Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Bí Quyết Giữ Gìn Hạnh Phúc Gia Đình Của Mẹ: Hôn Nhân Không Phải 1+1=2
Bằng những trải nghiệm của bản thân, người mẹ đã dặn dò con gái cách để giữ gìn ngọn lửa hạnh phúc của một gia đình. Những lời lẽ giản dị mà sâu sắc, khiến quan khách ai ai cũng lặng người vì xúc động.
Giống như bất kỳ bậc cha mẹ nào, bà mong con gái yêu của mình sẽ bước vào lễ đường thành hôn với một người chồng xứng đáng. Đó cũng là giây phút hạnh phúc và cảm động nhất đối với người mẹ, người cha. Tại một lễ cưới, mẹ cô dâu đã có một bài phát biểu ngắn gọn, giản dị mà vô cùng sâu sắc, khiến rất nhiều người tham dự xúc động.
“Xin chào quan khách hai họ và bạn bè, anh chị em! Xin cám ơn quý vị đã tới dự lễ thành hôn của hai con chúng tôi ngày hôm nay. Tôi rất hạnh phúc và tự hào khi thấy con gái mình bước vào cuộc sống mới. Từ nay con đã thực sự trưởng thành và độc lập hơn, điều đó rất có ý nghĩa đối với mẹ.
Nhân ngày hạnh phúc của các con, mẹ muốn chia sẻ một vài bí quyết nho nhỏ để các con gìn giữ hạnh phúc gia đình.
Điều đầu tiên mẹ muốn nhắn nhủ là hôn nhân không phải phép tính 1+1=2. Để hôn nhân bền vững, đó phải là phép toán của hai nửa cộng lại thành một.
Hai con cần biết cách cân bằng giữa cuộc sống gia đình và công việc. Những người trẻ tuổi ban đầu thường bị cuốn hút bởi cái đẹp bề ngoài, nhưng nếu chỉ có vậy hôn nhân sẽ không thể bền vững. Mẹ từng trải qua thời kỳ ấy, như các con bây giờ. Hãy tin mẹ, qua những gì mẹ trải nghiệm, khi các con biết thu nhỏ cái tôi mà nghĩ tới bạn đời của mình, tình yêu mới bền bỉ và trường tồn.
Điều thứ hai mẹ muốn nói, đó là – hôn nhân không phải cái túi ôm chặt lấy tình yêu, hôn nhân thực chất chỉ là một sợi chỉ lỏng lẻo. Các con vẫn cần duy trì các mối quan hệ bạn bè và xã hội như trước khi lập gia đình. Hãy cho bạn đời của con những khoảng trống tự do của riêng họ. Con hãy ghi nhớ rằng hôn nhân không phải để chiếm hữu, mà là sự cam kết. Đó là một liên minh rất cần sự tôn trọng. Chỉ như vậy, sợi chỉ mới không bị đứt đoạn giữa chừng.
Cuối cùng, bước vào hôn nhân, các con sẽ bắt đầu xây dựng mái ấm của riêng mình. Ngôi nhà nơi các con ở chỉ trở thành mái ấm nếu tràn ngập tình thương yêu thay vì là nơi để lý sự và căn vặn lẫn nhau. Khi bước vào hôn nhân, các con sẽ chung sống dưới một mái nhà. Nếu cả hai chỉ chăm chăm phân định đúng sai, nên hay không nên thì cuộc hôn nhân ấy sẽ bị bóp nghẹt và sớm lụi tàn.
Các con hãy dùng tình yêu thương để che phủ mái ấm của mình, khi ấy hôn nhân sẽ luôn bền vững và mang lại hạnh phúc.
Đó là tất cả những gì mẹ muốn nhắn nhủ tới các con. Cho mẹ chúc phúc cho các con, chúc các con những điều ngọt ngào và hạnh phúc nhất trong ngày tuyệt vời này!”.
7 việc nhất định không nên làm để tránh nhân quả báo ứng trong cuộc đời mỗi con người.
“Nhân quả báo ứng” chính là làm thiện được quả báo thiện, còn làm các điều ác bị quả báo ác. “Luật nhân quả” chính là phương thức, qui tắc cùng định luật cố định của nhân quả báo ứng.
Mỗi hành vi xấu ác, đều phải chịu ác báo tương xứng với hành vi đó. Và cũng căn cứ vào những hành vi xấu ác nặng hay nhẹ mà có quả báo khác nhau.
Nếu như một người có thể bình an, vui vẻ và khoan khoái mà vượt qua cuộc đời này, thì người đó quả thực vô cùng may mắn. Nhưng nếu muốn tận lực để nghĩ cách thoát khỏi những thống khổ và phiền não này, để chúng ta mỗi ngày đều được sống một cách vui vẻ tự tại, không nuối tiếc, thì cũng không phải là điều quá khó – chỉ cần bạn tin tưởng vào “nhân quả”, nhớ kỹ câu “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, đồng thời ghi nhớ một số việc nhất định không được làm sau đây, vì những việc này ảnh hưởng cực kỳ lớn tới cả cuộc đời của bạn.
1. Bất hiếu với cha mẹ
Cha mẹ sinh ra ta và nuôi dưỡng ta, ân đức sâu đậm, trong kinh Phật có nói rằng, con người báo đáp vài tỷ kiếp cũng chưa hết được ân đức của cha mẹ. Người bất hiếu với cha mẹ, trời đất đều khó tha thứ. Hơn nữa, ngay cả cha mẹ mình còn không hiếu lễ kính trọng, làm sao có thể lãnh đạo người khác? Làm sao có thể thuyết phục công chúng?
2. Tham dâm háo sắc
Người tham dâm háo sắc, trong tâm có tà, thiếu ngay thẳng chính khí, sự nghiệp sẽ rất không thuận lợi, là việc làm vi phạm đạo đức, không thể viên mãn. Hơn nữa, người tham dâm háo sắc, sức khỏe khẳng định là bị hao tổn, làm sao có thể không mắc bệnh?
3. Yêu chuộng tiện nghi, cực kỳ keo kiệt, rất ít khi làm việc thiện
Người trong tâm tham lam và keo kiệt, nghèo khó thường sẽ không rời xa, không làm việc thiện, không có phúc đức, miệng ăn núi lở. Kiểu người này không có lòng thương người, không có nhân duyên, cũng nhất định khuyết thiếu tâm giúp đỡ người khác, vậy có thể nào thành công trong sự nghiệp được? Mặc dù có thể nhất thời vui vẻ, sung sướng, nhưng cuối cùng thi tiền tài cũng ra đi.
4. Thường xuyên sát sinh
Mỗi một sinh mệnh tồn tại, đều có nhân duyên đặc biệt của nó; các sinh mệnh được sinh ra không phải là để tạo điều kiện cho con người sát sinh. Người thường xuyên sát sinh, trong tâm khuyết thiếu thiện niệm, làm sao có thể đạt được thành công trong sự nghiệp và gặp hoàn cảnh tốt trong cuộc đời?
5. Không tôn kính bậc thầy, kiêu căng ngạo mạn
Đã là thầy giáo của mình, dẫn dắt mình, khẳng định là có chỗ ưu tú hơn mình. Nếu như mình không có chút khiêm tốn nhã nhặn nào, luôn cho rằng họ giảng chỗ này không tốt, làm không tốt hay là dẫn dắt không đúng, vậy thì làm sao có thành tựu gì đây? Bởi vì trong tâm lúc nào cũng phập phồng không yên, không có “vương giả phong phạm”.
Khổng Tử viết: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư" (mấy người đồng hành, trong đó nhất định có thể lấy một người làm thầy của mình), người không khiêm tốn, lẽ nào có thể là người rộng lượng?
6. Trộm cắp
Khái niệm trộm cắp vô cùng rộng, chỉ cần đó không phải là đồ của mình mà chiếm dụng nó thành của mình, cho dù là cầm một tờ giấy
hay một cây bút của công ty thì đều được coi là trộm cắp. Mặc dù
chúng ta có lúc làm như thế mà trong tâm thấy rất quang minh chính đại, cũng rất thản nhiên, nhưng đó vẫn là một hành vi loại này. Nó làm tiêu hao rất nhiều phúc đức của bản thân mình, hơn nữa, bạn sẽ một lúc nào đó phát hiện ra mình cũng sẽ bị tổn thất một cái gì đó tương đương. Còn có một nhóm những người chuyên môn đi trộm cắp, nhưng cho dù “trở lên giàu có” rồi, thì cuối cùng vẫn rơi vào kết cục nghèo khổ bi thảm.
7. Thường hay nói láo
Sự hòa thuận giữa người với người, ăn ở phải đạo, coi trọng sự chân thành lẫn nhau, kiêng kỵ “hư tình giả ý” (đạo đức giả). Bất luận là người nhà ruột thịt thân thích hay mối quan hệ bạn bè với cấp trên, chỉ cần bạn thường ngày dùng ngôn ngữ chân thật, thành tâm đối xử tử tế, nhất định sẽ đạt được tín nhiệm của người khác. Ngược lại, thường xuyên bịa đặt những chuyện giả tạo dù chỉ một chút, hoặc là đã dưỡng thành “thuyết hoang tâm bất hoảng” (nói dối mà trong tâm không chút sợ hãi), dần dần thành “phản xạ có điều kiện” mà thuận miệng nói láo với bất kỳ ai, có khi chỉ vì một câu nói dối tùy tiện mà phải trả giá vô cùng thê thảm.
Nếu như bạn không dính dáng gì đến bảy điều kể trên, thành thật chúc mừng bạn! Bạn hẳn là một người tôn quý có phúc. Dù cho hiện tại bạn có gặp khó khăn gì, cũng nhất định sẽ “liễu ám hoa minh” (trong hoàn cảnh khó khăn mà tìm được lối thoát), xua tan màn đêm và nhìn thấy ánh sáng.
Người Mỹ dùng danh từ “FAMILY” trong khi người Việt gọi là “GIA ĐÌNH”. Mời đọc mẫu chuyện dưới đây để tìm hiểu giá trị của “Family” như thế nào.
Tôi va phải một người lạ trên đường phố khi người này đi qua. Tôi nói: “Ồ xin lỗi”.
Người kia trả lời: “Cũng xin thứ lỗi cho tôi, tôi đã không nhìn thấy cô”. Chúng tôi rất lịch sự với nhau.
Nhưng ở nhà thì mọi chuyện lại khác. Tối nọ, lúc tôi đang nấu bếp, cậu con trai đến đứng sau lưng. Tôi quay người và đụng vào thằng bé làm nó ngã chúi xuống sàn nhà. Tôi cau mày nói: “Tránh ra chỗ khác”. Con trai tôi bước đi, trái tim bé nhỏ của nó vỡ tan. Tôi đã không nhận ra là mình đã quá nóng nảy!
Khi đã lên giường, tôi nghe một giọng nói thì thầm: “Khi đối xử với người lạ con rất lịch sự, nhưng với con mình, con đã không làm như vậy. Hãy đến tìm trên sàn nhà bếp, có những bông hoa đang nằm ở cửa. Đó là những bông hoa mà con trai con đã mang đến cho con. Tự nó hái lấy những bông hoa này: nào hoa hồng, màu vàng và cả màu xanh. Nó đã yên lặng đứng đó để mang lại cho con điều ngạc nhiên, còn con thì không bao giờ thấy những giọt nước mắt đã chảy đẫm lên trái tim bé nhỏ của nó”.
Lúc này thì tôi bật khóc. Tôi lặng lẽ đến bên giường con trai và quì xuống: “Dậy đi, con trai bé nhỏ, dậy đi. Có phải những bông hoa này con hái cho mẹ không?”
Thằng bé mỉm cười: “Con tìm thấy chúng ở trên cây kia. Con hái cho mẹ vì chúng đẹp như mẹ. Con biết là mẹ thích lắm, đặc biệt là bông hoa màu xanh”.
Thế danh từ “family” có nghĩa gì?
FAMILY = Father And Mother, I Love You.
(GIA ĐÌNH = Ba và Mẹ ơi, con yêu Ba Mẹ.)
Bạn cảm động khi đọc mẫu chuyện nói trên, chắc hẵn rồi!
Mời bạn đọc thêm một câu chuyện có thật khá cảm động khác dưới đây:
Một người đàn ông, trong lúc đang chùi cho láng chiếc xe hơi của anh ta, đứa con trai 4 tuổi của anh ta nhặt một hòn đá và rạch vào bên hông xe. Trong cơn tức giận, anh ta chụp lấy tay đứa con trai và đánh vào tay nó nhiều lần mà không nhận ra rằng anh ta đang đánh bằng cái mỏ lết.
Tại bệnh viện, đứa bé mất hết các ngón tay vì xương thịt dập nát. Khi đứa trẻ thấy bố nó… Với đôi mắt đau buồn, nó hỏi: “Bố ơi các ngón tay con đâu rồi?”
Anh ta rất đau lòng, không nói nên lời và trở lại bên xe, đá vào chiếc xe nhiều lần.
Suy sụp bởi hành động vô ý thức của mình…., ngồi trước chiếc xe hơi, anh ta nhìn vào vết xước trên hông xe….. thằng bé đã viết: “Con Yêu Bố, Bố ơi!” Ngày hôm sau, người đàn ông tự tử…
Giận dữ và yêu thương không có giới hạn, hãy chọn YÊU THƯƠNG để có một cuộc sống xinh tươi và đẹp đẽ.
Đồ vật được sản xuất để SỬ DỤNG và con người được thọ tạo để YÊU THƯƠNG….Vấn nạn của một phần thế giới hôm nay lại là…. Con người bị SỬ DỤNG còn đồ vật thì được YÊU THƯƠNG !!!
Thêm Hai câu chuyện xúc động về gia đình:
Câu chuyện thứ nhất: Hãy Làm Điều Gì Đó Trước Khi Quá Muộn Màng
Một người đàn ông dừng lại ở cửa tiệm bán hoa để đặt hoa tặng mẹ của mình. Mẹ của ông ở xa cách đây hơn 200 dặm và ông sẽ nhờ cửa tiệm giao hoa đến tận tay cho bà.
Khi ông bước ra khỏi xe, ông đột nhiên chú ý đến một cô gái trẻ đang khóc thút thít bên lề đường. Ông hỏi cô gái có sao không, cô trả lời: “Cháu muốn mua hoa hồng tặng mẹ. Nhưng cháu chỉ có 75 cents nhưng hoa hồng thì đến 2 dollars.”
Người đàn ông mỉm cười và nói: “Đi với chú. Chú sẽ mua cho cháu một bông hồng.”
Ông mua cho cô bé hoa hồng như đã hứa và đặt hoa giao đến tận nhà mẹ mình. Khi họ rời khỏi, ông ngỏ ý chở cô bé về nhà. Cô bé đồng ý để ông chở đến chỗ mẹ mình. Cô chỉ cho ông đến một nơi vắng vẻ, phải đến khi dừng xe lại, người đàn ông mới nhận ra đó là một nghĩa địa. Và cô gái đã đặt bông hoa ấy lên một ngôi mộ sạch sẽ.
Người đàn ông trở về cửa tiệm hoa, hủy gói hoa giao và ông ta đã mua hẳn một bó hoa to, lái xe đến thẳng nhà của mẹ mình, ngôi nhà cách nơi đấy hơn hai trăm dặm đường đi. Cuộc gặp gỡ cô gái đã cho ông hiểu rằng, nếu hôm nay ông không đến, có khi ngày mai ông sẽ chẳng còn cơ hội để đến nữa.
Cuộc đời rất ngắn ngủi bạn ạ. Hãy dành nhiều thời gian để yêu thương và quan tâm đến những người mà bạn quý mến. Hãy tận hưởng những khoảnh khắc với họ trước khi mọi chuyện đã quá muộn màng. Không có thứ gì trên đời quan trọng hơn gia đình cả, bạn nhé!
Câu chuyện thứ hai: Chỉ năm phút nữa thôi
Ở một công viên nọ, một người phụ nữ ngồi cạnh một người đàn ông trên một băng ghế gần sân chơi.
“Con trai tôi đó”, người phụ nữ chỉ vào một cậu bé đang chơi cầu trượt, vận chiếc áo len màu đỏ.
“Cậu bé nhìn mới đáng yêu làm sao”, người đàn ông nói. “Còn kia là con gái của tôi, cô bé đang chạy xe đạp. vận một cái đầm màu trắng đấy.”
Sau đó, người đàn ông nhìn vào đồng hồ và gọi cô bé. “Con chơi xong chưa, Melissa?”
Người đàn ông gật đầu và cô bé lại tiếp tục chơi đùa cùng chiếc xe như cô đã mong muốn. Thời gian trôi qua và người đàn ông lại gọi con gái của mình: “Đi được chưa con?”
“Ông quả thật là một con người kiên nhẫn”, người phụ nữ nói.
Người đàn ông mới tiếp lời, “Tommy, anh trai của con bé đã mất trong một vụ tai nạn giao thông vì một gã tài xế say xỉn khi nó đang đạp xe ở một chỗ khá gần nơi này. Tôi đã không dành nhiều thời gian cho Tommy và bây giờ tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả chỉ để có được 5 phút ở cạnh nó. Tôi đã thề sẽ không lặp lại sai lầm đó với Melissa. Con bé cứ nghĩ nó may mắn có thêm 5 phút để chơi. Nhưng sự thật đúng ra phải là tôi, mới là người may mắn khi có được thêm 5 phút để nhìn ngắm con bé hạnh phúc.”
Cuộc sống luôn cần những lần đánh đổi và sự ưu tiên lớn lao nhất luôn luôn phải là gia đình. Hãy tận dụng thời gian quý báu của mình với những người mình thương yêu nhất bạn nhé.
Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái gì.
Vừa mới đi qua cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.
Ông đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?
Khi về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. “Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái nắng cháy da!”, ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.
Tối hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.
Mẹ Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những “triệu” người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi”.
Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người đàn ông đó thì đã chết.
“Tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế”.
Người giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước cổng nhà mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quý”.
- Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.
- Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có mãi”.
Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến”, ông nói và đưa nó cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.
Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: “Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.
Người giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.
Theo Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ thì người Việt có 10 tố chất cơ bản sau:
1. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).
4. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê).
6. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.
7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).
8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn, còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.
9. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, để tiểu cục làm mất đại cục.
10. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
1. Đối với tôi, việc anh giàu hay nghèo không quan trọng, miễn là... anh có tiền.
2. Tôi rất ghét đả động đến tiền bạc, đặc biệt là những đồng bạc lẻ.
3. Có một lý thuyết màu mè cho rằng con người ta có thể hạnh phúc mà không cần tiền.
4. Nếu ai đó nói rằng tiền bạc không thành vấn đề, thì vấn đề sẽ là tiền bạc.
5. Nếu anh muốn biết giá trị đồng tiền, hãy thử hỏi mượn ai đó.
6. “Tiền bạc không mua được hạnh phúc”. Nhưng nó được dùng để trả lương cho một lượng nhân viên khổng lồ đang làm công việc nghiên cứu này.
