sau cảm giác đau đó sẽ tự hết.
7) Câu hỏi: - Thời gian để chích mũi thứ hai?
- Đáp: Thông thường, ai chích mũi thứ nhứt của hảng Pfizer thì sau 3 tuần sẽ được chích mũi thứ hai. Ai chích mũi thứ nhứt của hảng Moderna thì sau 4 tuần mới chích mũi thứ hai. Thời hạn sớm nhất từ lần chích thứ nhứt đến thứ hai cở 18 hoặc 19 ngày là chấp nhận được. Thời hạn trễ nhất của mũi thuốc thứ hai cách mũi thứ nhứt là trong vòng 6 tuần mà thôi, nhưng người Mỹ vẫn có câu:
- -“ Better late than never “, do vậy chích mũi thứ hai trong vòng 6 tuần dễ được chấp nhận hơn chích sớm hơn quy định.
Câu hỏi: - Một người mới tiếp xúc với người bị bệnh covid-19 có đi chích ngừa covid được không?
- Đáp: đó virus covid-19 có thể đã có trong cơ thể mình rồi, do đó bạn phải về nhà cách ly 14 ngày xong mới đi chích ngừa. Nên nhớ: Vaccine là thuốc ngừa bệnh chứ không phải là thuốc trị bệnh covid-19.
9) Câu hỏi: Có người cho rằng sau khi đã dính bệnh covid-19 và đã khỏi rồi, như vậy là họ đã kháng được bệnh, vậy họ đâu cần đi chích ngừa. Đúng hay sai?
- Đáp: Sai. Vì kháng thể trong chính con người của bạn từng giúp bạn chống bệnh covid-19 nó chỉ tồn tại trong cơ thể của bạn có 90 ngày, tức 3 tháng mà thôi. Do đó bạn vẫn cần chích vaccine để tiếp tục cung cấp kháng thể cho cơ thể của bạn.
10) Câu hỏi: - Thuốc chủng ngừa covid-19 này tương lai sẽ ra sao?
- Đáp: Tuy hiện nay mọi việc đang còn quá mới, nhưng dược sĩ Bill tin rằng rồi đây chúng ta cũng sẽ được chủng ngừa covid-19 hàng năm, như chúng ta vẫn chích ngừa cúm mùa hàng năm vậy.
11) Câu hỏi:- Mũi thuốc thứ 2 ra sao?
- Đáp: - Nếu ở mũi thứ nhứt ai bị dị ứng nhẹ thì mũi thứ hai này dị ứng có thể nặng hơn một chút.
12) Câu hỏi: - Dược sĩ nói không uống thuốc Tylenol hay thuốc đau nhức khác trước khi đi chích vaccine. Xin hỏi còn các thuốc trị bệnh hàng ngày như: huyết áp, tiểu đường, bao tử…có phải ngưng không?
- Đáp: - Các thuốc trị bệnh khác vẫn uống bình thường.
13) Câu hỏi: Trước khi chích vaccine có cần test covid-19 không?
- Đáp: - Trước khi đi chích vaccine nếu không tiếp xúc với ai bị bệnh covid-19 , và trong người mình không có triệu chứng của bệnh covid-19 thì không cần test, cứ đi chích vaccine. Hơn nữa, ở nơi chích thuốc y tá sẽ đo nhiệt độ cho từng người trước khi chích, nếu họ thấy ai trên 100 độ F họ sẽ mời về nhà cách ly và sẽ chích sau.
Tin bên lề:
- Có nghiên cứu cho thấy những người thường xuyên mang kính, như kính cận, kính lão… nguy cơ mắc covid-19 giảm đi 30% do họ không đưa tay lên dụi mắt để bắt nhịp cầu cho virus vào cơ thể mình. Những người thường xuyên dùng mask (khẩu trang) cũng vậy, vì họ hạn chế bớt việc đưa tay lên gải mũi hay miệng.
Hahaha… Rõ rồi nhe! Đừng nói tôi bị virus vì có cơn gió thật vô tình ngòai phố đã gởi con covid đến thăm tôi nhe! Mà phải hiểu do chính bạn dùng tay của mình, thật thân ái cầm tay kẻ thù ân cần mời dắt nó vào nhà mình cho nó đốt nhà mình nhe.
Oh No! Always Wash Your Hands Please.
Xin phổ biến tài liệu này rộng rãi để giúp mọi người.
loại thảo mộc và chất bổ túc chống lại bệnh trầm cảm
.
Trầm cảm là một chứng rối loạn tâm trạng ảnh hưởng đến hơn 17 triệu người trưởng thành chỉ riêng ở Mỹ.Tuy nhiên, con số thực tế được cho là cao hơn nhiều, do nhiều người bị trầm cảm không tìm cách điều trị vì nhiều lý do khác nhau. Rối loạn trầm cảm được điều trị bằng thuốc, liệu pháp tâm lý, thay đổi lối sống, bao gồm cả việc ăn uống.
