Làn sóng kỳ thị chưa từng dữ dội như hôm nay
Chưa bao giờ câu chuyện “bên kia vĩ tuyến” lại bị khoét sâu như lúc này. Từ sau 1975 đến nay, người miền Nam đã nếm đủ mọi vị đắng: những đợt đánh tư sản, đổi đời, cải tạo, những lời hứa hẹn rồi tráo trở, những lần bị dạy phải quên đi ký ức của chính mình. Họ ấm ức, họ chán ngán, họ mệt mỏi vì đã nhịn quá lâu. Mỗi khi người miền Nam lên tiếng, lập tức bị chụp mũ là “kỳ thị”. Một người Bắc 54 dám nói thật thì bị bảo là “mất gốc”. Người Bắc 75 mở miệng thì bị kết tội “vào hùa với dân Nam”. Còn tôi – một đứa Bắc kỳ sinh năm 1985 – hễ nói tới chuyện hai miền là bị quy chụp là cố xóa vết tích Bắc kỳ, muốn chứng minh mình “thượng đẳng”, “khác biệt”. Đến cả bác sĩ Nhàn Lê, một “Bắc kỳ 2000” lên tiếng cũng bị mỉa mai là nói cho vừa lòng dân miền Nam. Vậy thì đến bao giờ, người miền Bắc – những người cùng quê với tôi – mới dám ngồi lại, nhìn thẳng vào gương và hỏi: “Mình đã góp phần vào vết rạn Bắc – Nam này như thế nào?”
Khi người Bắc nói về chính người Bắc
Trên Facebook, tôi và bác sĩ Nhàn Lê là hai cái tên bị réo nhiều nhất mỗi lần đụng tới chuyện “thói xấu miền Bắc”. Không phải vì chúng tôi thích gây hấn, mà vì cả hai đã sống đủ lâu ở cả hai miền để cảm nhận sự đối lập trong cách người ta cư xử. Chúng tôi đã nếm trải những kiểu ứng xử chụp giật, lươn lẹo, bon chen của môi trường mình sinh ra; rồi lại được ôm ấp bởi sự tử tế, hào sảng rất đời thường của miền Nam. Chính trải nghiệm ấy khiến chúng tôi thấy mình có trách nhiệm phải lên tiếng – nói về cái xấu của chính cộng đồng mình, để những người cùng gốc có cơ hội soi lại mà thay đổi. Mồ mả cha ông tôi còn ngoài Bắc, họ hàng nội ngoại vẫn ở Nam Định; gia đình bác sĩ Nhàn còn xúm xít đâu đó ở một tỉnh miền núi phía Bắc. Không ai đủ điên để đứng lên “bôi nhọ quê hương” nếu trong lòng không thực sự day dứt và tha thiết với sự thay đổi. Nhưng cứ hễ bài viết vừa đăng, lập tức là sóng. Người đồng tình nhiều nhất là dân Nam – những người đã chứng kiến, đã trải qua. Kế đó là Bắc 54, Bắc 75, rồi những người mới vào Nam vài năm nhưng đủ tỉnh để nhận ra sự khác biệt. Phản ứng dữ dội nhất lại đến từ những người chỉ ghé Sài Gòn vài ba hôm rồi về, hoặc chưa từng đặt chân qua vĩ tuyến 17 lần nào.
