Phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Thị Lâm, Trưởng bộ môn Dị ứng Miễn dịch lâm sàng, Đại học Y Hà Nội, cho biết không phải ai cũng bị dị ứng vaccine, chỉ những người cơ địa dị ứng mới có nguy cơ dị ứng vaccine.
Ví dụ, bản thân hoặc thành viên trong gia đình mắc các bệnh dị ứng như dị ứng thuốc, dị ứng thức ăn, dị ứng vaccine, hen phế quản, viêm mũi dị ứng...
Hiện, tỷ lệ dị ứng vaccine và phản vệ do vaccine rất thấp. Tuy nhiên, khi nước ta đang trong chiến dịch tiêm chủng đại trà vaccine Covid-19, mối quan tâm đến các phản ứng sau tiêm, đặc biệt là dị ứng, nhiều hơn.
Vaccine cũng giống như các thuốc khác, đều có khả năng gây dị ứng và bất kỳ thành phần nào của vacine cũng có thể đóng vai trò là một dị nguyên (gây dị ứng). Dị ứng vaccine có thể là dị ứng type nhanh xảy ra trong vòng vài phút hoặc vài giờ với các biểu hiện như mày đay, phù quincke (sưng nề đột ngột), khó thở, phản vệ...
Dị ứng hoặc dị ứng type chậm (qua trung gian IgE hoặc không) xảy ra sau vài giờ đến vài ngày, thậm chí là vài tuần sau khi dùng vaccine. Trong đó cấp tính và nguy hiểm nhất vẫn là phản ứng phản vệ, đặc biệt là sốc phản vệ, có nguy cơ đe dọa tính mạng.
Khoảng 80% trường hợp phản vệ do vaccine xảy ra trong vòng 30 phút đầu sau tiêm. Các triệu chứng có thể có là mày đay mẩn ngứa, ban đỏ, hoa mắt chóng mặt, mệt mỏi, xuất hiện nhanh sau tiêm vaccine. Sau đó các triệu chứng tiếp tục tiến triển như khó thở, choáng váng, ngất suy hô hấp, trụy tim mạch... Nếu không cấp cứu kịp thời người bệnh có thể tử vong.
Thành phần gây dị ứng trong vaccine rất đa dạng, tùy từng loại vaccine. Đó có thể là do gelatin (có trong vaccine sởi, rubela, thủy đậu...), protein trứng (vaccine sốt vàng, sởi, rubella, vaccine dại ...), protein sữa (bạch hầu, ho gà, uốn ván....).
Một số chất bảo quản trong vaccine như thimerosal, aluminum, và phenoxyethanol cũng có thể gây dị ứng. PEG và Polysorbate là hai thành phần có trong vaccine Covid-19 cũng được liệt kê là các dị nguyên tiềm năng.
Nhân viên y tế tại Hà Nội tiêm vaccine AstraZeneca. Ảnh:Giang Huy.
Nhân viên y tế tại Hà Nội tiêm vaccine AstraZeneca. Ảnh:Giang Huy.
Hiện nay, có nhiều hướng dẫn cách tiếp cận và chẩn đoán dị ứng vaccine ở những người cơ địa dị ứng. Điều quan trọng nhất vẫn là thăm khám lâm sàng. Một số hướng dẫn đề nghị test để nhận biết nguy cơ dị ứng vaccine, tuy nhiên cách này đang gây nhiều ý kiến trái chiều. Bộ Y tế cũng không khuyến cáo test dị ứng trước khi tiêm vaccine.
Theo quan điểm của tiến sĩ Lâm: "Người cơ địa dị ứng có thể test, còn trường hợp không thuộc cơ địa dị ứng không khuyến cáo test dị ứng vaccine Covid-19".
Một số phòng xét nghiệm có thể xác định được mức kháng thể dị ứng với vaccine, thông thường là kháng thể IgE đặc hiệu với vaccine hoặc thành phần vaccine. Test da cũng là phương pháp được sử dụng. Tuy nhiên test da cũng có thể gây phản ứng phản vệ, nên chỉ được thực hiện tại các đơn vị có trang bị đầy đủ phương tiện cấp cứu và được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa hoặc có chứng chỉ về việc thực hiện test này.
Ngoài ra, còn có xét nghiệm IgE đặc hiệu với dị nguyên (vaccine) như protein trứng, protein sữa, gelatin, latex và nấm mốc hoặc kháng sinh (thành phần của vaccine).
Trong một số trường hợp đặc biệt, các bác sĩ sẽ sử dụng test kích thích để chẩn đoán người bệnh có dị ứng với vaccine hay không. Tuy nhiên, đây là thủ thuật có tính nguy hiểm cao, chỉ nên tiến hành tại các cơ sở y tế có trang bị đầy đủ phương tiện cấp cứu và được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa dị ứng.
Tiến sĩ Lâm đánh giá, với các phương pháp tiếp cận và chẩn đoán dị ứng vaccine, người có cơ địa dị ứng có thể thêm cơ hội yên tâm tiêm vaccine, giúp tăng thêm số lượng cá nhân tiêm vaccine, góp phần nhanh chóng tạo nên miễn dịch cộng đồng, đẩy lùi đại dịch.
Chiến dịch tiêm chủng vaccine Covid-19 toàn dân tại Việt Nam bắt đầu hôm 10/7, kéo dài đến tháng 4/2022. Mục tiêu là tiêm miễn phí hàng năm cho nhân dân để đạt được sự miễn dịch cộng đồng trên toàn quốc. Chiến lược tiêm chủng là "tiêm đến đâu an toàn đến đấy", đảm bảo an toàn cho người được tiêm, hạn chế đến mức thấp nhất trường hợp phản vệ.
Thời tiết lạnh làm tăng lượng vitamin A và đốt mỡ thừa nhanh hơn
Viêm giác mạc – Nguy hiểm từ biến chứng của đau mắt đỏ ở trẻ emPhát triển các hạt nano đưa thuốc trực tiếp vào não
Cả hai quá trình tăng và giảm cân đều được kích hoạt bởi các hoóc-môn trong cơ thể. Nhưng so với tăng cân, việc giảm cân cần nhiều nỗ lực hơn, gồm tuân thủ chế độ ăn lành mạnh và có kế hoạch luyện tập nghiêm ngặt.
Thử nghiệm do các chuyên gia tại ại học Y khoa Vienna (Áo) tiến hành trên chuột mới đây cho thấy, tiếp xúc với thời tiết lạnh có thể làm tăng quá trình sản xuất vitamin A và đốt cháy mỡ thừa nhanh hơn.
Thời tiết lạnh làm tăng lượng vitamin A và đốt mỡ thừa nhanh hơn - Hình 1
Ăn thực phẩm giàu vitamin A là cách bổ sung lành mạnh và an toàn dưỡng chất này cho cơ thể. Ảnh: Healthifyme.com
Cụ thể, họ phát hiện rằng phần lớn lượng vitamin A dự trữ ở gan và thời tiết lạnh đã làm tăng hàm lượng chất này cũng như chất giúp vận chuyển nó gọi là “prôtêin gắn kết retinol”. Cơ chế này giúp chuyển hóa mỡ trắng thành mỡ nâu, qua đó kích thích quá trình đốt cháy mỡ thừa diễn ra nhanh hơn. Trái lại, khi các chuyên gia ức chế “prôtêin gắn kết retinol” trên chuột, cơ chế chuyển hóa mỡ trắng thành mỡ nâu không xảy ra.
Theo các tác giả, các phát hiện mới cho thấy vitamin A đóng một vai trò quan trọng đối với chức năng của mô mỡ và ảnh hưởng tới toàn quá trình chuyển hóa năng lượng, từ đó có thể giúp phát triển các liệu pháp chống béo phì hiệu quả hơn. Dù vậy, họ khuyến cáo mọi người không nên tự ý bổ sung quá nhiều vitamin A, bởi dưỡng chất này cần được vận chuyển đúng loại tế bào và đúng thời điểm mới có hiệu quả.