7. Tôi chỉ cần tiền đủ để vượt qua giai đoạn khó khăn này cho đến khi tôi cần thêm cho một giai đoạn khó khăn khác.
8. Tiền không biết nói chuyện. Nó biết thề thốt.
9. Tiền không mua được hạnh phúc, nhưng nó có thể xoa dịu lúc anh khốn khổ.
10. Có kẻ có tiền và có kẻ giàu.
11. Đồng tiền không biến ai trở thành ngốc nghếch cả, nó chỉ cho ta thấy họ.
12. Tiền thì luôn bền vững, chỉ có túi tiền thì thay đổi.
13. Khi một người có tiền gặp một người có kinh nghiệm, người có kinh nghiệm sẽ tích luỹ được tiền và người có tiền sẽ tích luỹ được kinh nghiệm.
14. Trong khoảng khắc, tiền nói được nhiều điều hơn một kẻ si tình hùng biện trong nhiều năm.
15. Có nhiều tiền chưa chắc hạnh phúc. Người có mười triệu đô la không sung sướng hơn người có chín triệu đô la.
16. Tôi có đủ tiền để sống suốt quãng đời còn lại, trừ khi tôi mua một món gì đấy.
17. Phá sản là một quy trình trong đó anh cho tất cả tiền của mìnhvào túi quần và đưa quần cho người khác mặc.
18. Tiền bạc chỉ mang lại cho ta một thứ duy nhất, đó là sự thảnh thơi để ta không phải lo nghĩ đến nó.
19. Nếu phải chọn giữa tiền và sự hấp dẫn thể xác, hãy chọn tiền. Khi anh già đi, tiền sẽ biến thành sự hấp dẫn thể xác
Từ ấy nhẫn nay đã muôn chiều lá đổ, hơn hai thập niên rồi đã tàn lụn qua đi. Mười năm rồi lại mười năm, trải bao dâu biển đổi dời, chuyện tình ngày xưa ấy giờ đây chắc hẳn đã nhạt nhòa phôi pha, siêu thoát ở lòng người.
Nước mất nhà tan, đời người cũng điêu linh tan vở, trôi nổi muôn phương. Những người bạn cũ năm xưa giờ đây biệt vô âm tín. Kẻ đi người ở, kẻ mất người còn, kẻ được người thua, kẻ làm vua người làm giặc, điên đảo, đảo điên. Chỉ tội cho những ai trót đã mang nghiệp làm lính, một đời nằm gai nếm mật gian khổ xả thân, tưởng đã chiến đấu cho quê hương mình, tưởng đã đáp đền hồn thiêng sông núi. Nhưng hởi ơi! sự thật quá tức tửi phũ phàng, vỡ lẽ ra thì họ chỉ là những con cờ thí mạng, những con cờ hy sinh cho một ván cờ chính trị tàn độc vô lương của những kẻ đã mang chiêu bài danh nghĩa là đồng minh tham chiến. Chiến cuộc này đâu đã bại vong, người đang thắng thế sao bị cưởng bách quy hàng cho áo tù thay áo chiến, cho mất nước tan nhà thay cờ đổi chủ để hận thiên thu. Benhur xưa đã sa cơ ngã ngựa nên đành thúc thủ ngậm hờn, chiến bào dù chưa tơi tả nhưng mệnh người đã theo vận nước tả tơi, chốn lao tù bao năm dài khổ sai lận đận. Người đã xa lại càng thêm xa biệt nghìn trùng, cái ngày tái hợp để gọi bằng “sư mẫu” đành chờ ở kiếp lai sinh.
Giáo quyền giáo chủ giờ đây đã vong tàn, quyền cao chức trọng cũng tan tành theo mây khói. Bởi không giữ lời Chúa dạy nên Chúa đã giận dữ bỏ ra đi để những kẻ vô thần vào chiếm ngự không còn nơi cho phụng thờ. Nhà dòng thánh thất nay đã sụp đổ rả tan, các nhà truyền giáo như chim mất tổ lạc bầy, thất sở thân sơ, lưu vong đi khắp bốn phương trời tìm ăn năn sám hối.
Phần đôi uyên ương nọ, sau ngày mệnh chung của đất nước, một chiều đã lên đường vượt biển ly hương. Như Adam và Eva khi xưa đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng đã phải chống chỏi với thiên nhiên và ác thú để dành lấy sự sinh tồn, nơi đất khách, cả hai đã khởi thủy cuộc đời bằng những ngày cần lao khổ nhọc, lận đận lao đao, ít may nhiều rủi. Bởi trong chốn trần ai đầy xảo trá lọc lừa này, họ ví như một đôi cừu ngoan non nớt, một đôi nai hiền ngơ ngác dại khờ giữa bầy chồn cáo xảo quyệt gian manh cho nên họ không sao tránh khỏi những vấp ngã đau thương, những thất bại chua cay oan uổng. Vả chăng đời là bể khổ. Đố ai không khổ để thành người. Thượng Đế rất công bằng chia đều cái khổ cho tất cả nhân gian. Họ đã có được một cuộc tình đẹp đẽ nên thơ và một kết thúc thành tựu như ý. Nếu như họ còn được ấm êm hạnh phúc hơn người và thuận buồm xuôi gió trong mọi việc thì hóa ra Thượng Đế đã bất công với những người khác hay sao. Do đó họ cũng không ngoại lệ, cũng như bất cứ ai ai mang kiếp người, vui ít buồn nhiều.
Thế nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì những kỷ niệm yêu đương ban đầu vẫn là cứu cánh, là chất mật ngọt ngào hóa giải đi những đắng chát chua cay trong cuộc sống đầy bất trắc lo toan và là những câu kinh cứu rỗi nhiệm mầu đã giúp họ vượt qua bao cơn sóng gió tưởng đã làm họ đắm thuyền vỡ tan. Hơn nữa họ kịp nghĩ rằng chuyện gì cũng là do ý Chúa, Chúa thương thì nhờ, không thương thì chịu, có ai cãi được số phần, họ vẫn tự nhủ lòng cam chịu cho qua. Và cuối cùng rồi thì Chúa cũng đã ban cho họ một bức tranh đời mỹ miều mà họ đã từng vẽ vời ước ao trong quá khứ. Một mái nhà xinh, một mảnh vườn nho nhỏ với loài hoa tình kỷ niệm để mỗi chiều khi nhìn hoa xưa uốn mình ngả nghiêng trong gió, họ lại bâng khuâng thả hồn về phương trời cũ mơ lại giấc mơ xưa. Phương trời cũ ấy giờ đây đã vĩnh viễn cách xa nhưng những kỷ niệm của thuở ban đầu lưu luyến sẽ mãi mãi không nhạt phai, vẫn mãi còn đây trong ký ức họ cho đến phút tàn hơi cuối đời…
Ở đời, ai lại không muốn mạnh khỏe, vui vẻ, sung sướng ... để được hạnh phúc? Như vậy, đi tìm hạnh phúc và tránh khổ đau vẫn là mục tiêu theo đuổi của con người trong muôn thưở..
Chúng ta thử hỏi xem phải sống như thế nào, phải làm sao, phải cần có những điều kiện gì để mong có hạnh phúc? Ở dây, chúng tôi chỉ mong cùng các bạn trao đổi ngắn gọn những gì liên quan đến Hạnh phúc bình dị của đời thường mà chúng ta mong vươn tới chớ không dám triết lý cao xa hay lý luận dài dòng chi cả, mong quí bạn hiểu cho.
1. Cần có sức khỏe
Muốn có hạnh phúc trước nhất là phải có sức khỏe. Nằm trên đống vàng mà bệnh hoạn , đau yếu thì vẫn khổ như thường : một ông vua đang nằm trên giường bịnh rên la, khổ sở thì chưa chắc vui sướng bằng người ăn xin khỏe mạnh, an nhiên .
Mất tiền bạc, tài sản là mất đi một phần cuộc sống .Mất phẩm giá con người là mất khá nhiều . Còn mất sức khỏe thì kể như là mất tất cả .
2. Giải quyết được nhu cầu cơm áo thường ngày
Sau sức khỏe, điều quan trọng nên kể đến phải là nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc men…nói nôm na là cơm áo gạo tiền, cần giải quyết thỏa đáng mới được. Không thể nào nói hạnh phúc khi bửa đói, bửa no, không nhà không cửa, thiếu trước hụt sau nợ nần ngập đầu, ngập cổ. …”Có thực mới vực được đạo”, chứ sao!
3. Tiền bạc tối thiểu
Tiền bạc cần có tối thiểu để tiêu xài và chi dùng khi có việc bất trắc xảy ra như đau yếu, tai nạn. Thật ra không tiền thì khó mong làm được gì cho cam. Tuy tiền không phải là tất cả, không thể đem lại hạnh phúc thật sự, nhưng tiền không phải chẳng là gì. Quản lý đúng đồng tiền đang làm ra có thể giúp ta xoay sở khi có việc cần kíp. Có những trường hợp dùng tiền bạc có thể giải quyết đươc khó khăn khi tìm hạnh phúc; chẳng hạn, nếu bạn bị bệnh tật hay già yếu không có ai săn sóc, dưỡng nuôi thì chừng ấy tiền sẽ là người giúp việc đắc lực để lo cho bạn vì bạn có của để lấy của che thân.
Xin kể vài câu khá hay về tiền bạc:
- Tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ rất xấu.
- Có nhiều tiền có thể mua một tòa lầu đài nhưng chưa chắc tạo được mái ấm gia đình.
- Có nhiều tiền có thể mua được đia vị nhưng chưa chắc mua được phẩm giá con người..
4. Vui hưởng hiện tại và bằng lòng cái đang có
Hôm nay hay hiên tại là ngày quan trọng nhất vì hôm qua là quá khứ, đã qua rồi, chỉ còn là ấn tượng trong trí nhớ, ta không níu lại được. Còn ngày mai, là tương lai, chỉ là suy tưởng, mơ hồ, viễn vông làm sao ta nắm chắc được ngay bây giờ? Chúng ta chỉ sống được giây phút hôm nay vì hiện tại là giao điểm của hai chiều mịt mờ không tưởng là quá khứ và tương lai.
Hạnh phúc không phải là mục tiêu ở xa, ta chờ đến mà là hành trình hôm nay, ngay trên chặng đường ta đang đi. Như vậy, ta hãy vui sống trọn vẹn cho ngày hôm nay. Hãy tận hưởng hoa hồng đang nở bên cừa sổ ngay hôm nay, ngay bây giờ, mà đừng chờ ngày mai, vì ngày mai nó sẽ tàn không còn nữa.
Người sống hạnh phúc là người bằng lòng những gì mình đang có trong hiện tại... Họ biết “tri túc”, biết an phận nghĩa là không “đứng núi này trông núi nọ” hoài, không “thả mồi bắt bóng” mãi . Họ biết rằng “Một cái trong tay bằng hai cái chưa có”. Nếu hoàn cảnh tốt, thuận lợi thì tìm mọi cách để tận hưởng, nếu xấu thì sẵn sàng chấp nhận để tìm cách cải thiện. Định mệnh chỉ họ cho có được trái chanh còm, thì họ cải thiện, biến nó thành ly nuớc giải khát thơm ngọt – hay hơn là họ chỉ mơ ước trái nho, trái cam không có được.
Thiết tưởng hạnh phúc không phải là cái gì quá to tát hay quá trọng đại, ta mãi trông chờ. Mà hạnh phúc là những niềm vui, những cái nho nhỏ, bình thường trước mắt ta đang có. Thí dụ, sáng nay thức dậy cảm thấy trong người khỏe khoắn không dau ốm, không vui sao? Hôm nay có việc để đi làm mà không bị thất nghiệp như nhiều người khác, không đáng mừng sao? Lâu ngày gặp lại người bạn cũ tay bắt mặt mừng, không thích thú sao?
Thật ra có những hạnh phúc đang sẵn trong tay mà ta không thấy. Ví dụ như vào bịnh viện thấy quá nhiều người dau yếu nằm la liệt còn ta thì khỏe mạnh đi xông xổng - không sướng sao? Dù ta lảng tai hay mắt nhìn không rõ nhưng biết rằng trong đời này có biết bao nhiêu người điếc và mù không còn nghe hay thấy chi nữa cả - không may mắn sao ?
5. Giữ tâm hồn yên tỉnh, thư thái
Nên nhớ rằng tất cà cuộc sống chúng ta vui sướng hay khổ đau, mạnh khỏe hay bịnh hoạn, sống lâu hay chết sớm, một phần lớn đều do trạng thái tâm hồn. Nó đươc xem như viên chỉ huy trưởng , người lãnh đạo toàn diên con người của chúng ta, từ tâm hồn đến thể xác. Cái gì làm cho nó êm ái, hưng phấn thí cuộc sống cùa ta được tích cực, thăng hoa, ngược lại cái gì làm cho nó căng thẳng, sa sút thì cuộc sống cùa ta sẽ tàn tạ và tuổi đời sẽ rút ngắn đi: Một tâm hồn vui vẻ, một trái tim yêu đời sẽ ngừa được bệnh hơn cả kho thuốc men. Điều này đã xác minh được bằng những khảo nghiệm khoa học.
Ta cũng nên biết quên và buông xả những viêc trái tai gay mắt, những buồn phiền, hờn giận... để tâm hồn được vắng lặng, thanh thản. Nhớ cho:đời người rất ngắn ngủi, hơi đâu mà khổ tâm vì “tình đời đen bạc, lòng người đổi thay “ hay một nghịch cảnh trớ trêu mà ta không làm sao tránh khỏi: Dây là cuộc đời là cõi vô thường mà ! Nhưng tất cả rồi sẽ trôi qua. đến một lúc rồi đi có gì đâu trường cữu trong cõi đời này? Nếu ta càng coi cái gì quá quan trọng, quá lớn lao, to tát thì ta sẽ càng khổ tâm vì cái đó . Muốn khỏi đau khổ, điều quan trọng là đừng xem gì quá quan trọng cả để được “an nhiên tự tại”.
6. Sống cởi mở, yêu thương
Đừng coi mình là “Trung tâm vũ trụ“ quá to lớn, vĩ đại . Cũng đùng quá lo lắng cho “ Cái tôi đáng ghét của minh” (Le Moi haissable Pascal) mà nên vượt ra khỏi bản thân hẹp hòi này để nghĩ đến người khác, để quan tâm đến những người thân yêu .. Những bậc vĩ nhân như Phật và Chúa, đã hướng chúng ta đi tìm hạnh phúc bằng con đường Từ bi - Bác ái:quên mình để mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho tha nhân. Hai Ngài dạy ta phải yêu thuong vì Tình thương là diều cao quí nhất trên đời này nên dược người đời tôn thờ muôn thuở, mặc dù sống rất đạm bạc không có tài sản riêng tư chi cả. Tài sản của hai Ngai là Từ Tâm bao la như trời biển.. Sống ích kỷ chỉ biết có mình thì chẳng khác nào con ốc thu mình vào vỏ hẹp tối tăm, suốt đời hiu quạnh, cô đơn ..
Người hạnh phúc luôn mong giúp đỡ, mong đem niềm vui hay những gì tốt đẹp cho người khác mà không mong chờ sự đền đáp lại vì khi cho họ đã được nhận rồi. Người nào cầm hoa hồng tặng ai thì tay người ấy thơm hoa hồng. Sự cho đi cũa họ xuất phát từ con tim, từ tình cảm yêu thương thật sự. Mang niềm vui cho người khác tức là tìm niềm vui cho chính mình, và cũng là ý nghĩa đời sống của họ “Sống yêu thương để được yêu thương”. Cho nên, họ cảm thấy vui sướng biết bao khi góp lời an ủi, khuyến khích hay khen tặng ai cũng như khi đươc chia sè sướng khổ, vui buồn với người khác qua lòng cảm thông và thương mến chân thành giữa con người với con người với nhau. Trái tim hoàn hảo nhất là trái tim chia sẻ yêu thương nhiều nhất.
Kết luận : Tôi mạo muội nghĩ rằng: hạnh phúc không do hoàn cảnh hay sự vật bên ngoài mà chính yếu là do trạng thái tâm hồn bên trong. đối với ngoại cảnh mà ra Do đó nhà Phật khuyên ta nên “đối cảnh vô tâm”.Sướng hay khổ, vui hay buồn tùy thuộc vào góc cạnh ta nhìn thế giới bên ngoài thế nào, vào cách cảm nhận và ứng biến trước cuộc sống.ra sao?
Mang kính hồng hay kính đen mà nhìn đời ? ( Tẻ vui cũng bởi lòng người mà ra – Ng. Du)
Nói chung là do quan điểm sống cuả ta: lạc quan hay bi quan mà vui hay khổ.
Thiết tưởng : tâm là mấu chốt, là cốt lỏi : Đau khổ là do tâm mà Hạnh phúc cũng do tâm vậy .
1 : ĐUỔI MỸ VỀ NƯỚC, Vào đầu thập niên 60, trong cuộc họp với các nhà lãnh đạo Châu Âu để thỏa hiệp sống chung hòa bình với các nước CS Đông Âu. Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle muốn lấy lòng CS nên đả đơn phương quyết định rút ra khỏi Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO). Ông ta nói với Ngoại trưởng Dean Rusk của Tổng Thống Kennedy là : " Ông muốn Quân Đội Hoa Kỳ PHẢI RÚT RA KHỎI NƯỚC PHÁP CÀNG SỚM CÀNG TỐT."
Ngoại Trưởng Rusk nhìn thẳng vào mặt Tổng Thống De Gaulle từ tốn hỏi : " Thưa Tổng Thống ! lệnh này có bao gồm luôn cả các Quân Nhân Hoa Kỳ từng được chôn cất tại đây hay không ???? "(Chúng ta biết lính Mỹ tử trận nhiều nhất là trong cuộc đổ bộ lên bờ biển Normandie cùng với quân Canada năm 1944 để Giải Phóng Nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của Đức Quốc Xả trong Đệ Nhị Thế Chiến...) TT De Gaulle cứng họng không trả lời. Tiếp theo là một sự yên lặng như tờ. Yên lặng đến đổi có thể nghe cả hơi thở người đối diện.
2 : TRÌNH SỔ THÔNG HÀNH Cụ già Người MỸ 84 tuổi , Robert Whiting tới Paris bằng phi cơ. Tại văn phòng Sở Di Trú phi trường. Vì già cả chậm lụt , nên cụ phải mất thời gian lục tìm sổ thông hành trong xách tay. Thấy cụ cứ lục lọi , nhân viên Sở Di Trú sẳng giọng với cụ : " Thưa Ông ! Ông đả từng đến nước Pháp bao giờ chưa? " Cụ Whiting khai là trước đây cụ đả từng đến nước Pháp rồi. " Vậy ông có biết là ông Cần Phải Sẵn Sàng Để Xuất Trình Sổ Thông Hành không? " Cụ già Hoa Kỳ trả lời : " Trước đây khi tôi đến Pháp tôi không cần phải xuất trình Sổ Thông Hành gì hết cả.." Nhân viên Di Trú nổi nóng : " Xin Ông nói chuyện cho đàng hoàng một chút. Chuyện vô lý ! Người Mỹ bao giờ củng phải xuất trình Sổ Thông Hành khi tới Pháp. Cụ Whiting đua mắt nhìn nhân viên Di Trú thật lâu rồi nhẹ nhàng giải thích : " Thật vậy sao ! trước đây khi tôi đổ bộ lên bãi biển OMAHA nước Pháp trong ngày D day năm 1944 để giải phóng nước Pháp thoát khỏi sự thống trị của Đức Quốc Xã , tôi ĐẢ KHÔNG TÌM THẤY MỘT NGƯỜI PHÁP NÀO Ở ĐÓ ĐỂ MÀ TRÌNH SỔ THÔNG HÀNH CẢ......."
