"Kiều" đây không phải nàng Kiều của Nguyễn Du, mà là chữ Kiều trong
"Việt kiều". Chữ
Kiều 僑 nầy có nhiều nghĩa như sau:
– Nếu là động từ,
Kiều là ăn nhờ ở đậu. Thí dụ:
"Kiều cư" là ăn nhờ ở đậu nơi đất khách.
– Là danh từ,
Kiều chỉ người sống nhờ làng nước khác. Thí dụ:
"Hoa kiều" là người có quốc tịch Tàu sống ở nước ngoài[1];
– Là phó từ (?), thì nghĩa là tạm thời. Thí dụ:
"Kiều trí" là mượn tên đất này đặt cho đất khác[2].

(Minh họa)
Dù thuộc từ loại nào,
"Kiều" cũng hàm ý nghĩa là tạm bợ, trôi nổi bềnh bồng.
Trở lại với
"Việt kiều", lâu nay người ta vẫn dùng danh từ này để gọi chung những người Việt Nam sống ngoài đất nước, cách gọi này vừa hàm hồ vừa thấy bất cập.
Vậy,
"Việt kiều" là ai đây? Nếu hiểu cho đúng nghĩa thì đó là những người có quốc tịch Việt Nam nhưng đang sống ở nước khác.
Từ xưa, đã có người Việt di cư qua nước khác, nhưng chỉ có lác đác, không hình thành được cộng đồng người Việt ở nước ngoài[3]. Phải đợi đến sau cơn quốc biến 30-4-1975, làn sóng người Việt di tản mới ồ ạt và hình thành ra những cộng đồng lớn sinh sống ở các nước.
Khi những di dân đó đã thành đạt ở xứ người thì họ được kêu
"Việt kiều", với ý nghĩa có sự tâng bốc. Chữ
"Việt kiều" này là do người trong nước đặt ra thôi, còn người Việt ở nước ngoài hiếm khi tự xưng như vậy và nếu có cũng là với ý tự châm biếm làm chính. Ở các nước mà người Việt đến sinh sống, người ta cũng không gọi họ là
"Việt kiều", mà gọi là
"người tỵ nạn" (refugee), hoặc
"thuyền nhân" (boat people).
Khi những người tỵ nạn này đã có thẻ thường trú nhân hoặc đã nhập tịch nước khác, thì họ không còn là công dân Việt Nam nữa. Từ nay, với quốc tịch khác, họ có những quyền lợi và trách nhiệm với tổ quốc mới đã chọn, những sự ràng buộc cũ với Việt Nam đã cắt đứt. Họ trở thành là người Anh, Mỹ, Pháp, Đức… đang sống ở Đức, Pháp, Mỹ, Anh. Chẳng có duyên cớ gì để gọi họ là
"Việt kiều" nữa mà phải là
"người Mỹ gốc Việt", "người Pháp gốc Việt", vân vân.
Do sai lầm hoặc cố tình ngộ nhận mà đã đẻ ra lắm danh từ lạ lùng và vô duyên, như kêu người Hàn gốc Việt là
"Hàn kiều", người Thụy Sĩ gốc Việt thành
"Thụy kiều",…
Thí dụ như vầy nha: Một người Việt qua định cư và nhập tịch ở Mỹ, người đó bây giờ là
"người Mỹ gốc Việt". Nếu về Việt Nam chơi, thì người đó là người Mỹ gốc Việt, gọi
"Việt kiều" là vu cáo, vì ông/bà đó có ăn nhờ ở đậu của ai đâu? Và sự thể sẽ rất vui, nếu người Mỹ gốc Việt này lại về Việt Nam tạm trú để làm ăn chi đó, lúc này phải kêu họ là
"Mỹ kiều", không thể nói là
"Việt kiều" được. Vì họ được Đại sứ quán hoặc các Lãnh sự quán Hoa Kỳ bảo đảm quyền lợi, còn chính quyền Việt Nam chỉ dành cho họ những sự đãi ngộ đối với người nước ngoài mà thôi.
Từ chỗ nhìn nhận chữ "Việt kiều" để áp dụng riêng chỉ ra những người thành công, có sản nghiệp ở nước ngoài, rồi nưng niu biến thành
"khúc ruột ngàn dặm", đã dẫn tới hậu quả oái oăm: những
"Việt kiều" đích thực, theo đúng nghĩa
"ngụ cư" của chữ
Kiều, lại chẳng có ai muốn ngó ngàng đến.