Video đang HOT
Ăn nhiều bí đỏ giúp phòng ngừa hiệu quả ung thư và bệnh tim mạch
Bí đỏ là một loại rau quả dễ chế biến thành những món ăn ngon, đồng thời mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Ăn nhiều bí đỏ giúp phòng ngừa hiệu quả ung thư và bệnh tim mạch - Hình 1
Bí đỏ có chứa rất nhiều carotenoid. Carotenoid là thuật ngữ dùng để chỉ một họ gồm khoảng 600 sắc tố thực vật khác nhau. Sắc tố thực vật carotenoid được coi là dưỡng chất màu bởi có nhiều đặc tính tương tự như vitamin.
Cũng như nhiều dưỡng chất thiết yếu khác, carotenoid mang lại những lợi ích cho sức khỏe, như tăng cường khả năng đề kháng, chống nhiễm khuẩn... Đáng chú ý, carotenoid là chất chống oxy hóa mạnh, có khả năng bảo vệ tế bào trước sự tấn công của các gốc tự do. Do đó, ăn thực phẩm chứa nhiều carotenoid giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh lý mạn tính như bệnh tim, cao huyết áp và thậm chí là ung thư.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, carotenoid giúp ngăn ngừa hiệu ung thư vú, ung thư dạ dày và ung thư tuyến tụy.
Ăn nhiều bí đỏ giúp phòng ngừa hiệu quả ung thư và bệnh tim mạch - Hình 2
Bí đỏ chứa nhiều vitamin A, C, E; khoáng chất kali, sắt; cùng nhiều dưỡng chất khác. Bên cạnh đó, nước chiếm một tỷ lệ lớn trong thành phần của bí đỏ và loại quả này cũng chứa rất ít calo.
Do đó, chúng ta có thể ăn nhiều bí đỏ mà không lo bị tích tụ mỡ thừa. Ngoài ra, hàm lượng chất xơ dồi dào trong bí đỏ còn hỗ trợ hệ tiêu hóa và làm giảm cảm giác thèm ăn.
Ăn nhiều bí đỏ giúp phòng ngừa hiệu quả ung thư và bệnh tim mạch - Hình 3
Bí đỏ là nguồn cung cấp vitamin A rất dồi dào. Theo tính toán, 245g bí đỏ có chứa 245% lượng vitamin A khuyến cáo cho 1 người/ngày. Vitamin A đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ miễn dịch. Một hệ miễn dịch khỏe mạnh sẽ giúp bảo vệ chúng ta trước sự tấn công của các loại virus, vi khuẩn.
Ăn nhiều bí đỏ giúp phòng ngừa hiệu quả ung thư và bệnh tim mạch - Hình 4
Vitamin A không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với hệ miễn dịch mà còn rất tốt đối với sức khỏe của đôi mắt.
Cụ thể, vitamin A có tác dụng bảo vệ mắt và tăng cường sức khỏe niêm mạc và giác mạc, chống lại các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc virus gây nên.
Bên cạnh đó, bí đỏ còn rất giàu lutein and zeaxanthin. Hai thành phần này có hiệu quả gia tăng mật độ quang học của các sắc tố võng mạc trong mắt, giúp chống lại sự thoái hóa điểm vàng, đồng thời có vai trò như bộ lọc ánh sáng có bước sóng ngắn và ngăn chặn sự xâm nhập của ánh sáng xanh có hại cho mắt gây tổn thương võng mạc.
Ăn nhiều bí đỏ giúp phòng ngừa hiệu quả ung thư và bệnh tim mạch - Hình 5
Huyết áp cao là yếu tố nguy cơ của các bệnh tim. Kali có chứa nhiều trong bí đỏ có thể giúp điều hòa huyết áp, đồng thời làm giảm nguy cơ đột quỵ.
Bên cạnh đó, các chất chống oxy hóa mà bí đỏ sở hữu giúp ngăn ngừa quá trình oxy hóa của các cholesterol xấu. Nếu không có các hoạt chất này, chúng ta sẽ đối mặt với nguy cơ cao mắc các bệnh tim mạch hay xuất hiện các cục máu đông trong mạch máu.
Hạt bí đỏ cũng đã được chứng minh có thể tăng cường sức khỏe của trái tim và ngăn ngừa các bệnh tim mạch.
Ăn nhiều bí đỏ giúp phòng ngừa hiệu quả ung thư và bệnh tim mạch - Hình 6
Carotenoid giúp bảo vệ làn da của bạn trước sự tấn công của tia UV trong ánh nắng mặt trời. Vitamin C lại rất cần thiết cho quá trình sản sinh ra collagen, loại protein làm tăng độ đàn hồi của da. Ngoài ra, một số dưỡng chất khác trong bí đỏ cũng góp phần ngăn ngừa nếp nhăn trên da.
3 loại rau nên ăn thường xuyên để thúc đẩy quá trình giải độc gan, ngăn chặn tình trạng dư thừa cholesterol
Tưởng là khó kiếm nhưng ngờ đâu mấy loại rau sau đây lại khá quen thuộc và có thể tìm mua dễ dàng ở các khu chợ hay siêu thị tổng hợp.
Như chúng ta đã biết, gan là cơ quan quan trọng trong cơ thể con người với nhiệm vụ giải độc, tạo máu và trao đổi chất. Nếu gan có vấn đề thì sẽ tiềm ẩn những mối nguy hiểm đối với sức khỏe của con người. Vì vậy, trong cuộc sống bình thường, việc bổ sung dinh dưỡng cho gan phải được đặt lên hàng đầu.
Ngay từ bây giờ, bạn nên cải thiện chế độ ăn uống hàng ngày. Đặc biệt, hãy chủ động bổ sung 3 loại rau sau đây trong ba bữa chính mỗi ngày, bởi nó vừa có tác dụng dưỡng gan, vừa có thể “giảm cân” cho lá gan để ngăn ngừa nguy cơ dư thừa cholesterol trong cơ thể.
1. Cải bó xôi
Cải bó xôi (hay còn gọi là rau bina) là loại rau rất phổ biến, tuy không đắt nhưng lại giàu các chất dinh dưỡng như vitamin C, vitamin K, carotenoid và khoáng chất.
Video đang HOT
Thường xuyên ăn cải bó xôi vào các ngày trong tuần không chỉ giúp tăng cường tuần hoàn gan – khí, giải tỏa ứ đọng ở gan mà còn loại bỏ lượng cholesterol dư thừa trong cơ thể, từ đó thúc đẩy tuần hoàn máu, dưỡng ẩm gan. Vậy nên, nếu gan không hoạt động tốt thì bạn nên ăn nhiều cải bó xôi hơn vào ngày thường để hỗ trợ tăng cường sức khỏe.
3 loại rau nên ăn thường xuyên để thúc đẩy quá trình giải độc gan, ngăn chặn tình trạng dư thừa cholesterol - Hình 1
2. Rau muống
Rau muống chứa rất ít calo nhưng lại giàu vitamin nên có tác dụng làm giảm lượng cholesterol trong cơ thể, từ đó giúp gan không bị mỡ thừa bao quanh. Ngoài ra, rau muống còn có tác dụng làm đẹp da, giúp dạ dày và ruột tiêu hóa thức ăn cũng như thải độc tốt hơn.
Không chỉ vậy, rau muống thuộc loại rau có tính kiềm, chứa nhiều chất xơ và vitamin C nên có tác dụng thúc đẩy nhu động đường tiêu hóa, từ đó ngăn ngừa ung thư.
3 loại rau nên ăn thường xuyên để thúc đẩy quá trình giải độc gan, ngăn chặn tình trạng dư thừa cholesterol - Hình 2
3. Đậu bắp
Theo quan điểm sức khỏe, vỏ đậu bắp chứa nguồn protein chất lượng cao và nhiều loại khoáng chất nên ăn một ít mỗi ngày có thể đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể.