Yên lặng như tờ. Yên lặng đến đổi có thể nghe làn gió thoảng nhẹ nhàng xuyên qua cửa sổ phi trường.
Trong những giây phút lắng lòng, có khi nào bạn nghỉ giữa tôi và bạn gặp nhau trên Diễn Đàn bắt nguồn từ một nguyên nhân sâu xa không?
- Nếu nguyên nhân đó tốt, thì tôi và bạn lúc nào cũng dùng lời ôn tồn, dịu dàng, an ủi.
- Nếu nguyên nhân đó xấu thì tôi và bạn thường hay tranh cãi
Dầu là nguyên nhân xấu chúng ta vẫn sửa đổi được. Nếu bạn biết rằng có biết bao người trên thế gian này không có điều kiện như chúng ta. Không biết computer, internet,email là gì ? Không biết forum là gì, nơi ấy mỗi ngày có những bạn hữu ở bốn phương trời góp mặt chia sẻ cùng nhau. Dù là trên Mạng Ảo. Nhưng trong cái Ảo có cái Thật. Nếu bạn biết rằng, chúng ta vẫn còn gặp nhau, dù sau khi ta bỏ thân xác này để về cõi trời. Vẫn bắt tay mặt mừng nơi cõi Thiên đàng, nếu ta thực hiện được tình " Huynh Đệ". Tình huynh đệ là tình thương, dù bạn ở trong tôn giáo nào, quan điểm chính trị của bạn ra sao ?
Hiền Gò Công
- Viết sau khi xem bài thơ Tạ Tình Bạn Ảo của tác giả NPN
Mời xem thêm Sáu Pháp Hòa trong nhà Phật dưới đây
Lục hòa
Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.
A. MỞ ĐỀ
1. Tai hại của sự bất hòa
Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có gì tai hịa bằng sự bất hòa. Sự bất hòa làm ung độc cuộc sống chung và bắt buộc người ta phải xa nhau, nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau.
Trong gia đình, anh em không hòa, thì tình cốt nhục chia ly. Vợ chồng không hòa, thì gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ; gần mẹ thì phải xa cha. Xóm làng không hòa thì hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không hòa thì sanh ra giặt giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bât shòa, thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn.
2. Sự quan trọng của nhu hòa
Đã thấy sự bất hòa như thế nào, tất nhiên cũng phải thấy đức tánh nhu hòa là cần thiết như thế nào cho đời sống tập thể.
Chúng ta thường nghe nói: "Dỉ hòa vi qúi" (lấy hòa làm quý). Bốn chữ giản dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng. Những ai lấy nó làm phương châm, thì bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành tựu dễ dàng. Trái lại, những ai khinh thường nó, thì công việc chung không bao giờ có kết quả.
Sách Nho cũng có nói: "Thời thế thuận, không bằng địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm hòa" (thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa). Xem thế thì đủ biết: yếu tố hòa là quan trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đình hòa thì gia đình có hạnh phúc; nước nhà hòa thì nước nhà được thạnh trị; nhơn loại hòa thì thế giới an lạc.
Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu hòa trong đời sống tập thể, đức Phật đã chế ra pháp "Lục hòa" cho hàng Phật tử.
B. CHÁNH ĐỀ
I. ĐỊNH NGHĨA
Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây là hòa với mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng gật. Hòa ở ở đây cũng không phải là phương tiện trong giai đoạn để rút thắng lợi về mình, rồi lại chiến. Hòa ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy có bòng dáng "tự và tha" không có so đo "ta và người".
II. LỤC HÒA LÀ NHỮNG GÌ?
Lục hòa gồm có sáu điểm sau đây:
1. Thân hòa cùng ở (Thân hòa đồng trú)
Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành.
Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau, không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là anh em, vợ chồng, con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp đáp, sát phạt nhau.
Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, thì tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng một lý tưởng mục đích, thì cũng phải lấy cái hòa khí làm đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được.
Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xã hội, thì phải lấy sự đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm thành giặc chòm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau. Người nước ta có câu ca dao rất có ý nghĩa:
"Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".
Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa thuận, thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống nòi !
Cũng thể, đã là nhâ loại, cùng chung sống trên quả dịa cầu nầy, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là "Tứ hải giai huynh đệ" cả. Đã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô trí, thì thật là vô cùng phi lý.
Tóm lại, đã cùng chung sống với nhau trong một địa vị, một giới hạn, một hoàn cảnh, thì bao giờ cũng phải hòa hảo với nhau.
2. Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi nhau
Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy rad, cãi cọ nhau.
Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ấu đả nhau.
Trong một gia đình, xũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trưỏ thành những kẻ xã lạ, thù hằn nhau.
trong xã hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi quốc gia phải lâm nạ chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào lò sát sanh thảm khốc.
Bởi thế, nên thân thể hòa chua phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy, gây gỗ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn luận.
3. Ý hòa cùng vui (Ý hòa đồng duyệt)
Duy thức học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và thân. Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người cần giữ gìn ý tứ, tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa khí. Trái lại nếu ý tứ bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một uy quyền gì trên, mà phải ăn ở hòa thuận với nhau, thì sự hòa thận này cũng chẳng khác gì một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một tấm gỗ đã mục. Một khi sự xung đột bên trong đã đến một mức độ không thể chứa đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đã mục quá rồi thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt, đổ bể.
Đức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ý vui vẻ hòa hiệp trong khi chung sống với nhau.
Muốn được tâm ý hòa hiệp, phải tu hạnh Hỷ xà. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm hồng mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh được. Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh hỷ xả mới được.
4. Giới hòa cùng tu (Giới hòa đồng tu)
Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kỹ luật qui cả hẳn hoi.
Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc tu hành của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia thì thọ Ngũ Giới; người xuất gia thiì thọ 10 giới nếu là Sa Di, thọ 250 giới nếu là Tỳ kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ kheo Ni v.v...
Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi ngày tùy theo cấp bậc của mình mà giữ giới. Đã cùng một cấp bực với nhau, thì tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới nầy, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. nếu có sự vô kỷ luật nầy thì lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan rã. Vì thế, đức Phật dạy: khi Phật tử đã chung sống với nhau, thỉtiệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bực mình.
Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đình Phật tử, một hội chẳng hạn, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập. Trong gia đình Phật tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm điều luật của gia đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh trường, thì dg Phật tử ấy sẽ tan rã. trong một hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp, tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không gữ giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có tình trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã.
Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ sống chung với nhau được. Vật Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người cần phải gìn giữ giới luật như nhau.
5. Thấy biết giải bày cho nhau hiểu (Kiến hòa đồng giải)
Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được điểm gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình dộ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần bình đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể.
Khi ta khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có một ý kiến gì hay ho, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những ta là một kẻ ích kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những người khác. Lòng ích kỷ và sự tắc nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bât shòa, xung đột. Trớc một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ gây nghi ngờ, hoang mang trong đoàn thể, vì phần đông không biết tin vào ai.
Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩa có thể đúng, mà cũng có thể sai. Trong người trường hợp ấy, mà không gấp rút giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, thì khó mà có thể sống hòa hiệp với nhau.
6. Lợi hòa cùng chia cân nhau (Lợi hòa đồng quân)
Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cần nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình.
Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu, thuốc thang v.v...thì phải đem quân phân tất cả, nghĩa là chia cho đều nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm trọng. Giữ được như thế, thì dù ở chung nghìn người cũng vẫn hòa vui. Trái lại, nếu vì tính tư, ý riêng tham tài ham lợi thì dù chỉ có vài ba người chung sống với nhau, cũng không thể hòa được.
Trong xã hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia giai cấp, cũng do vì thiếu sự "Lợi hòa đồng quân" cả. Người giàu thì giài quá, kẻ nghèo thì nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga ruộng đất cò bay thẳng cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất. Do đó, không thể có hòa bình được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với nước phú cường.
nếu nhân loại thâm hiểu rằng: cuộc giàu sanh phú quý trong nhân gian, như hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời như bọt nước nổi trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi nhiều lắm, và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau hơn.
Với một tinh thấn bình đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ, với một tri huệ soi thấu rõ sữ vô thường, giả tạm của cuộc đời, Đức Phật đã dạy: "Có tài lợi, nên tùy phận chia sớt cho nhau", hay triệt để hơn nữa: "Lợi hòa đồng quân".
bậy chúng ta đã là Phật tử, phải nên cố gắng thực hành cho được lời dạy ấy.
C. KẾT LUẬN
Để có một ý niệm tổng quát về Lục hòa chúng ta hãy ôn lại một lần nữa, những ý chính trong 6 điều chỉ bảo của đức Phật:
1) Hãy chung sống với nhau một cách hòa hợp, hãy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, chứ không nên dùng võ lực để đàn áp nhau.
2) Hãy nói năng với nhau một cách dịu dàng, hòa nhã; nếu có điều gì thắc mắc cần bàn cãi, thì cũng phải bàn cãi trong ôn hòa, lễ độ.
3) Hãy nuôi dưỡng ý tốt đẹp đối với nhau, hãy trau dồi đức hỷ xả; đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau.
4) Hãy giữ đúng giới luật như nhau, hãy lấy kỷ luật làm đầu. Vô kỷ luật thì không một đoàn thể nào có thể tồn tại được.
5) Hãy giải bày những sự hiểu biết, những ý kiến của mình cho người chung quanh. Người thông hiểu nhiều, phải có bổn phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt họ đi kịp mình.
6) Hãy chia đồng đều tài lợi thu thập được cho những người cùng sống chung với mình, để mọi người đều được thỏa mãn, vui vầy.
Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách triệt để thì trong gia đình, cha mẹ, vợ chồng, anh em, đều được hòa thuận yên vui, gia nghiệp mỗi ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế giới đ hòa bình an lạc.
Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng đắn pháp "Lục hòa", thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con đường giải thoát được gần hơn, và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước vọng.
Vậy xin khuyên các Phật tử mỗi người sau khi học hiểu rõ Lục hòa, phải thật hành cho được và khuyên mọi người thật hành theo, để cùng hưởng hạnh phúc chung.
1. Niệm Phật không phải để cầu xin Phật ban cho một điều ước nào đó.
2. Niệm Phật không phải để tăng thêm sức mạnh, thêm can đảm để đối phó với kẻ thù. Cho nên trong Phật giáo trải qua hơn 2.500 năm, không hề có chuyện một đoàn quân lâm trận giương cao biểu tượng hay hình Đức Phật để hăng máu, can đảm xông lên chém giết kẻ thù.
3. Niệm Phật không phải là để van xin Phật ban cho một giải pháp để giải quyết một tình thế khó khăn.
4. Niệm Phật không phải để xin Phật ban bố phép mầu, vặn cổ kẻ thù giúp chúng ta.
5. Niệm Phật không phải là quỵ lụy khóc than, trở nên hèn kém đối với Phật.
6. Niệm Phật không phải xin Phật chỉ lối, đưa đường cho chúng ta buôn may, bán đắt.
7. Niệm Phật không phải để dông dài kể lể, tâm sự chuyện kín, chuyện riêng tư với Phật.
8. Niệm Phật không giống như cầu nguyện, van vái thần linh.
9. Niệm Phật không phải để trở nên đời đời kiếp kiếp làm tôi đòi cho Phật.
10. Niệm Phật nhất thiết không phải để quên đời.
Những cái CÓ trong niệm Phật
1. Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.
2. Niệm Phật để an trụ tâm. Đang nóng nảy, niệm Phật lòng dịu hẳn xuống. Đang thù hận, niệm Phật hận thù hóa giải. Đang tham lam, niệm Phật bớt tham…
3. Niệm Phật để không cho niệm ác nảy sinh. Nếu niệm ác đã nảy sinh thì không cho nó phát triển.
4. Niệm Phật để giữ gìn thân-khẩu-ý.
5. Niệm Phật là phương thuật giữ gìn Chánh niệm.
6. Niệm Phật tới vô niệm chính là Thiền.
7. Niệm Phật để nuôi dưỡng lòng Từ bi.
8. Niệm Phật để trở thành Phật chứ không phải trở thành nô lệ hay tôi tớ cho Phật.
9. Niệm Phật cũng là phép trị liệu, bảo vệ sức khỏe.
10. Niệm Phật để giải trừ bớt ác nghiệp gây tạo trong quá khứ.
11. Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng còn lo sợ, chẳng cần phải nhờ ai cứu rỗi, một mình thẳng tiến lên Cực lạc của Phật A Di Đà.
12. Càng niệm Phật đầu óc càng sáng suốt, lòng dạ thảo ngay, tâm tính hiền từ.
13. Kẻ ác khẩu, nói năng hung dữ chuyên niệm Phật sẽ giải trừ được khẩu nghiệp.
14. Niệm Phật khiến lời nói dịu dàng, khiêm tốn do đó không gây thù chuốc oán.
15. Niệm Phật để chuyển nghiệp.
16. Niệm Phật khiến đi đứng dịu dàng, cử chỉ khoan thai.
17. Niệm Phật có thể ngăn chặn được cám dỗ điên cuồng.
18. Chán nản, thất vọng, niệm Phật khiến tâm địa bình ổn.
19. Lâm vào vòng lao lý, tù tội, mỗi tối nên ngồi ở tư thế "bán già", xoay mặt vào tường niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ, sẽ thấy tâm hồn thanh thản, thời gian ở tù qua nhanh.
20. Niệm Phật khiến ta bình tĩnh, không lao vào chuyện thị phi.
21. Niệm Phật có thể trở thành Thánh tăng, đạt tới trạng thái bất động, nhập đại định.
Thực hành niệm Phật
- Buổi tối nên niệm Phật.
- Trước khi đi ngủ nên niệm Phật cho đến khi nào đầu óc thanh thản để từ từ đi vào giấc ngủ.
- Sáng thức dậy nên niệm Phật, dù vài câu, bởi vì sau giấc ngủ dài đầu óc con người thường hôn trầm. Niệm Phật vào đầu sớm mai cũng là dấu hiệu bắt đầu một ngày mới tốt lành.
- Khi nào thấy buồn chán nên niệm Phật.
- Thấy mất tự tin nên niệm Phật.
- Thấy lòng xao xuyến nên niệm Phật.
- Thấy có thể bị cám dỗ nên niệm Phật.
- Thấy thời gian kéo dài, vô vị nên niệm Phật.
- Gặp rắc rối về pháp lý nên niệm Phật để bình tĩnh ứng phó.
- Bị ai chọc giận, công kích nên niệm Phật.
- Các em khi vào thi, nên niệm Phật để đầu óc thanh thản, bình tĩnh v.v…
- Đêm khuya thanh vắng một mình trên tàu, xe, trên sông nước nên niệm Phật.
- Khi bệnh tật, đau ốm nằm nhà thương nên niệm Phật để không mất tinh thần,
- Nếu niệm Phật kết hợp với theo dõi hơi thở thì công năng rất lớn chẳng khác gì thiền định vậy.
Tháng Mười Một lại về, trong tâm trí bạn và tôi. Tháng Mười Một là tháng mà Giáo Hội mời gọi ta hãy suy nghĩ về cái chết của mình và tha nhân. Khi ta suy nghĩ về sự chết, ta sẽ nhận ra sự yếu đuối của thân phận con người, sự mong manh và tính bất định của sự sống. Như vậy, khi suy nghĩ về sự chết thì cũng là lúc ta suy nghĩ về sự sống. Bởi vì nhờ suy nghĩ về sự chết mà ta có thể sống tốt cũng như hài hòa hơn trong các mối tương quan với tha nhân, đồng thời thêm xác tín mạnh mẽ vào sự sống trường sinh mai hậu. Nhà thơ R.Tagore đã viết thật chí lý khi ông dám chấp nhận cái chết là một sự thật: “Cuộc sống không phải là một cái gì bền vững và thường hằng, đó là một phát hiện đau đớn, nhưng lại đem đến cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng” và “Cái chết đã đem lại cho tôi một cái nhìn đúng đắn hơn”
Bạn thân mến!
Khi chọn tháng mười một là tháng dành riêng để cầu nguyện cho các linh hồn, hay những dịp cầu hồn, an táng, những dịp kính nhớ tổ tiên...Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình một mặt tưởng nhớ tới những người đã khuất để cầu nguyện cho họ. Mặt khác, Giáo Hội cũng muốn chính những người còn đang sống hãy nghĩ đến thân phận của mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ phải ra đi như những người thân yêu của mình đã lần lượt lìa bỏ thế gian để về với thế giới bên kia. Vậy, đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Cuộc đời sẽ đi về đâu? Bên kia cõi chết là gì? Qua bài viết này, người viết xin được chia sẻ tính hiệp thông trong mầu nhiệm Giáo Hội. Đồng thời cũng là một suy niệm về cái chết trong cuộc sống thực tại. Và, đây cũng là lời mời gọi mọi người hãy suy nghĩ về cái chết để được sống, đáng sống và tồn tại. Tất cả, xin được khiêm tốn chia sẻ những gẫm suy về ý nghĩa cái chết của những người có niềm tin.
Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.
Vậy hiếu kính cha mẹ là yêu mến, biết ơn, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và cầu nguyện cho các ngài khi đã qua đời. Nhưng mang trong mình những giới hạn nhất định, nên nhiều khi chúng ta đã không thể chu toàn được với các ngài. Thật vậy, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hoà đồng giữa anh chị em ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
Truyền thống của Giáo Hội dạy cho ta biết rằng: các linh hồn là những người đã một thời sống cùng, sống với chúng ta trên cõi trần này, nhưng các ngài đã ra đi trước. Vì mang trong mình thân phận của con người, nên nhiều khi các ngài mang lấy tội mà đi vào cõi chết. Những lỗi lầm đó có thể là do yếu đuối của các ngài, có khi vì chúng ta mà các ngài phải bị liên luỵ...như vậy, trước khi về hưởng trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc bên Chúa như các thánh, các ngài phải thanh luyện cho xứng đáng trước sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa. Những người còn sống có thể dâng thánh lễ, làm các việc lành đạo đức, dâng những hy sinh, hãm mình...để cầu nguyện cho các linh hồn. Mặt khác, khi cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu được rằng, đây còn là thái độ của lòng biết ơn. Vì: trước hết, ta sống là nhờ cha mẹ và người thân. Quả vậy, chúng ta lớn dần lên trong sự vất vả một nắng hai sương của cha mẹ. Từ những đêm thức trắng lo toan, đến những tần tảo quanh năm suốt tháng để ta được nuôi dưỡng nên người. Trong nụ cười của chúng ta có sự chết (hy sinh) của cha mẹ. Trong niềm vui của chúng ta có đau khổ của đấng sinh thành. Và thế rồi, dầu cha mẹ có khuất núi, thì các ngài lại đang hiện diện nơi con cháu là chúng ta, vì chúng ta mang trong mình huyết nhục cũng như sự hy sinh của các ngài.