Các nghiên cứu cho thấy rằng vitamin, khoáng chất, thảo mộc và một số hợp chất đặc biệt hiệu quả trong việc cải thiện triệu chứng trầm
cảm, theo trang mạng Healthline.
1. Acid béo Omega-3.
Một số nghiên cứu cho thấy bổ túc omega-3 có thể giúp điều trị chứng trầm cảm. Trong một bảng phân tích năm 2020 về các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên của 638 phụ nữ cho thấy rằng các chất bổ túc acid béo omega-3 cải thiện đáng kể các triệu chứng trầm cảm ở phụ nữ mang thai và sau khi sinh.
2. NAC (N-acetylcysteine)
NAC là tiền thân của các acid amin L-cysteine và glutathione, được coi là một trong những chất chống oxy hóa quan trọng nhất trong cơ thể. Bên cạnh đó, L-cysteine và glutathione còn điều chỉnh tình trạng viêm và bảo vệ tế bào chống lại tác hại của quá trình oxy hóa.Uống NAC đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích cho sức khỏe, bao gồm tăng mức độ glutathione trong cơ thể. Hơn nữa, NAC cải thiện chứng rối loạn điều hòa dẫn truyền thần kinh ở những người bị rối loạn tâm thần.
3. Vitamin D
Vitamin D là một chất dinh dưỡng quan trọng đóng nhiều vai trò thiết yếu trong cơ thể. Thật không may, nhiều người không có đủ lượng vitamin D, bao gồm cả những người bị trầm cảm.
Nghiên cứu cho thấy rằng những người bị trầm cảm có nhiều khả năng bị thấp hoặc thiếu vitamin D. Vitamin D có thể chống lại chứng trầm cảm thông qua một số cơ chế, bao gồm giảm viêm, điều chỉnh tâm trạng và bảo vệ chống lại rối loạn chức năng nhận thức thần kinh.
Một đánh giá năm 2019 về bốn thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy bổ túc vitamin D dẫn đến lợi ích lâm sàng ở những người bị trầm cảm nặng.
4. Saffron
Nghệ tây là một loại gia vị chứa các hợp chất chống oxy hóa, bao gồm cả carotenoid crocin và crocetin.
Các nhà khoa học từng làm năm thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy rằng việc bổ túc nghệ tây làm giảm đáng kể các triệu chứng trầm cảm ở người lớn mắc chứng MDD so với phương pháp điều trị khác.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng cần phải có những thí nghiệm sâu hơn với thời gian theo dõi dài hơn để đánh giá tốt hơn khả năng của nghệ tây trong việc giúp điều trị chứng trầm cảm.
5. Rhodiola (Rhodiola rosea)
Rhodiola là một loại thảo mộc có liên quan đến nhiều lợi ích sức khỏe tiềm năng khi được dùng ở dạng bổ túc. Chúng bao gồm giảm các triệu chứng trầm cảm và cải thiện phản ứng với căng thẳng, giúp cơ thể bạn thích nghi với các tình huống căng thẳng.
Loại thảo mộc này phát huy tác dụng chống trầm cảm thông qua khả năng tăng cường giao tiếp tế bào thần kinh và giảm hoạt động quá mức của trục dưới tuyến yên-vỏ thượng thận (HPA). Trục HPA là một hệ thống phức tạp điều chỉnh phản ứng căng thẳng của cơ thể con người. Khi trục HPA hoạt động quá mức, nó sẽ dẫn đến bệnh trầm cảm.
Khi cơ thể nạp chất bổ túc bao gồm rhodiola và nghệ tây có thể làm giảm đáng kể các triệu chứng trầm cảm và lo lắng ở người lớn bị trầm cảm nhẹ đến trung bình sau sáu tuần.
6. Vitamin nhóm B
Vitamin B đóng vai trò quan trọng trong chức năng thần kinh và điều hòa cảm xúc. Các vitamin B, bao gồm folate, B12 và B6, cần thiết cho việc sản xuất và điều chỉnh chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, acid gamma-aminobutyric (GABA) và dopamine.
Khi thiếu hụt vitamin B12 và folate có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm, và việc bổ túc những chất dinh dưỡng này có thể giúp giảm các triệu chứng trầm cảm ở một số nhóm dân số nhất định.
Ví dụ, bổ túc folate có thể làm giảm các triệu chứng của bệnh trầm cảm kháng điều trị ở trẻ em và người lớn bị đột biến gene ảnh hưởng đến chuyển hóa folate.
Vitamin B6 cũng được tìm thấy cải thiện các triệu chứng trầm cảm khi được sử dụng kết hợp với các chất dinh dưỡng khác, bao gồm tryptophan và một dạng vitamin B3 được gọi là nicotinamide.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.