Về lý do đậu bắp có thể bảo vệ gan, nguyên nhân là do nó có chứa một số thành phần pectin và polysaccharide nên có thể tổng hợp glycogen giúp nâng cao khả năng kháng virus của tế bào gan.
Chú ý: Vì đậu bắp là thực phẩm có tính lạnh nên bạn không nên ăn nhiều nếu lá lách và dạ dày yếu.
3 loại rau nên ăn thường xuyên để thúc đẩy quá trình giải độc gan, ngăn chặn tình trạng dư thừa cholesterol - Hình 3
Có nên uống thảo dược hằng ngày để mát gan?
Bạn đọc Trần Văn Quân (65 tuổi, Hà Nam) hỏi: Tôi thấy trong dân gian có nhiều loại thảo dược có tác dụng bổ gan, giải độc gan như atisô, diệp hạ châu, chè dây... Vậy tôi có thể sử dụng hằng ngày, thay nước uống để giúp bổ gan, mát gan hơn không?
PGS-TS Nguyễn Thị Vân Hồng, nguyên Phó trưởng Khoa Tiêu hóa Bệnh viện Bạch Mai, trả lời: Có thể sử dụng các loại lá cây để làm nước uống hằng ngày, nhưng không nên sử dụng ở mức đậm đặc hoặc dùng quá nhiều. Nước atisô sử dụng ở mức độ nhẹ nhàng thì được nhưng nếu dùng liều cao (đậm đặc) thì cần xin ý kiến bác sĩ.
Có nên uống thảo dược hằng ngày để mát gan? - Hình 1
Nước atisô có thể uống hằng ngày, nhưng không nên sử dụng ở mức đậm đặc hoặc dùng quá nhiều (ảnh minh họa từ Internet)
Thảo dược khi dùng cần phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm (không bị nấm mốc). Khi sử dụng sản phẩm thảo dược nếu có nấm mốc, vi khuẩn vào cơ thể làm ảnh hưởng đến tiêu hóa, nặng hơn sẽ gây tổn thương gan như viêm gan, gan nhiễm độc...
Tốt nhất trước khi dùng các biện pháp gọi là nâng cao chất lượng gan, thải độc gan bằng các hình thức dùng thuốc hay thực phẩm hỗ trợ cần tham khảo ý kiến của bác sĩ.
Biết phân loại người làm việc là điều cần thiết để hiểu những quyền lợi có thể được hưởng. Ví dụ, quyền của nhân viên rất khác so với quyền của người chủ. Hãy dành chút thời gian để xem xét các phân loại người làm việc khác nhau trong ngành thẩm mỹ
Phân loại người làm việc
• Chủ tiệm: Chủ tiệm kinh doanh cho chính họ. Họ chịu trách nhiệm với tiệm và không làm việc cho ai khác. Có thể là một tiệm duy nhất, một công ty hợp doanh, hoặc một hãng lớn với nhiều tiệm. Chủ tiệm chịu trách nhiệm báo cáo tất cả các lợi tức và chi phí cho Sở Thuế Vụ (IRS), khấu trừ thuế lao động (nếu có thuê nhân viên), có giấy phép kinh doanh (quận/thành phố), và thanh toán tất cả các khoản thuế phải trả. Chủ nhân chịu trách nhiệm phân chia người làm việc là nhân viên hay người làm việc độc lập (người thuê bàn/phòng). Chủ tiệm chịu trách nhiệm đối với tiệm của họ, và không làm việc cho ai khác. Nhiều chủ tiệm cũng là người làm việc.
Ví dụ
Tiffany làm chủ tiệm Clips Barbershop. Cô mua tất cả các đồ dùng sử dụng trong barbershop, và xác định giờ hoạt động của tiệm. Cô định giá chi phí và các loại công việc. Cô duy trì hợp đồng thuê với chủ của bất động sản. Cô yêu cầu áp dụng nghiêm ngặt về đồng phục, và vì cửa tiệm có sáu thợ làm tóc, cô đã lập ra một lịch trình làm việc cho nhân viên. Cô thường xuyên hướng dẩn cho nhân viên cập nhật các điều mới trong nghề. Cô hỗ trợ kỹ thuật cho các nhân viên trong tiệm. Tiffany gửi cho mỗi nhân viên của mình một mẫu đơn W-2 bởi vì cô ấy là chủ tiệm.
• Người làm việc độc lập (Người thuê phòng)
Người làm việc độc lập là người có giấy phép thuê hoặc mướn một chỗ làm việc trong tiệm của người khác. Họ tự làm chủ, và chịu trách nhiệm lưu giữ hồ sơ, soạn giờ làm việc, các loại việc, và thu thập các khoản thanh toán của khách hàng của chính họ.
Họ giữ một chìa khóa ra vào tiệm, có thể đến và đi tùy theo công việc. Họ chịu trách nhiệm tài chính về lợi tức hay lỗ lã trong việc kinh doanh của chính mình và nhận tất cả lợi tức từ công việc của họ. Họ chịu trách nhiệm nộp hồ sơ khai thuế và thanh toán các khoản thuế liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ, cũng như có giấy phép kinh doanh của riêng mình. Một người làm việc độc lập làm việc trong tiệm thuộc sở hữu của chủ tiệm nhưng vẫn duy trì luật lệ riêng. Một người làm việc độc lập làm việc cho chính mình và không phải tuân theo ý muốn hoặc chịu sự kiểm soát của chủ tiệm.
Ví dụ:
Marisol là một chuyên viên làm móng tay và chăm sóc da. Cô có hợp đồng hợp tác kinh doanh với hai tiệm lớn nơi cô làm việc với khách của cô. Trong hợp đồng, cô được dành riêng một chỗ làm việc mà cô phải trả 600 đô la mỗi tháng cho mỗi tiệm. Cô giữ sổ hẹn riêng và lập giờ làm việc thuận tiện cho mình cũng như tạo cho mình danh sách khách hàng và công việc riêng. Cô được cấp một chìa khóa để ra vào tiệm. Cô tự sắm cho mình các dụng cụ, vật liệu và bộ trang điểm. Marisol nhận tiền thanh toán từ khách hàng của chính cô và chịu trách nhiệm nộp và trả thuế lợi tức và tiền thưởng.
Marisol là một người làm việc độc lập.
Lưu ý: nếu hợp đồng kinh doanh ghi rõ rằng Marisol phải:
• Làm việc bốn ngày một tuần, từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều
• Chỉ sử dụng các sản phẩm mà chủ tiệm cung cấp, các công việc được liệt kê trong danh sách của tiệm.
• Thu tiền theo bảng giá của chủ tiệm.
Vậy thì Marisol không còn là một người làm việc độc lập nữa mà bây giờ có thể được xem là một nhân viên, vì người khác có quyền kiểm soát công việc của cô ta.
• Nhân viên
Mỗi nhân viên nhận một mẫu đơn W-2 từ chủ thuê của mình có tổng số tiền lương kiếm được và có trách nhiệm báo cáo các khoản tiền thưởng của mình cho chủ thuê. Họ tuân theo lịch làm việc của chủ tiệm. Họ làm công việc được chủ tiệm giao cho. Họ phải tuân theo ý muốn và sự kiểm soát của chủ tiệm, người có quyền yêu cầu họ phải làm gì và làm như thế nào.
Ví dụ
Patricia làm việc tại tiệm làm tóc Blaze do Judy làm chủ. Patricia được yêu cầu làm việc từ thứ ba đến thứ bảy, từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Patricia không mua các sản phẩm sử dụng cho khách hàng của cô, thay vào đó, cô sử dụng các sản phẩm do tiệm cung cấp. Tiệm này có nhân viên tiếp tân ghi chú các cuộc hẹn của Patricia. Patricia có thể chỉ muốn làm công việc cắt tóc; tuy nhiên, tiệm này lớn, có đầy đủ các dịch vụ, do đó Patricia phải làm các việc có liên quan đến hóa chất cho khách hàng của mình khi được yêu cầu. Judy quan sát công việc do Patricia làm và hướng dẫn kỹ thuật khi cần thiết. Patricia báo cáo tất cả các khoản tiền thưởng của mình cho Judy. Patricia là nhân viên của Judy. Nhân viên tuân theo lịch làm việc do chủ lập ra và làm mọi công việc theo quyết định của chủ.