Miền Nam trong những lát cắt rất đời
Những người phản đối chúng tôi, đa phần chưa từng nhìn thấy cảnh một đoàn từ thiện ở miền Nam cúi người cảm ơn chính những người đang nhận quà. Họ chưa từng chứng kiến một gã xăm trổ chặn đứa bé bán vé số, chửi thề vài câu vì thương nó lang thang ngoài đường, rồi móc tiền mua cho nó tô mì nóng, sau đó mua hết xấp vé số để nó được về sớm. Họ chưa từng gặp một thằng nhóc phì phèo điếu thuốc, môi thâm sì, nhưng sẵn sàng dẹp cái vẻ “giang hồ” sang một bên để hét với bà cô tỉnh lẻ đang loay hoay hỏi đường: “Thôi, nói hoài bà cũng không nhớ, chạy theo con, con dẫn tới tận chỗ luôn cho.” Những mảnh ghép nhỏ nhặt ấy, với người miền Nam, chỉ là chuyện thường ngày. Nhưng với một đứa Bắc kỳ như tôi, nó là cú va chạm mạnh, đủ để thấy rằng lòng tử tế ở đây không ồn ào khẩu hiệu, mà hiện lên trong những hành vi rất tự nhiên, không cần ai dạy.
Tâm thế kẻ thắng cuộc và những cái đầu bị nhồi nhét
Trong đầu không ít người lớn lên ở miền Bắc, cả một tuổi thơ được bọc trong những ca khúc: “Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng…”, “Đảng là kim chỉ nam cho mọi hành động…”. Sách vở, loa đài, lớp học… đều vẽ ra một bức tranh: miền Nam trước 1975 chỉ là vùng đất “ăn bơ thừa sữa cặn”, “bọn Công giáo theo ông Diệm chạy vào Nam”, “ba sọc đu càng”, “không có miền Bắc thì miền Nam giờ vẫn còn dưới ách Mỹ – Ngụy”… Khi lớn lên trong môi trường ấy, nhiều người mặc nhiên mang tâm thế của “kẻ giải phóng”, của bên “thắng cuộc”, bước vào miền Nam với một sự trịch thượng vô hình trong đầu. Không lạ gì khi có cô sinh viên chưa tròn hai mươi, phơi phới trên mạng xã hội, hô hào “giải phóng miền Nam lần nữa” mà vẫn tưởng mình đang nói câu rất đúng – rất “chính trị”. Khi nền giáo dục bị bóp méo, lịch sử bị kể một chiều, người ta rất khó phân biệt phải trái. Đọc vào các comment phản biện trên mạng, cảm giác chung là một chuỗi ngụy biện, lấp liếm, đổ lỗi, giận hờn, trách móc – tất cả trên nền tâm thế ban ơn: “nhờ tao mà mày mới có ngày hôm nay”.
Những người hiểu thời cuộc nhưng chọn bẻ lái
Đáng buồn hơn cả không phải những bạn trẻ còn ngây thơ, mà là những người đã đọc nhiều, biết nhiều, hiểu lịch sử và thời cuộc nhưng vẫn cố tình đánh tráo vấn đề. Họ có thể là những người làm truyền thông, những gương mặt có ảnh hưởng, những dư luận viên chuyên nghiệp. Họ thừa biết sự thật không đơn giản như sách giáo khoa, nhưng vì tự ái, vì cố chấp, vì nồi cơm hay vì thói quen đứng về phía “bên thắng” mà cố lái mọi cuộc tranh luận sang hướng khác. Thay vì đối diện với lời chỉ trích, học cách cúi đầu nhận lỗi, họ chọn cách xù lông, lớn tiếng, bảo vệ cái sai của mình. Và khi bí đường, họ quay sang đổ lỗi cho nạn nhân. Tôi từng đọc status của hai phụ nữ miền Bắc chửi dân miền Nam “ngu mới để mất VNCH vào tay cộng sản”. Đọc xong không giận nổi, chỉ thấy thương. Thương cho những người chưa bao giờ thật sự được dạy thế nào là khiêm nhường, là tôn trọng nỗi đau của người khác.