Như vậy, với niềm tin vào Đức Kitô chết và Phục Sinh, vào những lời Chúa hứa, chúng ta phó thác người thân chúng ta nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Ngoài việc đọc kinh, cầu nguyện...cho các linh hồn thì việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Nhưng điều tốt này lại có ích cho người còn sống nhiều hơn. Bởi lẽ, từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống ngắn ngủi của con người. Suy nghĩ về vấn đề này, thánh Augúttinô nói: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến”. Thi sĩ R.Tagore cũng nói: “Với ông, sự sống và cái chết chỉ là hai bờ của một dòng sông, là hai bầu vú mang đầy sữa ngọt ngào trên ngực trần của người mẹ: “Khi mẹ giằng con khỏi vú bên này, con oà khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia”. Cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là ở chỗ: ba tấc đất sâu, và một nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Chính vì thế mà Giáo Hội muốn chúng ta không dừng lại ở những tấc đất, nấm mộ đó mà hãy đi tìm cho mình một ý nghĩa đằng sau cái chết. Muốn cái chết của mình thật sự có ý nghĩa, thì trước tiên hãy nghiêm túc suy nghĩ ngay đến cái chết của chính mình trong cuộc sống hiện tại, hầu chuẩn bị cho xứng đáng khi đến trình diện với Chúa trong ngày chết của chúng ta. Thoạt nghe, có vẻ vô lý! Tại sao đang sống mà lại phải suy nghĩ về cái chết?
Thiết nghĩ, trước khi bàn về vấn đề này, tưởng cũng nên nhắc lại những tâm tình trong Kinh Thánh và lời của các các thánh nói về cái chết: “Chính anh chị em đã rõ: ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya.” ( 1Tx 5, 2); " Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ." (Lc 12,40);còn thánh Grêgory đã nói về cái chết như sau: “Chúng ta không biết trước sẽ chết giờ nào, để chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng.” ; thánh Bênađô tiếp: vì chúng ta có thể chết bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên muốn chết lành, được cứu rỗi, phải sẵn sàng đón nhận sự chết: “Thần chết đến bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi nó.”
Suy niệm đến đây, tôi sực nhớ cách đây mấy năm, tôi có quen một thầy tu, khi đến thăm, tôi thấy trên bàn học của thầy luôn có một chiếc quan tài nhỏ, trong chiếc quan tài đó có tấm hình của thầy và một bản cáo phó mà chính thầy viết cho mình. Khi hỏi thì được thầy giải thích như sau: chiếc quan tài này là hình bóng của sự chết, bởi vì nó sẽ ôm trọn xác chết khi con người ta hết hơi. Con người khi còn sống có là vua chúa quan quyền, hay người phu quét rác; dù là tỷ phú hay người ăn xin; dù là giáo hoàng hay giáo dân...chết là hết. Cái chết là sự thật. Nên mỗi khi đi đâu về, tôi thường hay ngắm nó, và suy nghĩ về cái chết của chính mình...từ đó tôi lo sám hối về những thiếu sót và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Còn bài cáo phó mà tôi tự tay viết cho chính mình là vì tôi thiết nghĩ: điều tốt cho tương lai mà tôi muốn, thì hãy chuẩn bị ngay từ bây giờ. Điều tốt mà tôi mong muốn cho tương lai là gì nếu không phải là được ở bên Chúa. Vậy ngay từ giây phút này, tôi hãy lo sống sao cho đáng sống, để cái chết của tôi thật sự là một cuộc đi về như lời bài hát: lạy Chúa, bao ngày tháng con hằng mơ ước, tìm về bên Chúa, niềm vui suối an hoà...hay “Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1). Vì thế, cái chết là “một cõi đi về” và “Hãy để cuộc đời tươi đẹp như hoa mùa hạ, và hãy để cái chết về như lá mùa thu”.
Nghe đến đây, tôi thực sự cảm thấy "sốc". Sốc vì tôi sực nhớ đến câu chuyện trong Kinh Thánh: nhân vật chính của câu chuyện là "một người giàu có", ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Ông nói: "Ta sẽ tích trữ tất cả thóc lúa và của cải vào đó" và "ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm, cứ nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi cho đã". Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: "Ðồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi" lúc đó ngươi tính sao? (x. Lc 12,16 -20). Và chuyện đã xảy ra đúng như vậy. Ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này...Sốc nữa vì đây là sáng kiến táo bạo của thầy. Nhưng nghĩ suy một chút, tôi mới nhận ra đây là một chân lý. Bởi đã có nguời định nghĩa cuộc sống là một hành trình để tiến tới… cái chết. Hay như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1Cr 15,32). Thật thế, mỗi ngày sống là đời ta ngắn lại; mỗi hoàng hôn ta mất đi một ngày. Sống là đang đi dần tới cõi chết. Sự sống và cái chết nó hoà quyện lại với nhau.
Thật vậy, cái chết là một người bạn thân thiết với con người. Chả thế mà thánh Phanxicô Assisi đã gọi nó là "Chị Chết". Chị Chết này dù muốn dù không, Chị cứ đến với cuộc đời ta như người nhà. Không cần báo trước, chẳng cần ai dẫn đường. Chị đến như một người trộm. Như vậy, thân phận con người là một cái gì đó mỏng dòn dễ vỡ. Cuộc sống nơi dương gian này chỉ là tạm bợ. Ý thức được như thế là để xin ơn tha thứ, đồng thời cũng lo chuẩn bị cho mình một cái giấy thông hành trên hành trình về với Chúa. Giấy thông hành này không mua được bằng tiền, không có được bằng quyền, mà phải đánh đổi bằng: lòng sám hối, sự canh tân, việc đạo đức, những hy sinh, hãm mình...sống và làm theo Lời Chúa dạy. Có thế, ta mới hy vọng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời với các thánh.
Ước mong sao, mỗi người hãy dâng những hy sinh hãm mình, đặc biệt là thánh lễ để cầu nguyện cho các linh hồn. Đây là tấm lòng biết ơn cao cả mà Chúa muốn nơi chúng ta khi tưởng nhớ đến người quá cố, đồng thời đây cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta khi sống trong mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông. Đàng khác, đây cũng là thời gian thuận tiện để ta suy nghĩ về chính cái chết của mình. Thật vậy, suy gẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, và giết chết cái tôi ích kỷ của mình như hạt lúc gieo vào lòng đất, để chỉ còn muốn sống cho Chúa cách trọn vẹn hầu phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân.
Như vậy, khi suy nghĩ về cái chết, chúng ta hãy có tâm tình như thánh Phaolô:“Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Và cuối cùng, cái chết đến với tôi như một niềm hãnh diện:“Còn tôi, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi Người” ( 2 Tm 4, 6-8). Chỉ có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi Chúa, còn chết trong Chúa là một giải thoát, đưa chúng ta vào sự sống viên mãn của Ngài.
Để kết thúc bài viết này, xin đặt mình vào tâm tình của người sắp ra đi và mong muốn được khắc ghi trên chính bia mộ của mình những hàng chữ sau như một lời trăn trối cho người còn sống:
Vừa đẩy cửa bước vào phòng mạch của ông Chiropractor, tôi nghe một giọng nói chát chúa oang oang như cái loa bể đập vào màng nhĩ làm tôi muốn dội ngược trở ra. Một bà bệnh nhân to con dềnh dàng đang rống cổ nói vói vào trong với ông bác sĩ đang chữa cho một bệnh nhân ở phòng trong :
- Cô ghét mấy thằng sợ vợ lắm, mấy thằng sợ vợ là mấy thằng ngu, tại sao phải sợ nó, cái gì cũng phải có sự công bằng, “phíp ti phíp ti”(fifty) vừa vừa phải phải thôi chớ. Mấy thằng con cô mà sợ vợ là cô chưởi nó te tua. Cô nói “nó là “xì bê xì a lít" (specialist), mày cũng “xì bê xì a lít” như ai vậy, sao mày phải sợ nó”. Còn con gái cô, cô dạy nó hổng được ăn hiếp chồng, ăn hiếp chồng là thứ mất dạy. Phải chi không có ăn học thì không nói gì, người có ăn có học mà chưởi bới ăn hiếp chồng thì coi như vô giáo dục, phải hông?
Nghe bà ta nói vậy tôi nghĩ thầm trong bụng chà bà này cũng “chính nhân quân tử” biết phải biết quấy quá chớ, hiếm có ai mà nói được như vậy, ông chồng bả có phước thật. Tôi ngồi xuống cạnh bà ta mở tờ báo mang theo ra đọc vừa nghe bà ta nói tiếp.
- Như cô nè, ông xã cô “ne vờ” sợ cô, cô nói trước rồi ông không có được sợ tui làm người ngòai tưởng là tui ăn hiếp ông dữ lắm. Tui nói đâu ông nghe đó thì tui lấy gì chướng mắt để mà ăn hiếp ông. Một tuần ổng đi làm sáu ngày, còn một ngày ở nhà, cô kéo ổng đi chơi, khi thì nhà bạn bè, khi thì đi shop, có tuần thì cắt cỏ, vậy là êm ấm trong ngòai, còn thì giờ đâu để lớn tiếng gây gổ, cậu thấy hông?
À thì ra tôi lầm. Bà ta chơi cái màn “tiên hạ thủ vi cường” chận họng ông chồng bả trước hèn gì. Nội nhìn cái tướng bà ta mà ông chồng không tự động phát rét thì cũng lạ, còn dám hó hé lạng quạng gì nữa mà không êm ấm. Tôi cố chăm chú vào tờ báo nhưng đọc tới đọc lui mãi một câu cũng không vô đầu, phần vì bả nói quá lớn, phần vì cái máy CD đang chơi nhạc Mỹ hiện đại, hát không ra hát mà nói không ra nói. Thường mọi khi, những bệnh nhân tới trước, trong lúc chờ tới phiên thì mạnh ai nấy đọc báo hoặc chơi iphone, nếu có trò chuyện thì cũng khe khẽ vừa đủ nghe chớ có đâu lại ong ỏng như rao hàng ở chợ trời.
Cậu bác sĩ tuy đang xoa nắn chỉnh xương cho một bệnh nhân ở phòng trong nhưng lát lát cũng biểu đồng tình ừ ừ dạ dạ với bà ta. Cậu bác sĩ này rất bình dân vui tính, lại thích gossip, tay làm việc mà miệng chẳng lành da non, bệnh nhân nào tới viếng cậu lần thứ ba là cậu ta thuộc lòng, nhớ vanh vách chuyện ba đời nhà người ta để có thể up date khi gặp lại. Do vậy bệnh nhân nào cũng mến thích cậu ta, coi cậu ta như con cháu ruột rà tha hồ mà kể lể cập nhựt chuyện gia đình mỗi lần tới chữa bệnh. Nhưng theo phép lịch sự, muốn nói thì bà ta phải chờ khi tới phiên mình vào trong rồi hãy nói, đàng này bà ta cứ thản nhiên mở hết volume tươm tướp.
- Cô mới “ken xồ” (cancel) đi Nhựt hồi sáng nè. Đáng lẽ vài bữa nữa đi Nhựt nhưng ông xã cô bị viêm lỗ tai phải mổ thình lình nên phải “ken xồ”.
Bên trong cậu bác sĩ hỏi vọng ra:
-Vậy là cô phải chịu lỗ mất tiền vé hả?
- Đâu có, mất sao được, mình có lý do chính đáng mà, nó trả “phun” (full) lại và cô “búc”(book) đi Âu châu chơi, đi ba tuần, năm sáu nước luôn. Phải đi du lịch cho biết đây biết đó với người ta chớ ở nhà hòai ngu sao. Đi một ngày đàng học một sàng khôn mà.
- Vui há, cô chịu chơi quá ta! Nhưng cô có tiền thì nói vậy chớ người ta hổng có tiền lấy gì đi? À hình như tuần rồi cô nói mới bán bớt một căn nhà phải hông? Cô còn mấy căn, bán rẻ cho con một căn đi.
Bà ta cười hô hố:
- Cậu Trần nói chơi hòai. Cậu đang sống ở cái vùng thượng lưu trí thức, tòan là dân Úc, bộ tui không biết sao. Dễ gì cậu chịu dọn về cái chỗ tạp nhạp Li Băng bắn lộn nhau hà rầm này. À mà cậu có sợ vợ không vậy? Chắc không đâu hả. Cái tướng của cậu uy nghi lẫm liệt quá mà sợ vợ nổi gì.
- Uy nghi là sao, cô biết coi tướng hả, bữa nào coi giùm con coi chừng nào con khá đây.
- Chời ơi coi tướng là nghề của cô mà. Con dâu con rể của cô là do cô coi tướng cưới về đó. Đứa nào cũng là “xì bê xa lít” hết á. Bởi vậy bây giờ cô khỏe re, một năm đi du lịch ba bốn chuyến. Đi gần giáp vòng thế giới rồi.
- Số cô sướng quá hả? Con cũng thích du lịch nhưng mà đi riết hết tiền. Làm bao nhiêu cũng hết. Bây giờ phải bắt đầu stop bớt để cho mấy đứa nhỏ đi học. Bà xã con kẹt ba đứa con xấp xỉ nhau, đâu có đi làm được phụ với con. Có một đầu lương mà phải tiêu xài cho hết cả nhà, lấy gì dư.
Nói tới đây thì cậu bác sĩ đã chữa xong cho ông bệnh nhân bên trong. Ông bệnh nhân này bước ra mặt mày quạu đeo, có lẽ từ nãy giờ bị “trúng miểng” cái đài phát thanh nổ. Tôi đóan có lẽ ông này là bệnh nhân mới nên chưa đủ quen để bắt chuyện với cậu bác sĩ vui tính chớ nếu không thì bà này đâu có cơ hội “phát sóng” từ ngòai phát vô.
Bây giờ thì chính thức tới phiên bà ta "được nói". Chờ bả vào trong, tôi bắt đầu lại câu truyện trong tờ báo mà nãy giờ đọc tới đọc lui hai ba bận vẫn không biết nói gì.
Đang cắm cúi đọc, bỗng tôi nghe tiếng la thất thanh từ trong vọng ra:
- Á, á.. chế…t chế…t, chết, đau, đau quá cậu ơi!
Tiếng cậu bác sĩ vỗ về:
- Cô rán chút đi, cái khớp xương này ấn vô là phải đau thôi. Cô hít vô thở ra đều đặn thì sẽ đỡ, tại vì lâu ngày nó bị stiff quá rồi. That’s why.
Coi bộ bớt đau được một chút, không nghe bà ta than thì lại nghe bà ta nói:
- Cô đi nhiều ông “cai rô” (Chiro) rồi mà khi tới đây gặp cậu, thấy cách thức cậu chữa bệnh, cô vừa ý quá nên bây giờ tới luôn.
Ngưng nói thì bà ta lại kêu đau:
- Á á, chết, chết, nhẹ tay chút.
Tôi nghĩ thầm trong bụng tôi cũng thường đi bác sĩ chỉnh xương mà hồi nào tới giờ đâu có nghe ai rên la ầm ĩ lên như gà bị cắt tiết như bà này đâu. Ngay cả con nít đá banh bị lọi chân trẹo giò đem lại sửa cũng không la khóc nữa, còn bả, cái thân như bồ tượng mà nhịn đau một chút không được sao. Kiểu này chắc hồi đau bụng đẻ, bả chưởi ông chồng bả nát nước tưng bừng nổ phòng sanh luôn.
Cứ như vậy suốt 15 phút, lát nói, lát thì than đau cho tới khi cậu bác sĩ "đả thông kinh mạch" xong cho bà ta ra ngòai. Trong lúc chờ bà ta mở xách tay lấy giấy tờ ra tính sổ thì cậu bác sĩ hướng về phía tôi nói:
- Rồi tới bác, mời bác vô phòng thứ hai cho con đi bác.
Tôi buông tờ báo xuống đi vào trong. Vừa vô tới phòng trong thì nghe bên ngòai bà ta kêu lên:
- Chết cha, cô bỏ quên thẻ bảo hiểm sức khỏe ở nhà rồi, thôi cho cô thiếu, chút chiều cô đem ra tính sau nha.
Cậu bác sĩ lịch sự nói:
- Không sao đâu, ngày mai cũng được cô à.
Và cậu ta chạy vội vào trong, vừa chạy vừa hát nghêu ngao “dodo… dodo”…, đã nói là cậu bác sĩ này rất vui tính mà.
Vừa vào trong cậu ta “mở máy” ngay:
- Trời ơi! con sợ cái bà này thì thôi! Nổ sao mà nổ quá trời hổng chừa chỗ cho ai hết. Lần này là lần thứ ba bả tới đây đó. Bả nói con cái, dâu rể gì của bả cũng làm specialist hết á.
- Mà chuyên khoa về bệnh gì chớ?
- Con cũng không biết nữa, bả nói bả có tới mấy căn nhà, ăn ở không đi du lịch tùm lum. Hồi nãy bả khoe mới cancel đi Nhựt vì ông xã bả phải đi mổ lỗ tai thình lình. Trể chuyến đi Nhựt, bả quay qua book đi Âu châu, công nhận bà này sướng thiệt.
- Nghe rồi, bả oang óac như cái đài phát thanh, ngồi kế bên bả muốn điếc con ráy luôn. Mỗi người một số cậu ơi! Trời cho ai nấy hưởng, tới hồi bị lấy lại thì cũng hết đường đỡ. Cũng tội nghiệp!
Sau khi nhận tiền mạch của tôi, cậu bác sĩ nhắc tôi lấy tờ báo đem về. Tôi nói:
- Cậu không nhắc chắc tôi quên, cũng hổng sao, quên thì để đây cho người khác đọc.
Và tôi bước lại chiếc bàn con để sách báo định lấy lại tờ báo của mình đem theo lúc nãy thì không thấy tờ báo đâu cả. Tôi nói:
- Đâu mất rồi cậu ơi!
- Hổng có hả bác, vậy là bà “nổ” bả lấy rồi chớ gì. Nãy giờ đâu có ai vô đây ngòai bả và bác. Kỳ vậy nè, ý trời ơi! tờ Việt Luận của con mới mua hồi sáng này trước khi tới mở cửa phòng mạch cũng bị bả cũng “dzớt” luôn rồi. Hết nói nổi! có 2 đồng bạc một tờ báo mà cũng chôm của người ta nữa. Muốn coi thì đi mua đi.
Tới đây thì cậu bác sĩ vui tính này không cười nổi nữa. Cậu lắc đầu ngao ngán phát biểu:
- Người Việt mình thiệt tình đi tới đâu cũng để tiếng xấu tới đó. Bởi vậy con phải mua nhà ở thiệt xa, nơi chỉ có dân Úc rặt mà thôi dù mỗi ngày phải lái xe mất hai tiếng đồng hồ để tới chỗ làm. Dân tình gì mà chán thiệt. Nổ cho dữ ai dè!...