Theo https://www.barbercosmo.ca.gov/
Sống Vui Sống Khỏe: Làm Sao Để Hạ Thấp Nguy Cơ Mất Trí Nhớ
05/12/2019
Lam sao ha thap nguy co mat tri nho_hinh (2)
Mất trí nhớ là chứng bệnh mà nhiều người cao niên dễ mắc phải vì sự suy yếu do thoái hóa thể chất nhất là não bộ của tuổi già gây ra. Nhưng cũng không nên quá tuyệt vọng, bởi vì vẫn có nhiều cách để ngăn ngừa hay nói đúng hơn là để hạ thấp nguy cơ có thể xảy ra.
Ngăn ngừa bệnh Alzheimer’s và những hình thái tương tự của bệnh mất trí nhớ là một thách thức khó khăn bởi vì những thay đổi tàn phá trong não bộ bắt đầu xảy ra nhiều năm trước khi các triệu chứng đầu tiên hiển lộ, nhưng nó quá trễ để chận đứng quá trình thoái hóa.
“Có nhiều thuốc có thể điều trị các triệu chứng bệnh nhưng không phải bệnh lý cơ bản,” theo bác sĩ thần kinh James Galvin, giám đốc của Trung Tâm Toàn Khoa về Sức Khỏe Não Bộ của Đại Học Florida Atlantic University, cho biết. “Thuốc có thể tạo ổn định cho các triệu chứng để người bệnh giảm nó xuống thấp hơn, nhưng tiến trình bệnh thì không thể đảo ngược.”
Galvin, người điều hành nghiên cứu và dự án lâm sàng được gọi là Chương Trình Ngăn Ngừa Bệnh Mất Trí Nhớ tại trường Boca Raton, nói thêm rằng ông không kỳ vọng chữa lành đối với các điều kiện tiêu hao tâm trí ngay liền. “Đa phần, các bác sĩ không thể chữa lành các bệnh; chúng tôi chỉ có thể điều trị chúng,” theo ông cho biết. “Vì thế thật là không thực tế để nghĩ rằng chúng tôi đột nhiên sẽ tìm ra cách chữa lành bệnh Alzheimer’s. Nhưng có nhiều thứ chúng tôi có thể làm để ngăn ngừa nó, hay ít nhất để trì hoãn sự bắt đầu của nó.”
Mất trí nhớ được định nghĩa như là sự suy giảm nhận thức mà nghiêm trọng đến mức nó cản trở khả năng của người bệnh tự chăm sóc chính họ. Dù có hơn 150 loại bệnh mất trí nhớ, Alzheimer’s là loại thông thường nhất, chiếm hơn một nửa tổng số các trường hợp bệnh. Khoảng 5.7 triệu người Mỹ đau đớn vì bệnh Alzheimer’s, và con số đó được dự đoán sẽ tăng cao hơn 14 triệu vào năm 2050. 3 loại bệnh mất trí nhớ phổ biến nhất khác là mạch máu, cơ thể Lewy, và thoái hóa trán thái dương. Những hình thức bệnh khác chỉ chiếm 1% các trường hợp cộng lại.
“Các nhà nghiên cứu sử dụng bệnh Alzheimer’s như là mẫu bởi vì nó là phổ biến nhất và chúng ta biết về nó nhiều nhất,” theo Galvin cho hay. “Bệnh lý bắt đầu trong não bộ từ 10 tới 20 năm trước khi các triệu chứng bộc lộ, do đó theo thời gian người bệnh phát triển triệu chứng dễ nhận biết, lúc đó thì đã có nhiều thiệt hại rồi.”
Bệnh lý tàn phá đó xuất hiện dưới dạng ‘mảng bám amyloid’ và ‘rối trí tau’, tích tụ các protein bất thường làm rối loạn trí nhớ và nhận thức. Nhưng các loại thuốc thử nghiệm được sử dụng để làm giảm các protein đóng cục đã không làm bất cứ điều gì để đảo ngược sự suy yếu và các nhà khoa học vẫn đang tranh luận liệu chúng thực sự là nguyên nhân hay hậu quả của bệnh Alzheimer’s.
“Có sự giả định rằng bạn đã thoát khỏi mảng amyloid, bạn có thể thoát khỏi bệnh,” theo bác sĩ thần kinh về hưu và là nhà nghiên cứu hàng đầu Russell Blaylock cho biết. “Như thế họ tìm nhiều cách để giảm mảng amyloid, và không một cách nào có vẻ có công hiệu giảm bệnh Alzheimer’s. Nghiên cứu gần đây nhất cho thấy sự kết hợp giữa viêm mãn tính và độc tính kích thích (các phản ứng thái quá đối với chất dẫn truyền thần kinh glutamate) trong não bộ đã gây ra bệnh.”
Bất kể nguyên nhân là gì, chờ đợi các triệu chứng xuất hiện trước khi cố gắng điều trị bệnh mất trí nhớ là “giống như đóng cửa chuồng sau khi ngựa đã chạy mất,” theo Galvin cảnh báo. Như thế bạn có thể làm gì để ngăn ngừa mất trí nhớ? Galvin và nhóm nghiên cứu của ông ấy tập trung vào nỗ lực giảm các yếu tố rủi ro, gồm cuộc sống lạc quan và giải quyết các điều kiện y tế khác có thể góp phần vào bệnh mất trí nhớ. Các chuyên gia khác chỉ ra rằng mất trí nhớ là bệnh của tuổi già, và họ đề nghị uống các loại thuốc bổ đặc biệt có thể làm giảm tiến trình lão hóa trong tế bào não. Ngoài ra cũng còn có các cách điều trị thay thế gây tranh cãi sôi nổi.
Sau đây là các bước có thể thực hiện.
Trước hết, bắt đầu tiến trình ngăn chận bằng việc chụp hình. Chỉ giống như chụp hình vú hay ruột để kiểm tra ung thư, bạn có thể có đánh giá sức khỏe về não mà xác định các yếu tố nguy cơ đối với bệnh mất trí nhớ. Trong Chương Trình Ngăn Ngừa Mất Trí Nhớ của Galvin, các đối tượng trải qua việc đánh giá toàn diện gồm chụp hình não, thử nghiệm tủy sống và máu, đặt câu hỏi về lối sống, và những phương tiện khác để xác định các thứ liên kết với việc làm giảm sức khỏe não bộ.
“Chúng tôi có thể tìm thấy các dấu hiệu viêm tăng cao, như thế chúng ta nghiên cứu điều gì có thể gây ra chúng và lập kế hoạch để giảm chúng,” theo Galvin cho biết.
"Hồ sơ Lipid, mức vitamin D và các sản phẩm phụ độc hại của quá trình chuyển hóa protein, như homocysteine, là những ví dụ về những điều có thể làm tăng nguy cơ nhưng được điều trị. Bạn không thể làm gì về bệnh lý, nhưng bạn có thể làm gì đó về các yếu tố rủi ro."
Ngay cả khi không có tất cả các xét nghiệm đó, bác sĩ của bạn có thể xác định một số yếu tố nguy cơ của bạn. Điều quan trọng là xác định và điều trị các vấn đề y tế khác có thể thúc đẩy sự phát triển của chứng mất trí. Các tình trạng như tiểu đường, béo phì, huyết áp cao, cao mỡ trong máu và thậm chí là bệnh nướu răng gây viêm đều thuộc loại này và có thể có ảnh hưởng sâu đậm.
“Tiểu đường làm tăng gấp đôi nguy cơ mất trí nhớ; béo phì làm tăng gấp bốn nguy cơ mất trí nhớ,” theo Bác Sĩ Gary Small, Giám Đốc Trung Tâm Sống Thọ tại Đại Học UCLA, cho biết. “Các vấn đề về tim mạch cũng quan trọng. Cái gì xấu cho tim thì cũng xấu cho não.”