Việt kiều thiệt thọ là ai? Đó là những người Việt đang sống chui, tạm bợ, không có giấy tờ tùy thân, là những công nhân xuất khẩu lao động, những du học sinh đang đi tu nghiệp ở nước ngoài.
Trong khi người ta trải thảm đỏ mời gọi giới đầu tư gốc Việt mang vốn từ nước ngoài về xây dựng đất nước thì phần lớn Việt kiều thiệt sự lại bị lãng quên, thậm chí khinh thị.
Vậy đó, Việt kiều đáng lẽ ra là một bộ phận mà đất nước phải cưu mang lại được hiểu ra thành những người gốc Việt có của ăn của để, với ẩn ý nhắc nhở họ phải… cưu mang cho đất nước.
* * *
Tóm lại, danh từ
"Việt kiều" (gần đây biến thể thành
"kiều bào") đã bị hiểu sai, biến dân xứ người thành dân nước mình của nhà nước Việt Nam. Chính quyền này không phải thiếu sáng suốt đến độ không nhận ra một sự thật hiển nhiên là có những người Việt Nam không mang (và cũng không muốn mang) quốc tịch Việt Nam, nhưng người ta vẫn cố níu kéo vô gốc gác đồng hương cũ để khuyến dụ, chài mồi ngoại tệ.
Hãy dùng chữ cho đúng, chỉ dùng danh từ
"Việt kiều" để gọi những người có quốc tịch Việt Nam đang sống ở nước ngoài; còn với người đã là thường trú nhân hoặc mang quốc tịch khác thì là
"người gốc Việt", hoặc
"người Việt hải ngoại". Như vậy, để khỏi gây ra ngộ nhận cho các thế hệ sau!
***
[1]
"Hoa kiều" là tiếng để gọi những người Tàu sống ở nước ngoài. Miền Nam trước đây thường gọi Tàu là
Hoa kiều, nhưng kể từ sau năm 1958, khi dân Tàu đều phải nhập Việt tịch thì ở Việt Nam không còn gọi là Hoa kiều nữa. Người Tàu vốn phân biệt rạch ròi: Chỉ có thế hệ di dân đầu tiên, là người còn mang quốc tịch Đài Loan đang sống ở nước ngoài mới kêu
"Hoa kiều"; còn đã lấy quốc tịch khác thì gọi là
"hải ngoại Hoa nhơn" (người Tàu ở nước ngoài); và con cháu những Hoa kiều, Hoa nhơn đó (được sinh ra ở ngoài tổ quốc) thì kêu là
"Hoa duệ", hậu duệ của người Tàu.
Mà tiếng
"Hoa duệ" này cũng có phần hạn chế, chỉ dùng để gọi đến thế hệ thứ 5 mà thôi, từ thế hệ thứ 6 trở về sau kể như không dính dáng gì đến Trung Hoa nữa. Điều này rất khác với người Việt, là cái gốc Việt kia cứ được tính đếm dài dài, con cháu mấy chục đời sau, đã xa quê gốc thăm thẳm chiều trôi vẫn cứ bị nhận là họ hàng!
[2] Nguyên thời xưa loạn lạc, có nhiều quận huyện tiêu vong, dân cư xứ đó dời qua xứ khác mới mượn tên cố quận đặt cho vùng đất mới. Như bên Tàu thời Nam Bắc triều, ở Sơn Đông có Duyện Châu, dân xứ đó bởi loạn lạc phải chạy qua Quảng Lăng thuộc Giang Tô trú ngụ, đất mới này được đặt tên Nam Duyện Châu. Ở miền Nam Việt Nam, trong cuộc di cư của đồng bào ngoài Bắc vô Nam năm 1954 cũng có những địa danh được “di cư” theo như vậy. Từ đó, có thêm chữ
"kiều quận", "kiều châu", "kiều huyện".
[3] Trường hợp con cháu nhà Lý trước hiểm họa bị nhà Trần tru diệt, đã phải đào thoát qua đến Nhật Bổn, Triều Tiên… Đó là những cuộc di tản quy mô, nhưng cũng chỉ hạn chế trong dòng tộc, số lượng vài trăm người, không đủ hình thành một cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Lê Vĩnh Húy