VÌ SAO THANH NIÊN VIỆT NAM KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN CHÍNH TRỊ?
Hòa Ái, RFA (thực hiện từ Việt Nam)
Việt Nam được xếp hạng 152/183 quốc gia về thanh niên tham gia vào đời sống chính trị, theo Báo cáo đánh gia chỉ số phát triển thanh niên toàn cầu năm 2017. Vì sao thanh niên Việt Nam không quan tâm đến lãnh vực này và họ mong muốn gì để được phát triển trong xu hướng chung của thế giới?
* Mơ hồ, không quan tâm
“Chính trị à? Kiểu của Nhà nước… thì liên quan đến Nhà nước thôi.”
“Em không hiểu lắm về chính trị đâu ạ!”
“Ở nơi em sinh sống, thực tế thì ngay cả tên Chủ tịch nước hay tên Thủ tướng họ còn không biết. Tại quê Long An của em, mà hỏi họ về Formosa thì họ cũng không biết, không quan tâm luôn. Bản thân em nhận thức được nhờ vào tìm hiểu và đọc tin, chứ ngày trước cũng không biết gì hết.”
Trên đây là một vài chia sẻ của các bạn thanh niên tại Việt Nam về đời sống sinh hoạt chính trị ở trong nước, cho thấy phần nào phản ảnh Báo cáo đánh giá chỉ số phát triển thanh niên năm 2017 (Global Youth Development Index), là báo cáo mới nhất về sự phát triển thanh niên toàn cầu do Ban thư ký Thịnh vượng chung thực hiện và công bố.
Báo cáo này đo lường sự tiến bộ của phát triển thanh niên trong 5 lãnh vực quan trọng trong đời sống; bao gồm Giáo dục, Sức khỏe và Hạnh phúc, Việc làm và Cơ hội, Sự tham gia đời sống Chính trị, Sự tham gia đời sống Công dân. Việt Nam được xếp hạng 152/183 quốc gia về sự tham gia của thanh niên vào đời sống chính trị. Trong 4 lãnh vực còn lại, Việt Nam đều được xếp hạng trên thứ 100 trong số 183 quốc gia.
Qua tiếp xúc với thanh niên tại Việt Nam, đa số cho biết khái niệm chính trị là điều gì đó liên hệ đến học thuyết Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây là những điều họ được học trong hệ thống giáo dục. Và khi được nghe đến sinh hoạt chính trị hay đời sống chính trị thì họ liên tưởng chỉ có cấp lãnh đạo, quản lý nhà nước mới liên quan lãnh vực này.
Đài RFA cũng liên lạc và trao đổi với những bạn thanh niên là đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam vì chúng tôi cho rằng họ là những người trực tiếp tham gia vào đời sống chính trị, và chúng tôi được cho biết qua sinh hoạt tại các chi bộ Đảng ở cơ quan, hay ở công ty quốc doanh thì họ tiếp cận những chủ trương, định hướng về chính trị-xã hội do từ trên đưa xuống. Một đảng viên nói với RFA:
“Văn bản của Đảng cấp trên gửi về thì đọc cho tất cả đảng viên nghe để biết. Còn để bàn luận nội dung trong cuộc họp chi bộ thì chủ yếu là tình hình hoạt động của tại đơn vị mình. Chỗ em là một cơ sở nhỏ thì thông báo về tình hình kinh tế-chính-trị xã hội của địa phương trong tỉnh. Thường họp chi bộ Đảng thì chỉ bàn về chuyên môn công việc mình làm thôi.”
Nữ đảng viên này cho biết thêm, các đảng viên phải chấp hành theo những thông báo từ trung ương và họ không không thể thảo luận hay đóng góp ý kiến về các vấn đề chính trị tại cấp cơ sở.
* Bị nhiều cản trở
Trong khi không ít thanh niên tỏ ra bàng quan đối với tình hình chính trị tại Việt Nam, những bạn trẻ nhờ vào theo dõi, cập nhật thông tin qua báo đài và qua truyền thông mạng xã hội, nhiều bạn dần nhận thức được chính trị gắn liền với đời sống kinh tế-xã hội như là giá cả hàng hóa leo thang, thuế má gia tăng, các nhà máy công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sống, thực phẩm bẩn tràn lan, những dự án BOT quá nhiều bất cập hay nhân viên các cơ quan nhà nước lạm quyền…
Những bạn trẻ này khi nhận thấy thông tin liên quan các vấn đề vừa nêu, thì các bạn nghĩ rằng họ phải có trách nhiệm chia sẻ những thông tin đó để nhiều người hơn nữa biết đến nhằm góp phần chung sức cải thiện những tiêu cực để xã hội được thay đổi tốt hơn. Thế nhưng, việc làm của các bạn gặp phải sự cản trở từ chính quyền.
Bạn Võ Phương Thuận, một nữ thanh niên thế hệ 8X thường xuyên chia sẻ thông tin mà bạn đọc và xem được trên báo chí, truyền thông chính thống của nhà nước lên tài khỏan Facebook của mình đã bị An ninh và Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh Long An mời làm việc 8 lần. Bạn kể lại với RFA về nội dung các buổi làm việc:
“Họ nói mình lo làm ăn buôn bán, bớt quan tâm các vấn đề này chút xíu, và kêu em chuyển qua chia sẻ thông tin về làm từ thiện. Nói chung, họ yêu cầu như vậy. Nhưng em nói là những điều tốt thì tốt rồi, nên em chỉ muốn nói về những điều xấu còn tồn tại để sửa đổi được tốt hơn thôi. Em trả lời họ như thế.”
Không những vậy, Đài Á Châu Tự Do ghi nhận trong những năm vừa qua, ngày càng có nhiều thanh niên bị bắt bớ, cầm tù với các bản án nặng nề khi họ cất lên tiếng nói phản biện ôn hòa về hiện tình quốc gia như Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Văn Hóa, Phan Kim Khánh, Trần Hoàng Phúc, Hoàng Đức Bình, Mẹ Nấm-Nguyễn Ngọc Như Quỳnh... Hay một trường hợp mới nhất, có thể kể đến là nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang bị câu lưu và thẩm vấn về quyển sách “Chính Trị Bình dân” của cô được xuất bản và lưu hành hồi năm ngoái.
* Mong muốn gì?
Báo Thanh Niên trong nước dẫn lời của Tiến sĩ Hoàng Xuân Châu, Trưởng Nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Thanh niên đưa ra nhận định của ông tại Hội thảo về Luật Thanh Niên sửa đổi, do Ủy ban Quốc gia về Thanh niên và Trung ương Đoàn tổ chức vào chiều vào ngày 28 tháng 3 rằng sự tham gia của thanh niên Việt Nam vào đời sống chính trị vẫn còn hạn chế.
Đồng quan điểm với Tiến sĩ Hoàng Xuân Châu, anh Hùynh Chí Trung, một cựu đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định Luật Thanh Niên ra đời hồi năm 2005, có những quy định liên quan đến đời sống chính trị của thanh niên nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại. Người cựu đảng viên này nêu lên ví dụ, Luật Thanh Niên quy định về lực lượng thanh niên là thanh phần xung kích trong an ninh quốc gia. Tuy nhiên, anh và các bạn trẻ đi thắp hương tưởng niệm 64 chiến sĩ hy sinh trong trận Gạc Ma lại bị cản trở, hay:
“Tôi muốn nói một điều nữa là Khoản 3, Điều 12, Chương 2 trong Luật Thanh Niên đề cập đến bảo vệ môi trường. Tôi nói rõ ràng Formosa là họ hủy hoại môi trường Việt Nam, nhưng các trường đại học ở Việt Nam ra văn bản cấm sinh viên đi biểu tình, cấm thanh niên bày tỏ nguyện vọng chính đáng hợp pháp của họ, nếu sinh viên đi biểu tình sẽ bị đuổi học. Trong Hiến pháp 2013, Điều 25 quy định công dân được phép lập hội, được phép biểu tình, nhưng thực tế không xảy ra như vậy.”
Tiến sĩ Hoàng Xuân Châu và Nhóm nghiên cứu của Viện Thanh Niên, tại buổi Hội thảo về Luật Thanh Niên sửa đổi, đưa ra đề xuất mục tiêu hàng đầu của Bộ luật này cần phải được tiếp cận theo hướng phát triển thanh niên cùng với xu thế chung toàn cầu. Còn nguyện vọng của thanh niên về Luật Thanh Niên sửa đổi sẽ như thế nào? Các bạn bày tỏ với RFA:
“Em nghĩ Nhà nước nên hỗ trợ cho sinh viên những cơ hội để được tiếp xúc, học hỏi và giao lưu với tri thức toàn cầu.”
“Theo em thì hỗ trợ về pháp luật, như những thông tin pháp luật cần thiết để người ta có trang bị đầy đủ giúp thanh niên có thể bảo vệ quyền lợi cá nhân của họ khi hòa nhập vào đời sống xã hội và có thể hỗ trợ thêm trong tư vấn, định hướng tương lai.”
“Theo tôi nếu có ra Luật Sửa đổi Thanh Niên thì điều cốt yếu nhất là thanh niên phải được tiếp cận thông tin một cách trung thực, khách quan, không được bóp méo, không được che đậy, không được định hướng. Thanh niên là sức mạnh quốc gia, từ đó thì thanh niên mới đóng góp sức mình cho quốc gia được.”
Đài Á Châu Tự Do RFA cũng được nghe một số bạn trẻ nói rằng họ không hề biết có sự tồn tại của đạo luật về thanh niên ở Việt Nam, nên đạo luật này sửa đổi ra sao thì đã có “Đảng và Nhà nước lo”.
Văn hóa là sản phẩm của Con Người, xuất phát từ tình cảm trí tuệ hành xử của mỗi người, được thể hiện ra nơi tâm linh đạo đức, suy tư viễn kiến, khả năng sáng tạo và hành vi ứng xử của mình đối với chính bản thân, tha nhân, tập thể, vạn hữu và thiên nhiên. Một khi những việc làm sáng đẹp, lành mạnh, chân chính, hướng thượng đó, đã tạo được ảnh hưởng qua lại giữa người và người, sẽ bổ sung cho nhau, đồng thời phân hóa đãi lọc với nhau, rồi điều hợp lại, kết tinh thành mẫu số chung về tinh thần và luân lý của các tập thể cùng sinh sống ở một môi trường nhất định, thì đương nhiên trở nên nếp sống, cách sống, lối sống, cảnh sống, cuộc sống và tạo ra phương tiện sống của một tập thể có văn hóa. Từ đó loài người mới thoát khỏi cảnh sinh hoạt Mặc Thức Nhân Nhiên của động vật trạng thái, để bước vào tiến trình thăng hóa của lịch sử các dân tộc và nhân loại, mở ra thời đại Ý Thức Nhân Loại của các Dân Tộc tự chủ, và sẽ đi tới thời đại Nhận Thức Nhân Văn toàn cầu hóa.
Do vậy, văn hóa là nội dung của Xã Hội Loài Người, là hướng vươn lên của cuộc thăng hóa lịch sử nhân loại và góp phần trong cuộc đại thăng hóa của vũ trụ. Vì văn hóa là công trình sáng tạo của Con Người, đã ảnh hưởng trở lại với các Văn Hóa Nhân để tạo ra các công năng bảo lưu, dung hóa, rồi thể hiện ra các sinh hoạt có văn hóa tính trong mọi lãnh vực: Xã hội, kinh tế, dịch vụ, chính trị, cai trị, luật pháp, văn học, nghệ thuật, khoa học và khắp mặt nhân sinh, làm thành một Nền Văn Minh của từng Quốc Gia. Các nền văn minh cá biệt đó là nội dung tinh thần của mỗi nước, nội dung cuộc thăng hóa của lịch sử các dân tộc, kết thành truyền thống Văn Hóa Dân Tộc. Bởi thế, khi nói tới Văn Hóa Thế Giới là phải nói tới cội nguồn của các luồng văn hóa ấy, đó là Văn Hóa Dân Tộc.
Chính các luồng Văn Hóa Dân Tộc hội tụ lại, đã làm cho nền Văn Hóa Toàn Cầu thành phong phú muôn mầu, muôn vẻ rực rỡ và luôn luôn thăng hóa không cùng. Đây cũng là lý do mà các nền Văn Hóa Dân Tộc nào đã chủ động mở rộng tiếp thu, rồi dung hóa nổi với các luồng văn hóa văn minh của các dân tộc khác, mà vẫn giữ được bản chất văn hóa dân tộc mình, đều trở thành những trung tâm văn hóa của các thời đại. Ngược lại rất có thể bị đồng hóa, hoặc bị quên lãng. Hiện nay, Hoa Kỳ nghiễm nhiên trở thành Trung Tâm Văn Hóa Thế Giới Thời Đại. Vì Hoa Kỳ là một quốc gia vốn có bản chất Đa Chủng Tộc, Đa Văn Hóa. Nên Hoa Kỳ hoàn toàn tự do thoải mái không bị quá khứ cản trở, để đón nhận các luồng văn hóa, văn minh của khắp các dân tộc khác đổ vào, làm phong phú thêm cho Văn Hóa Mỹ. Trước kia Việt Nam cũng là một Dân Tộc đã từng viên dung được hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, với ba luồng Đạo Học: Phật, Lão, Khổng, hầu như trái ngược nhau. Đạo Khổng chủ trương Lý Giới Hữu Vi Nhập Thế. Đạo Lão chủ trương Duy Nhiên Vô Vi Xuất Thế. Đạo Phật chủ trương Nhân Chủ Siêu Vi Giải Thoát, khi vào Việt Nam đều được nền Văn Hóa Nhân Chủ cổ truyền của Việt Tộc kiên trì hàng ngàn năm để dung hóa trọn vẹn, thành một nền Văn Hiến Tổng Hợp Toàn Diện: Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp, đại diện cho nền Văn Minh Thảo Mộc Đông Phương vào thời Lý Trần, từ năm 1010 đến năm1400
Sự xuất hiện của giống Người trên hành tinh xanh này là một nhân duyên siêu tuyệt, mà cuộc đại thăng hóa của trời đất đã đạt được. Nguồn Năng Lực Siêu Thể Vi Diệu Hằng Hóa Thăng Hóa Vô Biên Vô Hạn của Vũ Trụ, không sắc, không hương, không đo lường được, nhưng luôn luôn tác động duyên khởi, duyên sinh cho cuộc đại sinh hóa của nhân loại và vạn hữu; cũng luôn luôn rộng mở để đón nhận sự hội nhập các nguồn năng lực thăng hóa của nhân loại, vạn hữu. Chính vì thế, mà Nguồn Năng Lực Siêu Thể Vi Diệu cội nguồn bình đẳng của trời đất đã được thăng hóa để hoàn thiện nên một giống Người có nguồn Tâm Linh Siêu Thức Vũ Trụ tiềm tàng nơi tâm thân. Khi các Ông Bà tổ của giống Người, vươn vai đứng thẳng dậy, dưới ánh sáng mặt trời, bước đi vững chắc trên mặt đất, giải phóng cho đôi tay, với mười ngón linh hoạt, với cái đầu ngẩng cao, cùng một bộ óc biết nghĩ ngợi đơn sơ, với năm giác quan bén nhạy, biết xử dụng được những dụng cụ trợ thủ ngoại thân…là lúc giống Người tự xác định vị thế ưu việt của mình đối với muôn loài muôn vật trên hành tinh này. Tuy đã xác định được vị thế siêu đẳng đó, nhưng Loài Người cũng phải mất hàng triệu năm phấn đấu mới trở thành Con Người toàn diện.
Dù có sẵn nền tảng Tâm Linh Siêu Thức của Nguồn Năng Lực Siêu Thể Vi diệu Hằng Hóa Thăng Hóa Vũ Trụ trong người, nhưng phải chờ tới khi các Ông Tổ, Bà Tổ trưởng thành về sinh lý, rồi do bản năng, cảm tính sinh tồn và phát triển dòng giống thúc đẩy, họ mới tìm tới nhau, Nam Nữ hòa duyên làm công việc thay tự nhiên, phối hợp truyền giống tạo thành con cái. Con cái là kết tính của huyết thống Cha Mẹ, mang một dấu ấn Tâm Linh Di Thức Huyết Thống, ghi rõ trong bản đồ DNA của từng người, tạo ra những dòng họ riêng. Kể từ đó, trong mỗi người con, do cha mẹ sinh ra, ngoài nguồn Tâm Linh Siêu Thức Vũ Trụ, Tâm Thức mỗi người còn có thêm nguồn Tâm Linh Di Thức Huyết Thống. Nhưng phải chờ tới nguồn Tâm Linh Thế Thức Nhân Loại đóng góp thêm vào cho Tâm Thức mỗi người thì Nền Tâm Thức ấy mới thành toàn diện; Gồm 3 nguồn: Siêu Thức + Di Thức + Thế Thức, đủ sức tự do, tự chủ, sáng tạo, nâng cao trí tuệ, phát triển tình thương đối với chính mình, với mọi người, mọi loài, mọi vật trong trời đất. Do phạm vi nhân quần xã hội nở rộng, nên kinh nghiệm sống và kiến thức nhân sinh phong phú thêm lên, đóng góp cho Nguồn Thế Thức của mỗi người lớn mạnh . Kinh nghiệm và kiến thức nhân quần xã hội đã giúp cho Con Người có được Nguồn Tâm Linh Thế Thức, giúp cho Nhân Loại vượt thoát khỏi thời kỳ sinh hoạt Mặc Thức Nhân Nhiên tiến vào thời đại Ý Thức Nhân Loại.
Thời đại Ý thức Nhân Loại phát triển sôi động rầm rộ nhất là thời các dân tộc nông nghiệp, định canh, định cư lập quốc. Tất cả những kinh nghiệm, suy nghĩ, kiến thức của nhân loại từ thời Mặc Thức Nhân Nhiên, qua những giai đoạn của các tập thể Thị Tộc nhặt hái và Bộ Lạc săn câu trong rừng suối ở khắp nơi trên mặt đất, rồi tiến tới giai đoạn chăn nuôi thú hiền nơi bình nguyên, đều được loài người truyền cho nhau và con cháu, qua cử chỉ, lời nói và mọi phương tiện biểu tỏ khác đã lưu lại trong Nguồn Thế Thức Nhân Loại. Quan trọng hơn nữa, qua sự hình thành thai nhi, thì Nguồn Thế Thức Nhân Loại nơi Cha Mẹ đã truyền thẳng vào Nguồn Di Thức Huyết Thống của từng người, hòa quyện với Nguồn Siêu Thức Vũ Trụ nơi mỗi người, và trong khi sinh trưởng Con Người còn được Nguồn Thế Thức đương thời, do sự yêu thương chỉ bảo dậy dỗ cho nên người của cha mẹ, họ hàng và đại chúng. Tất cả đều được thể hiện ra trong cuộc sống từng người từ tầm bé đến khôn lớn. Rồi được ý thức đại chúng cùng đòng góp, tạo thành nền tảng cho Văn Hóa Dân Tộc. Bởi thế, nên mọi sinh hoạt của Quốc Gia mới có Văn Hóa Tính, tác động mạnh tới lãnh vực tư tưởng, suy tư, sáng kiến, sáng tạo của Con Người, sản xuất ra các phương tiện phục vụ cuộc sống toàn diện cho Con Người của những Quốc Gia Nông Nghiệp mỗi ngày một mới và tinh xảo hơn
THANH QUANG, RFA 27.402009
Thảm cảnh trên Biển Đông có lẽ khó – nếu không muốn nói là không bao giờ - nhạt nhoà trong ký ức của thuyền nhân Việt Nam, khi những chiếc thuyền mong manh đưa họ vượt trùng dương tìm đến bến bờ tự do sau biến cố 30 Tháng Tư 1975 hầu như là thường xuyên gặp nạn.