Như thế cách tối nhất để giảm nguy cơ mất trí nhớ là gì? “Cách tối nhất để ngăn ngừa bệnh mất trí nhớ là chọn cha mẹ tốt của bạn,” theo Galvin. “Ngay dù nhiều thứ bệnh này không phải do di truyền, gene của bạn có đóng vai trò trong đó. Bạn cũng hoc nhiều thói quan từ cha mẹ của mình, nếu họ có thói quen không lành mạnh, thhì bạn hầu như cũng có như vậy.”
Điều quan trọng khác nữa là chọn thức ăn. Nhiều chuyên gia đề nghị chế độ ăn uống theo kiểu Địa Trung Hải phần lớn thay thế thực phẩm được chế biến và thịt đỏ với bằng thực phẩm nguyên chất và cá hay thịt gà.
Các loại quả mọng, rau lá xanh đậm, rau có màu sắc rực rỡ và trà xanh đặc biệt chứa nhiều chất chống oxy hóa giúp bảo vệ não chống lại căng thẳng oxy hóa và viêm. Rebecca Katz, tác giả của cuốn sách ‘The Healthy Mind Cookbook’, đếm một số thực phẩm bổ não hàng đầu của cô là cá béo như cá hồi, quả óc chó, các loại đậu, bơ, dầu ô liu, củ cải đường và củ nghệ. Chất xơ và thực phẩm lên men cũng rất quan trọng vì có một hỗn hợp lành mạnh của vi khuẩn trong ruột có thể giúp giảm viêm trong não.
Nghiên cứu này được đăng trong tạp chí Alzheimer's & Dementia cho thấy rằng sự kết hợp chế độ ăn uống Địa Trung Hải và DASH (Dietary Approach to Systolic Hypertension) giúp “hạ thấp sự suy sụp nhận thức theo tuổi già.” Katz nói thêm rằng, “Dinh dưỡng là một trong những chìa khóa cho sức khỏe não mà chúng ta nắm giữ trong tay mình.”
Tập thể dục là một trụ cột khác của sức khỏe nói chung cũng chuyển thành sức khỏe não bộ. "Khi bạn tập thể dục, trái tim sẽ bơm thêm oxy và chất dinh dưỡng lên não", theo Small, tác giả của bản tin The Health Health Report, cho biết. "Cơ thể bạn tạo ra yếu tố tế bào thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF), mà kích thích tế bào thần kinh của bạn mọc lên các nhánh, do đó các tế bào não có thể giao tiếp hiệu quả hơn.”
Trong khi chế độ ăn uống kiêng cữ và tập thể dục có lẽ là hai yếu tố lối sống có ảnh hưởng nhất liên quan đến phòng ngừa chứng mất trí nhớ, các yếu tố khác cũng góp phần hữu ích. Lưu ý rằng điều quan trọng là giảm căng thẳng thông qua thiền định hoặc các phương tiện khác, ngủ đủ giấc (ít nhất bảy giờ mỗi ngày), kết nối xã hội và kích thích tinh thần bằng cách thực hiện các câu đố, học những điều mới, thực hành các kỹ thuật ghi nhớ, và thử thách trí não của bạn.
Sò Hến Có Tính Trợ Dương Hay Không
31/05/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
Tại Canada, dân sống ven sông và vùng duyên hải thường có thú đào vớt nghêu sò. Tuy nhiên,ít có người ý thức rằng các loại thủy sản này đôi khi có thể là mối đe dọa cho sức khỏe.
Hằng năm, chuyện ngộ độc nghêu sò vẫn thấy thỉnh thoảng xảy ra, nhất là vào dịp hè, mùa mà mọi người đổ xô ra những bãi cát và bãi biển để vui chơi và nghỉ mát.
Có người nói rằng sò hến rất bổ cho sex, hổng biết có phải vậy không?
Image result for sò hến và sex
Canadian Raw Oysters Are Behind a Norovirus Outbreak in California
Chem chép-Mời bạn làm bậy một miếng (Photo NTC, 2013)
Cũng như bất cứ loài thủy sản nào khác, sò ốc cũng có thể bị nhiễm bởi các loại vi khuẩn như E. coli spp, Salmonella spp,Vibrio vulniculus,Vibrio parahaemolyticus và các loại virus như virus Norwalk (Norovirus) và virus bệnh viêm gan A.
Ăn phải các loại đồ biển nấu không thật chín chúng ta có thể bị rối loạn tiêu hóa.
Nước cống rãnh của các thành phố, nước phế thải xuất phát từ các khu kỹ nghệ, cũng như từ các vùng canh tác nông nghiệp đều rất bẩn và chứa vô số mầm bệnh, hóa chất độc và các kim loại nặng, v.v…Các chất nầy sẽ nhiễm và tích tụ vào nghêu sò.
Nói chung, tại Canada nghêu, sò, ốc và hến thường chứa một nồng độ hóa chất ô nhiễm dưới mức quy định của chánh phủ. Tuy vậy, tại tỉnh bang British Columbia, nghêu sò có thể chứa một nồng độ cadmium khá cao. Chất nầy thường thấy hiện diện trong môi sinh.
Nhiễm cadmium ở mức độ cao và trong thời gian lâu dài sẽ làm tổn hại đến thận.
Sau hết, sò hến cũng còn có thể bị nhiễm độc tố thiên nhiên (biotoxins) hiện diện tự nhiên trong một số rong biển vi sinh mà người ta gọi là những phiêu sinh vật (plankton).
Báo chí bên nhà có cho biết là một vài loại ốc có thể chứa độc tố một cách tự nhiên hoặc chúng cũng có thể là ký chủ trung gian của nhiều loại giun sán có thể lây nhiễm sang cho người.
Ngược với vi khuẩn,virus và ký sinh trùng, nhiệt độ cao hoặc sự nấu nướng không thể hủy diệt được độc tố thiên nhiên.
Độc tố Phycotoxin do phiêu sinh vật nhóm Dinoflagellate sinh ra. Sò bị nhiễm lúc chúng lọc nước biển để kiếm ăn, tuy vậy chúng lại không bị hề hấn gì cả. Triệu chứng ngộ độc xuất hiện 30 phút sau khi ăn. Đó là cảm giác tê môi, tê mặt, tê các ngón tay ngón chân như có kiến bò bên trong, chóng mặt, nhức đầu, nói năng không mạch lạc, mạch đập nhanh và thở khó. Trường hợp nặng có thể chết vì liệt hô hấp.
Domoic acid, độc tố làm mất trí nhớ (Amnesic shellfish poisoning, ASP)
Loại độc tố này do phiêu sinh vật nhóm Diatom gây nên. Sò bị nhiễm độc qua việc lọc nước biển để kiếm ăn. Triệu chứng bắt đầu xuất hiện ra trong vòng từ 30 phút đến 6 giờ đồng hồ sau khi ăn. Bệnh nhân bị nôn mửa và tiêu chảy. Nếu sức khỏe đã bị suy yếu sẵn hoặc bị yếu thận từ trước, thì triệu chứng sẽ trầm trọng hơn.
Năm 1987, ngộ độc ASP đã xảy ra tại tỉnh bang PEI (Canada) và đã làm 4 người thiệt mạng, tất cả nạn nhân đều là những người cao tuổi.
Sò hến bán ngoài chợ có bảo đảm hay không?
Sò hến bán tại các chợ Bắc Mỹ và Âu Châu nếu đã được tồn trữ kỹ lưỡng thì không có gì nguy hiểm gì hết, vì chúng đuợc đánh bắt tại những vùng nước an toàn.
Tuy vậy, những ai kém sức khỏe thì không nên đụng tới các món nầy...
6 mai 1999, Quebec đã ban bố quy định mới về vấn đề nhãn hiệu. Nếu chẳng may, sò hến mua ngoài chợ gây ngộ độc thì nhờ những ký hiệu mã vạch bar code trên bao bì, sẽ giúp cơ quan trách nhiệm truy nguyên nguồn gốc của sản phẩm để có thể ban bố những biện pháp thích nghi nhằm bảo vệ sức khỏe công cộng.