Hàn Quốc: một bài học về lòng tự trọng và giáo dục
Khi giành lại độc lập, Hàn Quốc cũng tan hoang, nghèo đói, thậm chí lạc hậu và tổn thương không kém ai. Nhưng thay vì tự ái, họ sẵn sàng nhập nguyên bộ sách giáo khoa của Nhật – kẻ thù vừa xâm lược mình – về dịch ra để học. Từ đó mới có một Hàn Quốc với Samsung, Hyundai, Daewoo như cả thế giới biết tới hôm nay. Người Hàn không sinh ra đã “tự tôn dân tộc”, họ được dạy điều đó qua giáo dục và qua những tấm gương rất đời. Câu chuyện cô nhân viên bán hàng cố gắng nói bằng mọi cách với du khách phương Tây, gần như van lạy để ông ta mua cho được món đồ lưu niệm handmade thô kệch – không phải vì lợi nhuận, mà vì muốn người khách kia mang theo một hình ảnh nào đó về đất nước mình – chính là thứ tinh thần đã nuôi lớn Hàn Quốc. Du khách có thể không thích món đồ, nhưng sẽ khó quên được sự tận tụy và lòng tự trọng của người bán hàng. Tinh thần ấy không thể hình thành nếu cả một dân tộc chỉ được dạy cách căm thù “bên kia chiến tuyến”, tự ru mình trong những chiến thắng cũ và coi thường nỗi đau của đồng bào khác vùng miền.
Tự giáo dục – điều người trẻ nào cũng cần, không riêng miền Bắc
Giáo dục không chỉ đến từ nhà trường và gia đình, mà còn từ xã hội và từ chính mỗi người. Trên 18 tuổi, phần lớn chúng ta chỉ còn trông vào “tự giáo dục”: biết quan sát, đọc sách, học từ cách ứng xử của những người xung quanh, biết đặt câu hỏi trước mọi điều được nhồi vào đầu. Thế nhưng không ít bạn trẻ – đặc biệt là những người lớn lên trong vùng an toàn tư tưởng – lại dùng internet chủ yếu để giải trí, Facebook chủ yếu để khoe của, mua hàng online và chat chít. Họ đi du lịch chỉ để check-in, chụp hình, mà hiếm khi chịu ngồi lại với người bản địa, nghe vài câu chuyện, tìm hiểu một chút về đời sống, văn hóa của vùng đất mình ghé qua. Nếu chịu khó quan sát và lắng nghe, chắc hẳn họ đã không thể buông nhẹ những câu như “muốn giải phóng miền Nam thêm lần nữa” một cách hớn hở và vô tư đến thế.
Muốn khép lại vết rạn Bắc – Nam, phải biết cúi đầu
Làm thế nào để dư luận thôi đào xới chuyện Bắc – Nam theo kiểu chửi bới nhau không hồi kết? Thật ra, câu trả lời rất đơn giản: những người cầm bút, những người có tiếng nói từ miền Bắc – vốn văn hay chữ tốt – hoàn toàn có thể viết khác đi. Không phải viết để “chữa cháy bằng xăng”, đổ thêm dầu vào ngọn lửa tự ái, mà viết để nhận phần trách nhiệm của mình, để nói lời xin lỗi khi cần, để thừa nhận rằng mình đã tin và nói sai về đồng bào “bên kia vĩ tuyến”. Chỉ có điều, điều khó nhất với chúng ta lâu nay vẫn là… cúi đầu. “Bắc kỳ 1985” như tôi không thiếu chữ, nhưng tôi không đòi “giải phóng miền Nam” và cũng không có nhu cầu chứng minh mình cao hơn ai. Tôi chỉ muốn kể lại những gì đã thấy, đã trải nghiệm, để nhắc rằng nếu không dám nhìn thẳng vào cái xấu của chính mình, chúng ta sẽ mãi sống trong một đất nước hình chữ S nhưng lòng người chia hai nửa. Và đến lúc ấy, nói kỳ thị “bên kia vĩ tuyến” cũng chỉ là cách chúng ta trốn tránh sự thật: vĩ tuyến sâu nhất, đau nhất, nằm ngay trong đầu và trong tim mỗi người Việt.
Tác giả: Mai Thị Mùi (chỉnh sửa bởi Gibbs VIETBF)