Mỗi năm cứ mỗi lần đến thời điểm 30 Tháng Tư là người Việt tị nạn tại hải ngọai không khỏi bùi ngùi nhớ lại thân nhân, bạn bè hay chính mình đã trải qua những chuyến vượt biển thập tử nhất sinh.
*Thảm cảnh trên Biển Đông
Ngoài khỏang một triệu người may mắn đến được những nơi muốn đến, thì cũng chừng ấy số người đã vĩnh viễn ở lại dưới lòng biển cả. Riêng với những thuyền nhân sống sót, thì không ít người gặp phải thảm cảnh ở biển khơi, tiêu biểu nhất là bị bão, hải tặc hay tàu chết máy.
Chẳng hạn như, chị Nguyễn Thị Hoa Hương, hiện đang định cư tại Hoa Kỳ, đã ra sức tìm đến bến bờ tự do hồi năm 1989 và gặp nạn, như chị mô tả:
"Mình không có chỗ nằm, mình chỉ ngồi mà co hai chân lại, ngồi đủ chỗ thôi. Lâu lâu mình duỗi được cái chân thôi chứ không có được nằm. Đó là một kỷ niệm mà em không bao giờ quên khi mà tàu đi 7 ngày trên Thái Bình Dương thì đã bị bão biển rất là lớn và đã đánh tan chiếc tàu ra, chỉ còn lại thân chiếc tàu, còn đầu tàu và đuôi tàu thì bị đứt ra.
Trong cơn nguy cập đó thì người ta đã chuyển tất cả mọi người vô giữa thân của con tàu. Lúc bấy giờ sự chết kể như 90% rồi, tại vì bão kéo dài mấy ngày trời liên tục. Con tàu không còn bộ phận lái gì hết, tự con tàu trôi đi thôi. Trong mấy ngày như vậy thì lương thực hết rồi, mọi người bắt đầu nhịn đói, chỉ có những giọt nước để dành lại và mọi người chia nhau ra để mà uống.
Có những tiếng la khóc bởi vì sự chết đã đột tới (khóc). Bắt đầu có những người bị kiệt sức quá mà bắt đầu xỉu, trong đó cũng có em mê man không biết gì hết, chỉ nhớ là những người xung quanh đọc kinh cầu xin nhận cho nếu mà có bị chết thì xin cho linh hồn được siêu thoát một cách nhẹ nhàng.
Trong lúc trôi như vậy thì một sự may mắn đến với tất cả những con người trên tàu đó là được tàu của Hạm Đội VII Mỹ đang tập trận ở Thái Bình Dương cứu vớt. Khi cứu lên sàn tàu thì các phụ nữ và trẻ em đều vô phòng cấp cứu bởi vì đã bị kiệt sức quá rồi, không còn sự sống.
Một kỷ niệm mà nếu những ai đi con tàu đó thì chắc không bao giờ quên là các người Mỹ họ đã săn sóc, họ điều trị những người chết đi sống lại, cho phục hồi sức khoẻ rồi mới bắt đầu đưa vô Thái Lan. Trại đó là trại Banatnikhon. Em ở đó là gần 9 năm."
*Tàn ác & Kinh hoàng
Một thảm cảnh khác trên Biển Đông có liên quan đến chị Lê Thị Sen, hiện cũng đang ở Mỹ. Tàu chị Sen gặp cướp biển như chị cho biết :
"Trên đường vượt biển thì gặp cướp biển. Ở trên tàu nó thả canô xuống qua tàu mình. Mấy người đàn bà con gái bị họ hãm hiếp và họ định đập cho tàu mình chìm nữa. Tiền bạc vòng vàng ai mà có đều nộp cho họ hết. Khi bị cướp xong chạy được một hồi thì tới dàn khoan của Mã Lai. Dàn khoan nó mới kéo tàu vô. Nếu mà không gặp dàn khoan đó thì chắc chìm chết rồi vì tối hôm đó sóng gió quá chừng, mà tàu thì cũng nhỏ nữa, giống như mấy chiếc thuyền đánh cá, mà ở dưới tàu là 126 người nằm sát nhau. Có nhiều đứa bé nó ói quá con mắt trắng dờ tưởng như nó chết rồi."
Ngược dòng thời gian hơn nữa, hồi năm 1979, bà Kim Liên, hiện định cư tại Bỉ, đã từ Vũng Tàu vượt trùng dương đến Indonesia. Nhưng thảm cảnh Biển Đông cũng không dung tha gia đình nữ thuyền nhân ấy:
“Trên đường biển cả trời mưa dông gió, đã vào nhiều đảo nhưng họ không nhận, gặp nhiều tàu cầu cứu không vớt. Cuộc hành trình lênh đênh trên biển cả đã 13 ngày, chúng tôi gặp một chiếc tàu đậu ở biển khơi mà chúng tôi cứ nghĩ đấy là một hòn đảo.
Lúc đêm thì mình thấy như vậy, đến 8 giờ sáng thì trông nó lù lù ra là một cái tàu, thì ra cái tàu dầu nó đậu ở đó, ở biển khơi đó. Chúng tôi cố chạy vào cầu cứu, họ chẳng vớt, và thuyền trưởng ra lệnh cho thợ máy nhổ neo chạy. Vì chiếc tàu nó lớn, chân vịt nó quay, nước xoáy quá mạnh và nó lôi kéo tàu chúng tôi vào chân vịt. Cánh quạt chém tàu tôi hai phát, úp lật con tàu. Mọi người tung xuống biển vì tàu bị bể ra rồi.
Lúc đó nó chổng lên, mới chìm phân nửa, còn nổi phân nửa. Người nào biết bơi thì bơi vào trong chiếc tàu vì nó chưa chìm hết thì họ cũng bám vào đấy. Người nào khoẻ thì đi cứu những người không biết bơi, lôi kéo nhau vào đó, bám chung quanh.
Tàu làm cho chúng tôi bị chìm nó bỏ đi nửa tiếng gì đó. Tàu này của nước Libya. Tôi thấy nó thả 2 cái bo-bo xuống, nó đi vớt chúng tôi. Khi nó vớt thì cũng đã chết hết 11 người rồi. 68 người chết hết 11 người, nhưng mà vớt được 3 người, nước cuốn đi 8 người trôi đâu mất rồi, trong đó có con gái tôi."
*Hết đường chọn lựa
Và một cảnh vô cùng đau xót và kinh hoàng đã xảy đến cho một chiếc tàu phát xuất từ Saigòn hồi năm 1978 chở theo hơn 100 người, khi chỉ có 43 người đến được bến bờ. Chị Kim Chi kể lại câu chuyện thương tâm này:
Chị Kim Chi: Tại lúc đó đói quá thì có người trước chết họ mới nói là tại sao không ăn thịt người để sống. Thì người đó chết và người đó là người bị ăn đầu tiên để nuôi vợ và con họ được sống sót. Thì ý tưởng đó bắt đầu từ lúc đó, sau đó thì những người khác họ thấy như vậy họ mới bắt đầu thôi.
Thanh Quang : Thưa chị, xin lỗi chị. Chị ở trong chuyến tàu đó, phải không?
Chị Kim Chi : Dạ.
Thanh Quang : Thưa, như vậy chị có ăn thịt người không, do hoàn cảnh bắt buộc ?
Chị Kim Chi : Có chớ.
Thanh Quang : Cái cảm giác của chị lúc đó như thế nào ?
Chị Kim Chi : Nói đúng ra thì cũng ghê chứ. Tại vì nói chung là trong lúc người ta đói quá thì hình như là người ta không còn lý trí nữa nhiều để mà suy xét nữa.
Khi nó vớt thì cũng đã chết hết 11 người rồi. 68 người chết hết 11 người, nhưng mà vớt được 3 người, nước cuốn đi 8 người trôi đâu mất rồi, trong đó có con gái tôi.
Thanh Quang : Dạ. Như vậy là đi bao lâu ngày mà rồi gặp nạn như vậy, thưa chị ? Tàu đó có mấy người ?
Chị Kim Chi : Tàu đi cũng đông lắm, anh. 143 người tất cả nhưng mà chỉ còn sống sót 34 người.
Thanh Quang : Tàu phát xuất từ đâu, thưa chị ?
Chị Kim Chi : Dạ, từ Sài Gòn.
Thanh Quang : Đi bao lâu ?
Chị Kim Chi : Đi khoảng 65 ngày.
Thanh Quang : Lâu như vậy bởi lý do ra sao, thưa chị ?
Chị Kim Chi : Lúc đó còn bé thì cũng không nhớ rõ nữa, nhưng nếu không lầm thì chân vịt tàu bị quấn lưới, bị gãy, không nhúc nhích được nữa nên tàu cứ lênh đênh thôi, thì nó cứ lênh đênh trên biển vậy đó.
Thanh Quang : Dạ.
Chị Kim Chi : Rồi cho tới ngày nó mắc cạn tấp vô đảo. Không phải là cái đảo, nó thuộc dạng đảo ngầm của Đài Loan. Cái đảo đó nằm giữa biển, khi nước biển dâng lên thì như là cái biển vậy thôi tức cái niveau của nó bằng mặt nước biển, nhưng khi nó tụt xuống thì xung quanh mình là biển thì tàu mình bị tụt xuống nhưng mà nước vẫn còn khoảng tới đầu gối, tức là cạn nhất vẫn tới đầu gối. Nói là cái đảo thì cũng không hẳn nhưng mà nó là cái đảo, đảo giữa lòng biển.
Thanh Quang : Dạ rồi tất cả thuyền nhân một trăm mấy chục người ở trên tàu đó rồi dần dà cạn lương thực, cạn thức ăn và thức uống, có phải không ạ?
Chị Kim Chi : Thì nói chung là vậy. Tại vì tàu đi đâu có dự định đi tới mấy chục ngày như vậy, thì họ mới không đủ thức ăn rồi mới bắt đầu đói khát này kia rồi mới sanh ra cái đó. Nói chung, người đầu tiên là ông cậu của mình.
Ngày xưa ổng là một nhà giáo nhưng khi ổng nhìn thấy con ổng đói rồi vợ ổng đói như vậy đó, lúc đó ổng cũng yếu sức lắm, ổng đói lã rồi, tức là ổng gần chết rồi, ổng mới nói là sau khi ổng chết thì hãy dùng thịt của ổng mà cho con ổng ăn với vợ ổng ăn đi để mà nuôi sống được vợ con ổng. Chính vì như vậy cho nên khi ổng chết rồi thì mới lấy ý tưởng của ổng để mà bắt đầu ăn để nuôi sống mình rồi nuôi sống vợ con ổng luôn chứ không phải một mình vợ con ổng không đâu.
Rồi những người trong tàu, những gia đình khác họ thấy như vậy, lúc đầu thì họ cũng chửi rủa, phản đối dữ lắm, tại vì họ nói tàn nhẫn, vô nhân đạo, thế này thế nọ tùm lum hết. Nhưng mà qua một đêm như vậy, sáng ra thì họ ăn căp hết trơn, tức là người của ổng chỉ còn là bộ xương thôi. Người ta chửi thì vẫn chửi nhưng người ta ăn cắp thì người ta vẫn ăn cắp thịt của ổng để người ta ăn.
Thanh Quang : Ăn sống như vậy ?
Chị Kim Chi : Thì đó là cái ý tưởng đầu tiên của ổng đó.
Thanh Quang : Rồi sau đó những người khác tiếp tục, sắp hấp hối rồi chết đi thì những người sống còn lại cũng lóc thịt họ ăn?
Chị Kim Chi : Thì những người đó, nói chung là gia đình nào thì ăn thân nhân gia đình đó. Không phải là mình được ăn tùm lum đâu, tại vì không phải là ai cũng ăn được đâu. Đa số những người mà họ chết trong gia đình thì họ mới được quyền dành xác đó mà ăn thôi chớ không phải mạnh ai mà nấy ăn đâu. Hổng phải người ta chết mà mình đè ra mà ăn đâu.
Thanh Quang : Thế thì những người trong gia đình không có người chết đói thì làm sao họ sống ?
Chị Kim Chi : Thì họ xin. Có nhiều phương pháp lắm: xin, ăn cắp. Tại vì xác chết đâu phải như miếng đồ ăn mà cất vô tủ mà xác chết chỉ nằm ở đó, sau một đêm nhiều khi mình ngủ dậy thì họ ăn cắp hết rồi.
Thanh Quang : Thưa chị, lúc lóc thịt đó như vậy thì họ có nấu nướng gì không ?
Chị Kim Chi : Lúc đó họ bắt dầu nạy gỗ tàu lên làm củi nấu chứ.
Thanh Quang : Dạ.
Chị Kim Chi : Những sàn gỗ của thân tàu thì họ bắt đầu dùng cái đó để nấu nướng, nhưng mà riết rồi cũng không còn nữa, tại vì nếu mà họ cứ nấu thì không còn chỗ nằm, với lại một phần nữa là thời gian hình như cuối cùng nếu không lầm thì giống như sống đánh cũng nhiều thành ra mất lửa. Không có lửa nên trong một khoảng thời gian có người họ ăn sống.
Thanh Quang : Dạ.
Chị Kim Chi : Rồi sau đó có tàu đến cứu kịp. Nói chung tình trạng đó kéo dài khoảng mười mấy ngày như vậy thì về sau có tàu đến rước mới thôi.
Thanh Quang : Khi có tàu đến rước thì số người trên tàu còn 34 người như chị nói hồi nãy, phải không?
Chị Kim Chi : Không. Không. Lúc đó còn 64 người, nhưng mà tại vì xui là gặp tàu đánh cá Đài Loan nó thuộc dân tham lam, tức là khi nó gặp người còn sống thì nó rước nhưng với điều kiện là nó bắt phải nộp tiền cho nó. Một đầu người là 7 chỉ vàng thì nó mới rước.
Mọi người đồng ý đóng tiền cho nó. Đến lúc đóng xong thì nó mới nảy ra lòng tham. Hầu như nó cảm thấy người Việt mình giàu, có tiền, nên nó mới nảy ra ý định thay vì trên con đường về từ cái đảo chìm này cho tới đất liền là khoảng 3 ngày thôi nhưng nó kéo dài ra tới 17 ngày bằng cách là nó cho tiếng máy tàu chạy giống như mình tưởng là tàu đang chạy mà thực sự tàu đứng tại chỗ.
Trong vòng 17 ngày như vậy người ta bắt đầu đói rồi người ta chết từ từ. Nó cũng không cho ăn. Nó tàn nhẫn lắm tại vì nó nghĩ là mình có tiền, thành ra những ai muốn ăn thì phải trả tiền cho nó. Nó cũng có một bữa cơm chính thức, tức là bữa đó nó cho ăn cháo. Ăn cháo nhưng mà cháo trắng thôi, không có muối, không có thịt, không có nước mắm, không có gì hết.
Nhưng mà nếu ai muốn thêm một cái gì thì phải bỏ tiền ra, thành ra nó kiếm tiền qua cái lợi nhuận đó. Rồi đến lúc nó cảm thấy người ta kiệt quệ không còn tiền và cũng không còn sức nữa, hầu như nó cũng không quết định cho mình về đất liền, tại vì lúc đó có thể nó tính ém luôn chuyện đó, nó cho người ta chết từ từ để nó khỏi đưa về.
Nhưng mà xui hôm đó tàu bị nổ tại vì gas bị xì làm nổ cả tàu và tàu bốc cháy thì cũng làm cháy nhiều người lắm. Họ bị phỏng nặng và lúc đó tàu bị chìm xuống, nước vô. Tất cả tai nạn đó xảy ra cũng một lúc trong vòng tích tắc, tức là vừa bị cháy vừa bị chìm, thế là ông thuyền trưởng sợ quá nên lúc đó ổng mới đánh điện về trong đất liền để xin viện trợ hay là xin đưa người vô mà mình không hiểu nữa. Thì lúc đó Đài Loan mới chấp nhận cho vô đất liền.
Trong tình trạng nửa sống nửa chết nên không có ai tố cáo cũng chẳng có ai thưa kiện, tất cả nằm trong bệnh viện hết. Được vô nằm trong bệnh viện trong gần 2 tháng trời
Về tới Đài Trung thì cảnh sát ra, rồi xe cứu hoả, xe cứu thương ra tùm lum hết. Tại vì lúc đó mấy người chết vì bị phỏng nặng quá thì nó mới đêm vô bệnh viện.
Lúc đó cảnh sát mới bắt đầu điều tra và họ nói là khi chủ tàu đánh điện tín gì đó kêu là 64 người mà tại sao bây giờ còn 34 người, thì lúc đó họ mới bắt đầu điều tra ổng, bắt ổng ở tù, tại vì lúc đó họ nghi ngờ. Trong tình trạng nửa sống nửa chết nên không có ai tố cáo cũng chẳng có ai thưa kiện, tất cả nằm trong bệnh viện hết. Được vô nằm trong bệnh viện trong gần 2 tháng trời, lúc ra viện thì mới về trại tị nạn, lúc đó thì phái đoàn Mỹ mới xuống để điều tra.
Vì có tuyên thệ để đi Mỹ nên họ mới bắt đầu điều tra thì họ mới bắt đầu biết, từ cái chi tiết lúc đó mới lòi ra chuyện ăn thịt người.
Thanh Quang : Trên đây là lời kể của chị Kim Chi, hiện định cư tại Vương Quốc Bỉ về hành trình vượt biển tìm tự do đầy rẫy cam go sau biến cô 30/4/1975.
Anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen. Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt, "Ông lại bán xe rồi hay sao mà lại đi tàu lên đây?".
Anh cúi đầu trả lời lý nhí trong sự hổ thẹn, "Ừ, bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm". Chị sầm mặt xuống: "Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không thể ngóc đầu lên được, hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy?" Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều anh muốn nhờ cậy. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối anh, "Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e rằng sẽ chẳng còn được bình yên". Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối, con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được, anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, chỉ nửa năm hay vài ba tháng cũng được, em là phụ nữ, em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian, để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh lại đón nó về". Chị thở dài, "Ông lúc nào cũng mang xui xẻo đến cho tôi, thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã, có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau". Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.
Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Đông Đức. Chị theo học Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây xin tị nạn. Chị tốt nghiệp Đại học và về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.
Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức. Vừa sang Đức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt. Đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán. Chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta. Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu, để có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được. Nên không dám mạo hiểm ra làm ăn. "Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng...", đó là câu nói của miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương. Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nữa năm mới được về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh. Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó. Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ. Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số. Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh. Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn. Anh đồng ý, vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ rằng buộc sẽ làm khổ chị. Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ. Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn. Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới. Thành phố Bremen là 1 thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố. Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống. Chị không phải là người vô tâm, nên thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng con cho anh. Trong những dịp năm mới hay noel, chị cũng có quà riêng cho con bé, nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến trực tiếp tặng quà cho con bé trước ngày lễ giáng sinh nữa. Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ. Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Nhưng chị biết dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà. Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm. Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh. Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng. Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được. Đi học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ của nó, mẹ nó, và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe. Em trai nó học thêm Piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn Piano rất đẹp để ở phòng khách. Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa. Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm "... đàn... klavia... con muốn..." Anh thở dài và hát cho nó nghe. Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần. Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó dở chứng. Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn Piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi Piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn Piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng chị nên chị không quan tâm Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì. Chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: "...Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo...sống với cha êm như làn mây trắng...nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con....với tháng năm nhanh tựa gió..ôi cha già đi cha biết không...". Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó hỏi, con sao vậy hả con yêu của mẹ. Nó ngước nhìn mẹ nó rất trìu mến rồi chìa cho mẹ nó một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi " Con biết bố con bị ung thư lâu chưa?" Nó chìa 4 ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, 4 tháng rồi hả. Nó gật đầu. Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ. Đại ý là nó diễn đạt rằng: -" Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm. Con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con... Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói, con gái ngoan của mẹ, ngày mai nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg... Tôi nghe người ta kể chuyện lại chuyện đó, khi đi dự một cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị. Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài hát "Người Cha Yêu Dấu" bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Đức. Quá kinh ngạc nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng họ đã kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy.
TB.- Bạn có biết bản nhạc Papa kể trong chuyện này không? Tưởng đâu chỉ nổi tiếng ở Pháp và Anh Mỹ, nào ngờ Việt kiều ở Đức cũng thích.
Đã có nhiều thời đại trong lịch sử Việt Nam, chứng minh tư tưởng triết học Phật Giáo thâm uyên, ảnh hưởng sâu xa trong đời sống và tâm hồn Dân Tộc, kể từ khi Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu đầu tiên được hình thành tại Bắc Ninh. Đều đáng xiển dương hơn nữa là Phật Giáo, ngoài quan điểm vô ngã phá chấp, tiếp cận mật thiết với mọi tầng lớp xã hội từ vua quan đến thứ dân, từ bản sắc văn hóa đến khuynh hướng chính trị, Phật Giáo còn cấu tạo nên những ý thức hệ căn bản, phát huy tinh thần Dân Chủ, Nhân Bản và Khai Phóng phù hợp với tâm lý tập quán và đạo lý Nhân Ai truyền thống của Dân Tộc. Các bậc Đại Đức Cao Tăng hòa nhập chia xẻ với sinh mệnh thăng trầm đau thương của Tổ Quốc.
Vì tư tưởng Phật Giáo được đặt trên cơ sở CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU - KHÔNG ở đây không có nghĩa là "Hư Vô Chủ Nghĩa". KHÔNG chính là cái CÓ VI DIỆU. Từ ý nghĩa đó, thể hiện tính chất biện chứng dấn thân tích cực để mang lợi ích cho đời sống con người và cho xã hội. Tận tụy phục vụ và sẵn sàng hy sinh cho quê hương Đất Nước nhưng với tinh thần vô cầu và không vướng mắc vào lợi danh hư huyễn.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thiền Sư Vạn Hạnh)
Đời sống vốn đã vô thường. Thịnh suy như giọt sương trên ngọn cỏ- Chính vì quan niệm siêu thoát như thế. Khi đất nước thanh bình Tự Do Dân Chủ thật sự, các bậc Thiền Sư hoàn tất bổn phận, trở về mái chùa xưa lo trì giới khổ hạnh, tụng kinh niệm Phật, hoằng dương đạo pháp. Sống cuộc đời an nhiên tự tại giữa núi rừng tịch tĩnh, diện bích soi tâm. Vượt tới bến bờ Liễu Ngộ Chân Như, cứu độ nhân thế qua những lộ trình chuyển hóa tâm linh.
Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại, và nhất là trong giới tu sĩ đạo hữu Phật Giáo, tên tuổi Thượng Tọa Thích Quảng Thanh, hay nhà thơ, nhà nghệ sĩ tài hoa đa diện Thanh Trí Cao quả thật không còn xa lạ. Đạo và Đời, thi sĩ - tu sĩ Thanh Trí Cao đã thực sự biểu hiện thiện chí tích cực với tâm lượng bao dung hài hòa chân thật. Lúc nào tâm nguyện của nhà thơ Thanh Trí Cao cũng đem đến cho cuộc đời đầy nhiễu nhương, bi thảm của kiếp người lưu vong nơi đọa đầy viễn mộng, bằng những chia xẻ từ ái như những que diêm bật sáng, cho người lữ khách cô đơn giữa đêm đông lạnh giá, với ý chí kiên trì miệt mài liên tục qua thời gian. Và nhà thơ đã cảm nhận thăng hoa niềm an vui, đem đến cho mọi người cùng khổ là chính tạo cho tâm tác giả sự an lạc thường hằng. Có lẽ từ ý niệm sâu sắc cao quý đó, nhà thơ đã hình thành thi phẩm với nhan đề: "HÁI HOA TUYẾT ĐÔNG", gợi ý cho chúng tôi nhớ đến hai câu thơ thâm thúy-
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Chẩm đắc mai hoa phác tì hương?
(Không qua một tiết đông dài
Làm sao mai nở, mùi hương dạt dào?)
của Hoàng Bách Hy Vân Thiền Sư sáng tác cách đây một ngàn hai trăm năm trước?
Những tương quan giữa con người với vũ trụ, giữa con người với con người phải chăng không mấy dị biệt trong tâm thức sáng tạo xưa và nay?
- Bông hoa tuyết là bông hoa quý phái. Đúng thế, bạn sẽ là người tiếp thị với môi trường nghệ thuật sống để tạo thành huyền thoại đẹp nhất như một dòng thơ siêu thực chảy bất tận trong dòng thời gian của cuộc đời
Mặc dù dành nhiều thời gian cho công việc Phật sự và từ thiện xã hội, thiền giả - thi sĩ vẫn không quên dành cho chính tâm mình những giây phút trầm lắng riêng tư trong sáng tạo nghệ thuật. Làm thơ, vẽ tranh, cắm hoa, chăm sóc cây kiểng- đặc biệt ở lãnh vực thi ca, nhà thơ Thanh Trí Cao chứng tỏ rất đam mê và phong phú. Bằng chứng chỉ trong một thời gian ngắn, nhà thơ Thanh Trí Cao đã liên tục cho xuất bản các thi tập "Trăng Ngủ Trong Mây", "Trên Dòng Tử Sinh", "Hương Vị Chân Tâm" và bây giờ "Hái Hoa Tuyết Đông".
Riêng với toàn bộ nội dung thi tập "Hái Hoa Tuyết Đông", chúng ta có thể khám phá thi nhân muốn khai triển ở hai phạm trù Nhập Thế và Xuất Thế. Đôi khi nhà thơ băn khoăn chính từ mâu thuẫn nội tâm, giữa lịch sử, tâm linh và thực tại:
Bước chân lữ khách nhớ quê
Cánh chim phiêu bạt vỗ về hư không
Bước chân tiếp nối bước chân
Lời ru của Mẹ vết hằn trong tôi
(Bước Chân)
Tâm sự người xưa não nề bi thiết có khác gì với tâm sự người trong một tâm cảnh xa lìa cố quận thân yêu. Cái nỗi lòng viễn xứ xúc cảm lưu đày của Thi Bá Tô Đông Pha đến Thi Sĩ Thanh Trí Cao có gì khác nhau.
Người đứng đó cheo leo chóp đỉnh
Tô Đông Pha khoác áo lên đường
Sao không giống như ngày xưa ấy
Say mê chi Thánh đế phong sương
Tình đạo sĩ đả thông ngữ nghĩa
Không mơ hồ gối mộng phôi pha
Ai để lại dòng thơ hương vị
Nửa cho người, một nửa cho ta.
(Hoa Nở Tàn Đông)
Nhà thơ Thanh Trí Cao đã quán triệt chân lý "Chân Không Diệu Hữu" nên nhà thơ không quản ngại dấn thân vào cuộc đời để san xẻ nỗi đau chung của Dân Tộc:
Vết tích người trong hồn thơ đó
Tôi lắng nghe âm điệu mây ngàn
Từng chiếc lá mảnh mai huyền diệu
Đời dấn thân tình nghĩa cưu mang
Đặc tính của tư tưởng Việt Nam là nâng cao tinh thần nhân ái, bình đẳng nhưng phải trên cơ sở Nhân Chủ Tự Do cho dù phải kiên trì phấn đấu, cho dù đang ở nơi điểm tựa nào trên thế giới. Trong thơ Thanh Trí Cao đã cưu mang nồng thắm lòng yêu mến và tưởng nhớ quê hương:
Trên đỉnh tháp của dòng tư tưởng
Mái chùa cong sắc thái đặc thù
Nét cổ kính nghìn năm thử thách
Tình Đông Tây hòa điệu thiên thu
Người xót xa lưu đày thân phận
Quê hương ơi! Từ đó mỏi mòn
Vẫn cứ gọi Tự Do chưa đến
Đã bao lần chết dỡ mầm non
Những biến thiên của lịch sử, những nổi trôi của vận nước, đã cuốn hút Phật Giáo vào chung cơn Pháp Nạn. Những Tăng Ni bị đuổi ra khỏi chùa, tù đày khổ ải, vong thân trên chính quê hương yêu dấu. Nhà thơ Thanh Trí Cao đã thấu hiểu nỗi niềm xót xa trầm thống đó và đã sáng tạo nên những vần thơ ngậm ngùi hệ lụy, thể hiện tinh thần viên dung vô ngại, vận động nuôi thắp những ước mơ bằng những tư duy hiện thực.
Chia xẻ với các Cao Tăng Đại Đức đang thầm lặng thách thức với quyền lực chuyên chính. Tỉnh thức trong sứ mệnh lịch sử, giải trừ ách nạn trầm luân, để nguyện cầu cho Dân Tộc Việt Nam sớm an hưởng một thể chế Dân Chu Tự Do Thanh Bình thực sự.
Người xưa ấy đây còn chứng tích
Người hôm nay chuyển tiếp mãi sau
Những tin tưởng nhìn về một hướng
Lòng Từ Bi chia xẻ niềm đau
Nửa trái đất không gian ngăn cách
Nén hương lòng, cầu nguyện quê hương
Hỡi thế giới! Lắng nghe tiếng gọi
Người tù già da bọc lấy xương
(Thách Thức)
Sự kiên trì nhẫn nhục khởi phát từ lòng bi mẫn, khoan dung, và tâm niệm: "Không thể lấy thù oán để diệt sân hận, chỉ có tâm Từ Bi mới dập tắt được lửa hận thù". Đó là phương cách duy nhất để hóa giải định kiến vô minh.
Cõi thơ Thanh Trí Cao không những viện dẫn những tư duy đơn thuần về những vấn nạn đời thường, thi tập "Hái Hoa Tuyết Đông" còn mở ra những cánh rừng tâm thức Thiền Vị mênh mông. Những hơi thở bàng bạc tạo nên những lộ trình tư duy tỉnh thức trước những lao xao của thời thế nhân sinh- "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", để tự khai ngộ đạt đến an nhiên vô nhiễm trước những giao động hỉ nộ ái ố ai lạc dục. Cái sát na hạnh ngộ đó đã hốt nhiên sáng tạo nên những âm điệu đặc thù trong sáng của tâm linh. Dâng hiến cho đời như những bông hoa tuyết đang rơi trong Hư Không Tịch Tĩnh. Như thi sĩ Thanh Trí Cao đã tâm sự:
"Thơ vẫn đẹp như lòng người nghệ sĩ mạo hiểm làm cuộc hành trình "Hái Hoa Tuyết Đông" hiến tặng cho đời, Có hay Không bản thể đồng nhất cơ hồ những cánh hoa tư tưởng mịn màng vô nhiễm. Thơ vẫn là thơ, ngôn ngữ cho dù thực hay siêu thực đều uyển chuyển linh động nhẹ nhàng như những cánh én mùa xuân gợi cảm cả bầu trời trong thanh ngoạn mục hữu tình":
Như giòng nước không hề lặp lại
Giữ nụ cười thuở ấy ban sơ
Ôi vũ trụ! Bềnh bồng hoang dại
Ai chẻ chi sợi tóc đôi bờ
Trong thực thể hay ngoài thực thể
Bất khả phân ánh sáng như nhiên
Ai níu kéo thời gian huyễn hoặc
Ta chân tình hội nhập vô biên
(Chẻ Tóc Đôi Bờ)
Cuối cùng sự hiện hữu của những hạt bụi trong không gian vô tận, thời gian vô tăm. Tâm phiêu lãng rồi cũng quay về với bản chất uyên nguyên, trong suốt và thanh tịnh được gọi là Tánh Không. Đạt tới trọng điểm Tánh Không là đạt tới cảnh giới An Lạc nơi Niết Bàn
Tâm sanh, sanh hoan hỉ
Tâm diệt, diệt hồ nghi
Pháp Không hay pháp Có
Giọt nước đầy tràn ly
(Cảm Ứng)
Anh tự hỏi như bao lần trước
Trọn tâm tình chuyển hướng thiết tha
Nhưng hôm đó anh cười thỏa mãn
Ta tìm ta, ta lại gặp ta!
(Ta Tìm Ta)
Cho dù tài hoa đến mấy, con người là thể chất hữu hạn không thể nào diễn đạt hết cái tuyệt kỹ vô hạn của vũ trụ. Thơ Thiền là sáng tạo trong tinh thần phương tiện thiện xảo thời thượng của các Thiền Sư truyền đạt ý chỉ Chân Như, bằng cung cách chuyển vận ngôn ngữ của nghệ thuật thi ca và tư tưởng siêu việt. Thiền Sư Đạo Hạnh đã dạy:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
(Hữu Không)
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi có có, không không mơ màng
(Khuyết Danh)
Trong thế giới thi ca của Thanh Trí Cao cũng ẩn chứa lời kinh siêu thoát mênh mông, huyền diệu, thâm trầm triết lý uyên bác của Phật Giáo. Những băn khoăn, những thao thức về thân phận, về quê hương đất nước, về con người từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Niết Bàn hay địa ngục nơi trần thế?
Nghìn xưa mãi đến nghìn sau
Hương thơ ngự trị vá khâu mảnh trời
Chuông ngân xao xuyến bụi đời
Người ơi! Khoác áo dạo chơi Niết Bàn?
(Bước Chân)
Với kiến thức am tường giới hạn về triết học Phật Giáo. Chúng tôi mạo muội bước vào cõi thơ của thiền giả - thi sĩ Thanh Trí Cao với cảm xúc thế tục chắc chắn không thể hiện trọn vẹn những phong thái sâu sắc của nguồn triết học Đông Phương, mà nhà thơ Thanh Trí Cao đã quán triệt. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến với một nhận định khiêm tốn, khách quan, dĩ nhiên không phải là tuyệt đối. Bất cứ một tác phẩm văn học nghệ thuật nào được sáng tạo đã tự nó mang một giá trị riêng biệt. Giá trị được nâng cao nếu tác phẩm đích thực được đón nhận nồng nhiệt nơi quần chúng qua nội dung tác phẩm cưu mang những ý tưởng uyên bác và thâm viễn. Nhà thơ Thanh Trí Cao, tu sĩ có tâm hồn nghệ sĩ đa dạng.
Ngoài tài hoa sáng tác thi văn, nhà thơ Thanh Trí Cao còn là một nhà họa sĩ, qua những bức tranh bìa và những phụ bản trong các tác phẩm "Trăng Ngủ Trong Mây", "Trên Dòng Tử Sinh", "Hương Vị Chân Tâm", và "Hái Hoa Tuyết Đông" đầy những nét thanh thoát siêu nhiên. Đặc biệt khi nhìn bức tranh "Thuyền Về Bến Giác", tôi liên tưởng đến mấy câu thơ Đường của Vương Chi Hoán trong bài Xuất Tái:
Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian
Nhất phiến cô thành vạn nhận san
Khương địch hà tu oán dương liễu
Xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan
...
Hoàng Hà nước chảy tận mây
Cô đơn một mảnh thành xây đỉnh ngàn
Sáo Khương chớ oán ly tan
Gió xuân khôn đến Ngọc Quan biên thùy
(Chi Điền)
Giòng thơ của Thanh Trí Cao cũng giống như giòng nước chảy từ đỉnh non cao, miên man vô tận từ Đông sang Tây, từ Đạo đến Đời. Chúng ta không tìm thấy hình bóng của cuồng nộ hận thù. Chỉ thấy tâm như bầu trời xanh thong dong những làn mây trắng - Một cánh rừng mở ra với muôn ngàn hoa lá Hương Thiền tỏa ngát, giữa thanh khí tĩnh lặng của Thiền Môn. Tất cả ngôn từ không làm hay hơn một bài thơ tự nó đã là diễm tuyệt. Giòng đời trôi qua như giòng nước cuốn phăng bao nhiêu cánh bèo tử sinh hư huyễn, nhưng vầng trăng sẽ không bao giờ bị cuốn mất trong tâm người nghệ sĩ như một ý niệm về Thiền đã giải thích:
...
Dù suối chảy phăng phăng
Không mang trăng đi mất...
Nước là nước, trăng là trăng, đó là lẽ sinh tồn tự nhiên của sự chuyển hóa trong vũ trụ. Thời gian sẽ qua đi. Chúng ta hy vọng vầng trăng "Hái Hoa Tuyết Đông" sẽ mãi mãi trường tồn trong tâm hồn nhân thế - Đẹp và thơ mộng như vầng trăng trên giòng sông tâm thức yêu dấu nơi quê nhà.
* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI
* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO
* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)
* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)
* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI
* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO
* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)
* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065
* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER
* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)
* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)
* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)
* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG
* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)
* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)
* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC
* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)
* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)
* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN
* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)
* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)
* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ
* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)
* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN
* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)
* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT
*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"
*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO
* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG
* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009
* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)
* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”
* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI
* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)
* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI
* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM
* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK
* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)
* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)
* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY
* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)
* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ T
PHẠM PHÚ MINH
Khuynh hướng tự nhiên của những kẻ gây tội ác là cố gắng xóa đi những dấu vết tội ác do mình gây ra. Những kẻ cướp của giết người che giấu tội lỗi của mình để tránh bị bắt bớ trừng phạt đã đành, những chế độ chính trị ác nghiệt cũng hay có khuynh hướng bôi xóa, thủ tiêu, che đậy những điều thất đức mình đã làm. Đức quốc xã trong những ngày sắp bại trận đã ra sức tiêu hủy những hồ sơ liên quan đến các lò sát sinh giết người Do Thái; chế độ Stalin giết mấy ngàn sĩ quan Ba Lan trong vòng bí mật tại rừng Katyn, qua bao nhiêu đời lãnh tụ cộng sản vẫn giấu nhẹm đổ tội cho Đức quốc xã, cho đến bây giờ dù nước Nga đã nhận tội, hồ sơ tội ác đó vẫn chưa được công bố; đối với những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam trong thập niên 1950, Cộng Sản Việt Nam cũng ra lệnh xóa tan không còn dấu vết bằng cách không cho thân nhân dựng bia cho người đã chết; tập thể những trí thức thuộc Đệ tứ Quốc tế bị chế độ Hồ Chí Minh giết khoảng 1945, 46 tại miền Nam thì cho đến gần đây các đao phủ vẫn còn sống cả, thế mà vẫn cứ chối quanh, người nọ chỉ người kia; vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế sờ sờ ra như thế, mà người cộng sản Việt Nam cũng không hề một lần mở miệng nhận việc mình làm. Hiện tượng giấu nhẹm ấy cho thấy một điều: những kẻ gây tội ác biết đó là tội ác, và do một nỗi sợ, hoặc do một bản chất gian dối, không muốn cho người khác, đời nay hoặc đời sau, biết là mình đã làm việc đó. Họ luôn luôn đóng vai đạo đức giả, nghĩa là bản chất thì cực kỳ gian ác, mà bề ngoài thì làm ra vẻ mình là kẻ rất đạo đức.
Riêng những thảm cảnh người vượt biên gặp phải trên biển cả, trên đất liền từ năm 1975 đến đầu thập niên 1990, người cộng sản có thể coi là mình vô can. Họ làm họ chịu, chúng tôi nào có mắc mớ gì? Chúng tôi chỉ lo xây dựng một Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, mấy người bỏ trốn đi là đã can tội phản quốc ("Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" - Lê Duẩn), vậy có bị cái gì thì ráng mà chịu, chúng tôi không cần biết. Cùng những loạt đạn bắn theo ghe thuyền vượt biên, những lời chuỗi rủa xấu xa ném theo những người ra đi thì nhiều vô số kể, đó là những lời xấu nhất mà mộtchế độ, một nhóm người có thể dùng để gửi đến những người công dân, người đồng bào tội nghiệp của mình khi họ không còn con đường sống hợp với nhân phẩm, phải ra đi để tìm sự sống trong cái chết.
Nhưng nhờ ơn tổ tiên phò hộ, nhờ cánh tay đưa ra của phần nhân loại không theo chủ nghĩa cộng sản, mấy triệu người Việt Nam trong khoảng 15 năm, đã tìm được đất sống, sau khi khoảng nửa triệu đã vùi thây dưới biển cả, trong rừng sâu. Người ra đi lặng lẽ chịu đựng những thảm cảnh của chính mình và thân nhân, lặng lẽ lo gầy dựng cuộc sống mới trong tự do mà mình đã tìm được cũng nhờ cuộc sống tự do ấy, người Việt Nam tị nạn cộng sản vun bồi được dời sống tinh thần và đạo đức, không quên ơn ông bà tổ tiên, không quên thân nhân và đồng bào ruột thịt còn sống ở quê nhà, và nhất là không quên cái ơn lớn lao mà dân và chính phủ các nước đã cưa mang, giúp đỡ mình trong cuộc đi tìm tự do thập tử nhất sinh diễn ra cách đây mấy mươi năm. Chính trong tinh thần ấy mà vào đầu năm nay, nhiều phái đoàn người Việt Nam tị nạn cộng sản từ khắp thế giới đã mở những cuộc "hành hương" về những bến bờ đã đón tiếp mình từ tay biển cả trong các cuộc vượt biên xưa. Và như một cử chỉ cụ thể để tỏ lòng biết ơn các quốc gia đã cứa vớt mình, người Việt tị nạn cộng sản đã xin phép chính quyền sở tại đặt những tấm bia kỷ niệm tại nơi ngày xưa đã là trại tạm trú đầu tiên của những người đặt chân lên được đất sống. Với tấm lòng có trước có sau, người tị nạn chỉ ghi lại những lời tri ân hay lời tưởng niệm, là những thứ người ta nghĩ là có thể tồn tại với thời gian vì ý nghĩa nhân bản phi chính trị nhất thời của nó. Chẳng hạn lời dịch sau đây từ tấm bia viết bằng tiếng Anh, dựng trên đảo Bidong thuộc tỉnh Terengganu thuộc nước Mã Lai Á vào tháng Ba 2005:
"Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt đã thiệt mạng trên đường tìm tự do (1975-1996). Dù họ đã chết vì đói, khát, bị hãm hiếp, bị kiệt sức hoặc vì một nguyên nhân nào khác, chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được hưởng yên bình vĩnh cửu. Sự hy sinh của họ không bao giờ bị quên lãng. Các cộng đồng người Việt hải ngoại, 2005."
Và những dòng chữ mặt bia bên kia:
"Đễ nhớ ơn những nỗ lực của Phủ Cao Ủy tị nan Liên Hiệp Quốc, Hồng Thập Tự Quốc Tế và Hội Lưỡi Liềm Đỏ Malaysia và các tổ chức cứu trợ quốc tế khác, chính phủ và nhân dân Malaysia cùng các quốc gia đã cung cấp nơi tạm trú đầu tiên cũng như nơi tái định cư. Chúng tôi cũng xin bày tỏ tri ân đến hàng nghìn cá nhân khác từng làm việc hết mình để giúp đỡ người tị nạn Việt Mam.
Các Cộng Đồng người Việt Hải Ngoại”
Một tấm bia tưởng niệm những người đã chết thảm trên đường đi tìm tự do và tri ân sự giúp đỡ cho những người sống sót: chừng đó đã đủ để chính quyền cộng sản Việt Nam vận dụng các thủ thuật ngoại giao để xóa bỏ nó đi. Họ đã vận động với chính phủ Mã Lai Á để phá bỏ tấm bia trên đảo Bidong, với chính phủ Indonesia để phá bỏ tấm bia tương tự trên đảo Galang. Với lợi ích ngoại giao trước mắt thì các chính phủ liên hệ thấy không có vấn đề lớn lao gì để không thỏa mãn các đòi hỏi xem ra không quan trọng gì mấy đối với họ. Và thế là các tấm bia chứa đựng biết bao tâm tình, biết bao tấm lòng thành kính và thương yêu trước hương hồn của những người đồng bào kém may mắn đã bỏ thây trong biển cả, đã hoặc sắp bị triệt hạ. Chỉ vì Hà Nội muốn như thế.
Hà Nội nhằm cái gì trong sự vận động này ? Muốn giữ một "lý lịch sạch sẽ" trong lịch sử ? Muốn giữ một "bộ mặt sạch sẽ" trước thế giới ? Muốn không ai được hiểu rằng sở dĩ người Việt Nam phải bỏ nước ra đi là do chính sách tịch thu tài sản ruộng vườn, “đánh tư sản” một cách triệt để, do chính sách kỳ thị một cách khốc liệt không cho con cái của quân nhân công chức Nam được ăn học trong chế độ mới của họ, do giam hãm tù đày hàng triệu người, do tước đoạt hết quyền tự do và quyền làm ăn sinh sống của cả một xã xã hội miền Nam để lùa mọi người vào cái trại lính mà họ gọi là xã hội chủ nghĩa?... Mấy triệu người vượt biên tìm tự do chính là lời tố cáo tội ác của họ, nhưng họ vẫn muốn trốn tránh những vết tích cụ thể trong vòng Đông Nam Á chứng tỏ là đã có thảm cảnh của người Việt Nam trong sóng nước đại dương thuộc vùng này. Khi vận động phá bỏ những tấm bia kỷ niệm ấy, họ có biết rằng họ đang xúc phạm đến những người đồng bào đã chết hay không? Họ đang dùng cái thứ đạo lý gì vậy?
Thực ra, đối với người cộng sản, dùng chữ “đạo Lý” thì hơi quá đáng, vì đó là thứ họ không có, không cần có. Với họ, chỉ có thủ đoạn và mánh khóe, cái thứ thủ đoạn của Stalin với dân Ba Lan, của Hồ Chí Minh đối với nhóm Đệ tứ và với những người bị đảng cộng sản quy cho cái tội địa chủ ác ôn, của cách đối xử cực kỳ ác độc đối với đồng bào miền Nam sau 1975... và bây giờ, hành động mới nhất, vào tháng Năm, tháng Sáu năm 2005, là vận động xóa bỏ dấu vết các bia tưởng niệm người chết trên đường trốn chạy tại các nước Đông Nam Á.
Năm ngoái, đảng cộng sản Việt Nam ra nghị quyết 36, kêu gọi người Việt tị nạn ở nước ngoài quên đi quá khứ, cùng hợp tác với họ để xây dựng đất nước. Nhiều người đã nhìn thấy đây như là một cử chỉ hòa giải, kêu gọi cùng thông cảm những lỗi lầm trong quá khứ của nhau và bỏ qua hết, để cùng nhắm về một mục tiêu tốt đẹp làm cho đất nước giàu mạnh và hạnh phúc. Sau hơn nửa thế kỷ thù hận, người Việt Nam nào mà chẳng mong ước điều ấy? Người Việt ở nước ngoài đã chẳng tích cực gửi tiền bạc về giúp đỡ đồng bào trong nước đó sao? Và thiếu gì người chỉ vì thiện chí xây dựng đã đầu tư tài sản và trí tuệ để xây dựng công cuộc làm ăn tại Việt Nam (dù rốt cuộc nhận lãnh những hậu quả vô cùng đau đớn: tài sản mất hết, thân bị tù tội chỉ vì sự tham lam và xảo trá của chính quyền trong nước, ai mà chẳng thấy nhan nhản những trường hợp ấy?) Nhưng nếu tưởng nghị quyết 36 bày tỏ sự thực tâm của những người cộng sản là lầm. Nghị quyết ấy chỉ là một mệnh lệnh theo thói quen cai trị bằng mệnh lệnh của chế độ ấy, chứ bản chất tấm lòng của người cộng sản với đám người Việt hải ngoại thì vẫn không có gì thay đổi: nghi kỵ, hiềm thù, đố kỵ, họ chỉ muốn người Việt ở nước ngoài đóng góp tiền bạc và trí tuệ cho họ, còn ngoài ra không bao giờ coi tập thể người này là những người đồng bào với những tâm tình chung, ước nguyện chung có quyền nói chuyện ngang vai vế với họ về những vấn đề của đất nước. Họ đã biết vì sao mà có tập thể người tị nạn Việt Nam trên khắp thế giới ngày nay chứ? Họ thừa biết bằng cách nào đám người đó hiện diện ở nước ngoài chứ? Họ dư biết những nỗi đau thương mà người đi tìm tự do phải chịu chứ? Họ biết rất rõ hằng trăm ngàn đồng bào đã bỏ mình ngoài biển chứ? Thế mà họ không xem tâm tình của người tị nạn ra cái gì cả, một tấm bia tưởng niệm người đã chết họ cũng không tha! Tình nghĩa đồng bào với nhau ở đâu? Đối với họ tình nghĩa đó chỉ được hiểu bằng một động tác: đóng góp đô la cho họ. Họ kêu gọi người tị nạn quên quá khứ, nhưng còn họ? Cái quá khứ rất gần, họ đã hành hạ dân chúng ra sao sau ngày 30.4.1975 họ có quên đâu? Họ biết rõ nửa triệu người bỏ mình trên biển là do chính họ gây ra, nhưng họ không bao giờ có một cách cư xử hợp đạo lý, chỉ muốn khỏa lấp mọi chuyện bằng cách kêu gọi "quên đi" trong khi cái nguyên nhân gây ra thảm cảnh thì họ vẫn còn giữ nguyên: một chế độ toàn trị bằng bạo lực và sự xảo trá. Họ vừa mang một lòng kiêu hãnh thô lỗ rằng chính họ mới là chủ nhân ông của đất nước, vừa mang một mặc cảm tội lỗi, lúc nào cũng muốn che đậy tội ác của mình, lúc nào cũng mong xóa di dấu vết tội ác ấy khi họ kêu gọi người tị nạn hãy quên quá khứ đi, họ muốn người tị nạn quên những tội ác của họ đã làm khiến đồng bào phải chạy trốn, nhưng về phần họ thì họ vẫn nhớ rất rõ, và làm bất cứ động tác nào để tẩy xóa, che đậy tội ác của chính họ, dù động tác ấy xúc phạm một cách thô bạo đến tâm tình của người Việt ở nước ngoài.
Đến thời điểm này, tại sao không dối xử với nhau một cách tử tế? Tôi nghĩ nếu chính quyền cộng sản Việt Nam còn có tình đồng bào và biết tôn trọng nỗi đau thương của người tị nạn thì nên giúp trùng tu các khu tưởng niệm, thậm chí cử một phái đoàn đến thấp một nén nhang trước các tấm bia như là một cử chỉ thiện chí, thì hiệu quả của công việc ấy sẽ gấp trăm gấp ngàn lần cái nghị quyết 36 hách dịch và vô hồn kia. Nước Đức, sau khi chế độ quốc xã sụp đổ, vẫn giữ lại một vài dấu vết các lò thiêu người mà nước này đã dùng để giết người Do Thái như một bài học ô nhục mà một chế độ chính trị của dân tộc Đức đã làm. Họ có can đảm giữ lại để làm tấm gương cho hậu thế. Sự kiện ba triệu người Việt Nam đi ra sông trên khấp thế giới và nửa triệu vùi thây trong lòng đại dương là sự kiện có một không hai trong lịch sử nước ta, không khác gì việc sáu triệu người Do Thái bị giết trong lò thiêu của Đức Quốc xã. Biến cố người Việt ra đi sinh sống khắp nơi trên thế giới trong the kỷ 20 có một ý nghĩa vĩ đại về mặt lịch sử, sau những thế kỷ Nam tiến để tạo thành nước Việt Nam ngày nay. Chính quyền cộng sản đã không làm gì để đánh dấu biến cố đó ngoài việc kêu gọi người ta hãy quên nó đi, đó là về phần của họ. Về phần người đi tị nạn và cả thế giới văn minh nữa, phải ghi lại trang sử ấy, họ đã làm nhiều cách, các thế hệ loài người mai sau sẽ biết rõ sự kiện đó trong không biết bao nhiêu tài liệu nằm trên những tượng đài, những kệ sách trong thư viện, và nhất là nằm trong lòng con cháu của lớp người ra đi ấy, trong hay ngoài nước Việt Nam. Xóa làm sao được. Cái ác làm sao thắng được lẽ thiện ở đời. Những tấm bia hiền lành thấm đẫm tình người của người tị nạn dựng ở Bidong, Galang đã bị những kẻ thiếu nhân tính âm mưuphá hủy đi. Nhưng họ nên nhớ rằng tình người mới là cái bất diệt, còn sự gian trá, xảo quyệt chẳng qua chỉ là những màn che đậy nhất thời, mà trong thế giới ngày nay, càng che đậy càng lộ ra cái tâm lý ti tiện và sự tội nghiệp của con thú cộng sản cuống quít trong bước đường bạo lực cuối cùng của nó.
Và người cong sản hãy đừng bao giờ quên bước đi của những người đi tìm tự do sau 1975 chính là một tiên tri và là bước hướng dẫn cuộc đổi mới của chính quyền cộng sản Việt Nam từ giữa thập niên 1980. Cuộc trốn đi của người đi tìm tự do, sự bỏ mình lớn lao của họ trên biển cả như có một lời nhắn để lại sau lưng: hãy đi theo bước của chúng tôi, Việt Nam sẽ không còn con đường nào khác ngoài con đường đến với thế giới văn minh. Chính quyền cộng sản đã đi theo đúng lời nhắn bảo thiêng liêng ấy, đi theo đúng bước chân ấy, và quả nhiên đã tìm thấy con đường sông. Thế thì thay vì vội khoe khoang vì một ít bề ngoài hào nhoáng do những công ty các nước tư bản mang lại, hãy khiêm tốn lắng nghe lời của những - oan hồn trên biển, rằng Tự Do mới là chìa khóa then chốt để mở cánh cửa Hạnh Phúc và Thịnh Vượng cho dân tộc chúng ta. Chính vì Tự Do mà nửa triệu người đã bỏ mình, lời nguyền đó sẽ linh thiêng và ứng nghiệm lắm!
Sao lại thô bao với nhau, nhất là với những người đã chết? Chính cái chết của họ đã đóng góp tích cực cho một ý hướng tinh thần chúng ta cần đi theo. Ngay cả những người lính Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ đã chết trên chiến trường Việt Nam từ bốn mươi năm trước, cũng đã đóng góp phần rất quyết định cho Việt Nam ngày nay. Một con cá quẫy đuôi bên này đại dương còn gây ảnh hưởng đến bên kia đại dương, huống chi một cuộc chiến lớn như thế họ lại không bằng cách này hay cách khác, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản trên thế giới? Và thử tưởng tượng, nếu chủ nghĩa cộng sản không sụp đổ ngay nơi thành trì của nó là liên xô và các nước Đông Âu, thì liệu Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc... và nhất là Việt Nam, có được như ngày nay? Hay là vẫn ì ạch với tem phiếu, với khẩu hiệu, với hộ khẩu với phân phối xếp hàng cả ngày, với các kế hoạch năm năm kế tiếp nhau mà vẫn dẫm chân hoài một chỗ?... Những lãnh tụ cộng sản Việt Nam bây giờ là triệu phú đô la hãy nhớ ơn các chiến sĩ chông cộng đã bỏ mình trên chiến trường Việt Nam thuở xưa, những thuyền nhân xấu số đã bỏ mình trên đường đi tìm tự do, vì chính những chiến đấu cho tự do đó đã làm thay đổi bộ mặt thế giới và giúp cho các “đổi mới” ở Việt Nam ngày nay được phần nào thành tựa. Suy nghĩ như thế không có gì là ngược đời đâu, đó là kết quả hiển nhiên có tính cách nhân quả của cuộc diện thế giới, khu vực và từng nước.
Trong sự ràng buộc nhân quả chằng chịt ấy mà chính quyền Việt Nam vẫn cứ khư khư chỉ biết có đảng của mình, và có thái độ cực kỳ chật hẹp đối với bao nhân tố khác đã xây dưng nên bộ mặt thế giới ngày hôm nay thì quả là đáng tiếc. Hãy tôn trọng những người đã chết, nhất là những cái chết ấy đã gây một cảm hứng vô song trong công cuộc xây dựng cho con người còn lại trên thế giới này, là ý thức Tự Do. Không có tự do sẽ không có thịnh vượng và hạnh phúc, đó là điều chắc chắn. Hãy đi qua Bidong, Galang, đến những tượng đài tưởng niệm thuyền nhân đã bỏ mình, thành tâm thắp hương tưởng niệm linh hồn của họ, đó là hành vi duy nhất hòa giải với quá khứ và hiện tại, và mở được cửa đến một tương lai sáng sủa.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.