Chem chép nuôi, tươi giá ngày 8/8/2013 tại siêu thị IGA , Montréal 908gr/ giá 3.99$
Cẩn thận khi mua sò hến.
Nên mua tại các siêu thị hay tại những cửa hàng đáng tin cậy chuyên bán thủy sản mà thôi, tránh mua từ những người bán dạo.
Sò hến phải được tồn trữ ở nhiệt độ 4 độ C hoặc thấp hơn.
Nên mua những hàng còn tươi.
Muốn biết sò còn sống hay đã chết thì cứ gõ nhè nhẹ lên con sò, nếu hai nắp vỏ từ từ khép lại thì đó là sò còn sống, ngược lại nếu hai nắp vỏ vẫn còn hé mở tức là sò đã chết rồi. Sò tươi không được có mùi hôi thúi và khi nấu chín, sò phải mở hai nắp vỏ ra, nếu hai nắp vẫn còn đóng chặt thì có nghĩa là sò đã chết trước khi nấu.
Tại Canada và Hoa Kỳ không nên quá tin vào lời truyền tụng trong dân gian
Tại Canada và Hoa Kỳ dân chúng thường hay nói rằng chúng ta chỉ nên ăn sò hến vào những tháng có chữ R mà thôi, thí dụ như January, February, March, April, September, October, November và December. Ngoài các tháng nầy ra thì không nên ăn sò hến.
Thực tế cho thấy, các tháng không nên ăn như May, June, July, August đều là những tháng nóng và trùng vào mùa sinh sản của sò hến. Vào mùa nầy, sò rất nhỏ con, thịt trở nên mềm nhũng trắng đục như sữa không mấy hấp dẫn cho lắm. Có phải bởi những lý lẽ nầy, mà người ta khuyên chúng ta đừng nên ăn sò hến vào mùa hè chăng?
Trong thực tế, chuyện ngộ độc sò hến vẫn có thể xảy ra vào bất luận tháng nào trong năm.
Làm sao biết được sò hến đã bị nhiễm độc?
Bằng mắt thường không thể nào biết được sò có bị nhiễm độc hay không. Độc tố không phải chỉ hiện diện ở trong một hai con.
Có thể nói rằng tất cả sò trong bịt đều có chứa độc tố vì lẽ dễ hiểu là chúng đều được vớt từ một vùng ô nhiễm.
Chỉ có phương pháp xét nghiệm của phòng thí nghiệm mới có thể cho chúng ta biết được sự hiện diện của độc tố mà thôi.
Cơ quan Kiểm tra Thực Phẩm Canada (CFIA) thường xuyên theo dõi và cho thử nghiệm tình trạng ô nhiễm độc tố của cả trăm vùng duyên hải phiá Đông cũng như phía Tây Canada. Nếu độc tố được phát hiện ở mức độ cao trên mức quy định, thì lập tức Cơ quan Pêches et Océans Canada sẽ được thông báo và cho ban hành ra những biện pháp thích nghi nhằm ngăn cấm việc đánh bắt tất cả các loại nghêu sò trong vùng ô nhiễm nói trên trong một thời gian nhất định cho đến khi tình trạng nhiễm độc được cải thiện.
Không đào vớt sò hến trong phạm vi 200 mét từ cầu tàu hay bến cảng. Không được đào bới tìm sò hến tại những nơi có bảng cấm. Nếu có sự nghi ngờ thì hãy gọi:
*Vùng British Columbia:
- Pêches et Océans Canada Tel: 1- 604 666-2828 hoặc
Biểu đồ chu trình phát triển Angiostrogylus cantonensis (Photo CDC)
Tác nhân gây bệnh là giun tròn Angiostrongylus cantonensis thường xảy ra tại vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Bệnh thỉnh thoảng được báo cáo tại các quốc gia vùng biển Caraibe mặc dù giun A. cantonensis được tìm thấy trong chuột vùng Cuba, Puerto Rico và Dominican Republic. (theo CDC).
Giun trưởng thành (adult) sống trong phổi chuột và ấu trùng(larvae) được thấy sống ký sinh trong một số ốc dưới nước hay trên cạn.
Ăn thịt ốc nấu không đủ chín, sẽ bị nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis.
Vào đường tiêu hóa, ấu trùng xuyên qua thành ruột, theo đường máu để lên định vị tại vùng não và gây ra bệnh viêm màng não tăng bạch cầu ái toan (eosinophilic meningitis) rất nguy hiểm.
Ngoài vấn đề nhiễm giun, một vài loại ốc bên Việt Nam cũng có thể chứa độc tố nguy hiểm.
Sò hến có bổ cho sex không?
Cũng như hầu hết các loài thủy sản, sò hến chứa nhiều vitamines (B12), khoáng chất và acid béo omega-3.
Sò hến có nhiều protein, nhưng chứa ít chất béo bão hòa vì vậy nên ít calories. Sò hến được xem như một loại thực phẩm bổ dưỡng, cung cấp cho cơ thể các khoáng chất thiết yếu như chất sắt (Fe), chất kẽm (Zn), selenium, chất đồng (Cu)...Chất kẽm rất cần thiết cho việc sản xuất tinh trùng cũng như rất tốt cho hoạt động sinh dục.
Vài năm trước đây, tháng 6/2007 báo chí có đưa tin một nhà chuyên nuôi sò bên Úc châu quảng cáo là ông ta có sản xuất ra được sò Viagra.
Không biết ông ta nuôi dưỡng sò bằng cách nào thì không thấy nói đến?
Nhà bào chế Viagra là công ty Pfizer đã không mấy bằng lòng nên đã kiện nhà kỹ nghệ nuôi sò và cấm họ sử dụng tên thuốc Viagra trong kinh doanh sò hến. Nói tóm lại đây chỉ là một lối quảng cáo thương mại táo bạo mà thôi. (chú thích thêm: Viagra thứ thiệt đắt giá lắm, mua tại các pharmacy Canada 15$/viên)
Thủy sản là những món ăn rất khoái khẩu, rất bổ dưỡng, mà có người còn nói nó còn có tính trợ dương thuộc loại ông xơi bà khen đáo để!.
Có đúng như vậy hay không thì người gõ chịu thua. Cuối tuần nầy, các bạn thử tự mình làm bậy vài ký sò huyết thí nghiệm xem thế nào.
Theo đa số dân nhậu thì họ đều nghĩ là ăn sò thì có tác dụng làm nóng máy cho cái vụ kia lắm.
Có lẽ là hình dáng con sò trên dĩa gợi lại trong trí bạn nhậu hình ảnh của con chem chép hay cái đồ mà bạn hằng quen thuộc chăng?
Khoa học gọi đó là tự kỹ ám thị giúp bạn “hot” với điều kiện là súng đạn còn tạm xài được kìa.
Hèn chi không những các ông mà cả các bà đều rất ưa chuộng cái món thủy sản nầy, âu cũng là chuyện dễ hiểu mà thôi.
Thành phần các chất dinh dưỡng trong 100gr sò (tương đương với 8 con sò): 68kcalories
Tại Canada, có rất nhiều nơi chúng ta có thể đi đào vớt sò ốc một cách an tâm.
Ngộ độc sò hến rất hiếm thấy xảy ra tại xứ này.
Sò là món rất được nhiều người ưa thích, dù vậy trong thực tế chúng ta cũng chỉ thỉnh thoảng mới ăn mà thôi.
Bên nhà thì có hơi khác…Bất kỳ con gì, sống ở đâu, sông, biển, ao, hồ, mương, rạch ô nhiễm cũng đều có thể được dùng làm món ăn hết. Mà ngon thiệt. Ở bất cứ nơi đâu cũng đều có quán nhậu để bà con có thể lai rai ba sợi với bạn bè. Chỉ cần đọc thực đơn là đủ chảy nước miếng rồi.
Nhưng, nếu nấu nướng không cẩn thận, thậm chí đôi khi người ta còn ăn sống một vài loại thủy sản nào đó nữa, nên lỡ có mắc bệnh cũng dễ hiểu mà thôi.
Nghêu, sò, ốc, hến là những loại thủy sản rất phổ biến trong ẩm thực Việt Nam.
Cơm hến là một món tiêu biểu của miền Trung. Quảng Nam là vùng rất nổi tiếng về nghề cào hến dưới sông.
Nghề nầy tuy rất cực nhọc và lạnh lẽo vì phải trầm mình dưới nước, nhưng cũng nuôi sống được nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Mì gói du nhập vào Việt Nam từ những năm 60 và đã trở nên khá phổ biến trong mọi tầng lớp của xã hội miền Nam.
Mì gói còn được gọi là mì ăn liền, mì ramen, mì hành, mì cua, mì hai tôm, Kung Fu, Vifon, v,v…có thể được xem như fast food kiểu VN ăn ở nhà.
Mì có nhiều dạng: gói, hộp, ly, tô.
Nó là vị cứu tinh của những kẻ độc thân, của sinh viên, học sinh nghèo, của người quá bận rộn, của kẻ làm biếng nấu nướng mất công…và trong trường hợp vợ chồng bận gây lộn.
Trong thực tế, mì gói thường dùng như một món ăn chơi cho đỡ dạ (snack)
Video:
How Instant Noodles Are Made: Pilot Line At The Wheat Marketing Center
Có điểm hơi bất lợi là mì gói chứa quá nhiều bột ngọt,chất béo bão hòa (xấu), chất béo trans. Nên coi chừng gói dầu, mỡ và gói muối trong bao. Gần đây có tin mì gói có chứa hóa chất độc nữa.
Trong quá trình sản xuất, mì được chiên trong những loại dầu bão hòa rẻ tiền chẳng hạn như dầu cọ (palm oil) và chất béo trans. Gói gia vị và gói muối chứa nhiều loại hóa chất, trong dó phải kể đến bột ngọt monosodium glutamate chứa nhiều sodium.
Những ai đang có vấn đề cao máu hypertension hoặc bạn nào đang uống thuốc trị trầm cảm antidepressant medication(MAO inhibitors), hay đang bị chứng suy tim ứ huyết congestive heart failure cần tránh thức ăn có nhiều muối sodium và bột ngọt vì nguy cơ huyết áp sẽ tăng.
Health concerns
Instant noodles are often criticized as being unhealthy or junk food. A single serving of instant noodles is high in carbohydrates but low in fiber, vitamins and minerals. Noodles are typically fried as part of the manufacturing process, resulting in high levels of saturated fat and/or trans fat. Additionally, if served in an instant broth, instant noodles typically contain high amounts of sodium. The current U.S. Recommended Dietary Allowance of sodium for adults and children over 4 years old is 2,400 mg/day. Some brands may have over 3,000 mg of sodium per package in extreme cases. Instant noodles and the flavoring soup base also contain high amounts of monosodium glutamate. …
The most recent controversy concerns dioxin and other hormone-like substances that could theoretically be extracted from the packaging and glues used to pack the instant noodles. As hot water is added, it was reasoned that harmful substances could seep into the soup. After a series of studies were conducted, various organizations requested changes in the packaging.[5][6]
A recent concern on consumption of fried foods is the possible presence of oxidation products from poor maintenance of the oil. This can be a concern if the cooking oil is not maintained at the proper temperature or changed as often as necessary. (Wikipedia)
Mì gói có thể chứa hoá chất cấm
Tin sốc: Hầu hết mì ăn liền ở VN chứa chất độc phá hủy AND
“Cơn sốc vì thực phẩm có chứa DEHP còn chưa qua thì mấy ngày gần đây người tiêu dùng lại thêm một phen "rùng mình" vì phát hiện mì gói có chứa phẩm màu Tartrazine (E102), có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe, nhất là với nam giới và nhiều tác dụng phụ nguy hiểm…
E102 là chất màu tổng hợp có màu vàng chanh, không chỉ được sử dụng phổ biến ở mì ăn liền mà còn có trong đồ uống, rượu, nước giải khát, snack v.v…”(ngưng trích Phunutoday.vn)
vb_mi_goi_saigon__2_-large-content
Mì “Gấu Đỏ”, nhãn mì quảng cáo rầm rộ nhất trên TV và thường khuyến mãi, rút số…(Photo VB)
SAIGON (Tổng hợp) -- Cơn sốc vì thực phẩm có chứa hóa chất DEHP còn chưa qua thì gần đây người tiêu dùng ở Việt Nam lại thêm hoang mang vì phát hiện mì ăn liền (gọi tắt là mì gói) có chứa phẩm màu tartrazine (ký hiệu: E102) là nguy cơ gây nhiều chứng bệnh.
Theo bài “Ảnh hưởng độc hại của tatrazine đến khả năng sinh sản...” (ngưng trích - Báo nguy: Nhiều Mì Gói Ở VN Chứa Phẩm Màu Độc Hại-Vietbao.com 31/7/2011)
Mì gói và tôi
Dù ở trong nước hay dù ở ngoài nước, mì gói cũng đã chiếm một chổ đứng khiêm nhường trong tập tục ăn uống của đa số chúng ta.
Tiện một cái, là giữa đêm, lỡ có đói bụng bất tử thì xuống bếp lôi ra một gói mì, chế nước, bỏ vô thêm vài con tép, tôm khô, môt chút rau cải nếu có, xong đút vô lò vi ba microwave, nhấn 5 phút là sẽ có một tô mì nóng thơm phức. Cam đoan ngon hơn cái BigMac giá 5$.
Nếu có đầy đủ gia vị và nguyên liệu, như thịt xá xíu, tôm, tép, cua, hành ngò chúng ta có thể biến mì gói thành một món cao lương mỹ vị không bằng.
blank
Thấy thèm không?? Mì ăn liền ở nhà, vốn 1$ (photoNTC 20/8/2014)
.
Mì gói là một món ăn quá bình dân và phổ thông của người mình từ hơn 50 năm nay.
Tại Canada, năm 2012 một thùng mì giá lối 14$. Gói nhỏ xíu, ăn không ngon bằng mì hành 20 năm về trước.
Không phải thưong hiệu nào mình cũng ăn được. Có loại ăn không ra hồn, nhưng cũng có loại thì “ăn được” (huề vốn!)
Giữa cái big Mac và tô mì gói, thì người gõ xin chọn mì gói, vì cái gu Á châu và nhứt là nó lúc nào cũng gần gũi với mình theo vận nước nổi trôi.
Nhớ lại ngày xa xưa, lúc đi thụ huấn quân sự khóa đặc biệt giáo chức 9 tuần tại Trung tâm huấn luyện Chi Lăng (Thất Sơn) năm1968 và Quang Trung (Hóc Môn) 1969, đôi khi tác giả cũng hay lết xuống cantine làm bậy một tô mì ăn liền nóng hổi, ngon ơi là ngon, hơn cả cơm nhà bàn nhiều… nhiều lắm.
Trong 4 năm (81-85) lúc đi học lại thú y tại Université de Montréal, tác giả phải ở xa gia đình những ngày trong tuần. Mì gói hầu như là món ăn của mình vào buổi ăn trưa.Trong locker của mình luôn luôn có dự trử mì gói và bánh cracker để lúc nào cần thì có …nghèo mà!
Tụi bạn bè da trắng có vẻ rất ngạc nhiên vì nó không thấy mình ăn gì khác hơn là “cơm hộp” (đựng trong hộp plastic) và mì Ramen- Encore du riz, toujours le riz et le Ramen.?!
Tối, thức khuya gạo bài, mình thường hay đói bụng bất tử nên không gì hơn là làm bậy một tô mì hành trước khi đi ngủ.
Thời gian còn đi làm việc, trong giờ nghỉ ăn trưa, tác giả cũng đã từng ăn mì gói liên tục và dễ dàng trong nhiều tuần lễ cho nó tiện, nhưng chịu thua nếu bị bắt buộc phải ăn McDo, pizza hoặc bánh mì sandwich mỗi ngày trong vòng một tuần.
Như lúc đi học thú y ở ST hyacinthe, Québec , trong tủ locker của tác giả tại cơ quan, lúc nào cũng thủ sẵn mì gói và bánh cracker Premium plus v,v…để cầm cự. Thứ sáu cuối tuần thì bạn bè làm việc chung thường góp tiền order pizza ăn tại bureau và đấu láo với nhau…ÔI cái thời vàng son, tự do là lúc còn đi làm việc các bạn ơi…!
blank
Khi đói bụng, ăn đở Bánh crackers non salé (Photo NTC 2013)
Ngày nay đi du lịch, không ít bà con mình cũng thường mang theo năm ba gói mì phòng khi “hữu sự”, khi “kiến cắn bụng giữa khuya” tại những nơi xa lạ. Có nhiều loại mì, như Ricey và Mama có thể xé gói ra ăn liền như ăn chip, khỏi cần phải nấu.
Có người còn mách nếu ăn phở (ở nhà nấu) hay ăn mì gói mà bỏ thêm một chút cơm nguội vào tô lúc ăn thì nó ngon hơn?
Thậm chí trên chuyến bay của Cathay Pacific, giữa khuya, cô tiếp viên duyên dáng hỏi hành khách có muốn ăn một cái snack không thì mình xin cô em cho mình instant noodle please.
Chứng Chán Ăn Do Thần Kinh
22/05/2020
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
BS Nguyen Y Duc
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Đây là rối loạn về sự tiêu hóa mà tiếng Anh gọi là Anorexia nervosa với đặc tính là bệnh nhân từ chối ăn.Người bệnh có quan niệm sai về cơ thể của mình và ám ảnh sợ bị mập vì họ cứ nghĩ là mình mập mặc dù khi cân thì lại là gầy.
Đa số bênh nhân là phụ nữ.Trong một nghiên cứu tại Rochester, Minesota, tỷ lệ của bệnh chán ăn là cứ 100,000 bệnh nhân thì khoảng 270 là nữ và nam chỉ có 22.Nói chung số người nữ ở Hoa Kỳ bị bệnh thay đổi từ một cho mỗi 100 tới một cho tới mỗi 250. Vào khoảng giữa năm 1970, một nghiên cứu trong số những người nữ trẻ của trường tư đưa tới kết quả tương tự:cứ một trong số 100 nữ sinh quá 16 tuổi bị chứng anorexia nervosia.
Anorexia nervosia rất hiếm khi thiếu thực phẩm hoặc trong thời kỳ đói ăn nhưng nó không đưa tới một bệnh mới.Chứng này là một mốt nhất thời phổ thông được xác định bởi các bác sĩ người Anh và Pháp vào năm 1870.Nó trở thành mốt rất phổ thông vào các năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và khi, như là nhà bỉnh bút về sức khỏe Jane E. Brody thấy rằng có một sự gia tăng bất chợt của nữ giới khi họ biết về chứng này và chọn nó như một cách để diễn tả xúc động và rối loạn xã hội.
Có điều chắc chắn là các rối loạn xã hội và tâm lý có thể tạo ra Anorexria-nhất là nhấn mạnh về vẻ quyến rũ mảnh mai, dáng người trẻ trung và không thích mập./.
Viêm Ruột Dư
Cho tới năm 1886, khi ruột dư được biết là có thể giải phẫu để điều trị thì trước đó nhiều người chết vì viêm phúc mạc do cục thịt dư bị vỡ.
Sau năm 1902, viêm ruột dư lại tăng lên khi các bác sĩ biết rằng viêm ruột dư là bệnh nhiễm và bắt đầu biên thuốc xổ để giảm bệnh táo bón được coi như gây ra viêm ruột dư.
Vào thập niên 1930, khi thuốc xổ được không dùng tới thì số tử vong lại bắt đầu giảm. Hiện nay mỗi năm có khoảng 250,000 cắt ruột dư và từ 15,000 tới 20,000 tử vong.mỗi năm.
Ngày nay rủi ro của viêm ruột dư là một trong 15. Viêm ruột dư thường thấy ở lớp tuổi từ 10 tới 30, ít khi xẩy ra ở lớp tuổi quá già hoặc quá trẻ.Nam cũng như nữ đều bị viêm bằng nhau.
Cánh tay
Trái banh ném đi tùy thuộc vào chiều dài của cánh tay người cầu thủ ném bóng và sức mạnh ở vai.Cánh tay càng dài và vai càng mạnh thỉ trái banh càng đi xa.
Ngay khi sinh ra, cánh tay nam giới thường dài hơn là cánh tay nữ giới.
Tới tuổi dậy thì, nam giới có được cái lợi thứ hai là khi testosterone làm vai lớn lên và cơ bắp ở lồng ngực dầy ra. Kết quả của kích thích tố tăng trưởng này là phần trên của cơ thể mạnh hơn phần cơ thể của nữ giới tới từ hai tới ba lần.Vì thế tại sao nữ lực sĩ lại có vẻ kém nam lực sĩ ở các môn thể thao như nói về sức mạnh về ném.
Khi một toán bóng chầy cần một cầu thủ ném bóng mạnh và nhanh thì chỉ cần cơ thề chứ không phải giống tính để quyết định nam giới là lựa chọn thích hợp hơn là nữ giới./.
Ngon Ngọt Chết Người
21/05/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
**-Disclaimer-(Chối từ trách nhiệm) tác giả không phải là y khoa BS, và cũng không phải là dược sĩ – Bài viết chì là một tổng kết từ các tài liệu khoa học ngoại quốc đáng tin cậy mà thôi-Mọi nghi vấn xin các bạn vui lòng tham khảo với bác sĩ gia đình
****
Nguyen Thuong Chanh 01CẢNH ĐÓ NGƯỜI ĐÂY LUỐNG NGẬM NGÙI
Nguyen Thuong Chanh 02Trong tiệm Café bánh ngọt rất quen thuộc bên nhà SAIGON.góc Bùi chu-HTT
Thèm ngọt là một nhu cầu thiết yếu của cơ thể, để củng cố năng lượng.
Carbohydrate hay Glucide là những hợp chất bao gồm đường (sugar), bột đường hay tinh bột (amidon, starch) và chất xơ (fibre).
Những chất nầy rất cần thiết cho chúng ta để sống. Nhưng ngọt quá đôi khi cũng nguy hiểm lắm đó!
VIDEO: High Fructose Corn Syrup (Michael Pollan. New York Times) 15 phút
Đây là đường thiên nhiên theo nghĩa thông thường mà chúng ta hiểu…Những chất tạo vị ngọt nầy được thấy trong bánh, kẹo, chè, chocolat hoặc trong các loại nước ngọt loại regular như Pepsi, Coca, Soda, Seven Up, v.v…
Đường mía (saccharose), đường trái cây (fructose), đường sữa (lactose) là những thí dụ điển hình.
Trong ruột, đường đơn giản chuyển thành glucose và được hấp thụ vào máu một cách rất nhanh chóng.
Khi đường huyết glycémie tăng, lập tức tụy tạng sẽ tiết ra insuline để giúp tế bào hấp thụ glucose vào đồng thời kéo đường huyết xuống mức bình thường.
Đường phức tạp hay đường hấp thụ chậm
(Sucre complexe ou à absorption lente)
Vị hơi ngọt và gồm có bột đường (tinh bột) và các chất xơ.
Tinh bột được thấy trong bánh mì, khoai Tây, cơm, gạo, ngũ cốc và trong các loại pasta như nouille, macaroni, spaghetti, v.v...
Chất xơ có nhiều trong rau, cải, hoa quả, đậu, trong hạt dẻ (walnuts) cũng như trong các loại cereal làm từ hạt thô (wholemeal grain, grain entier)...
Đường phức tạp cần sự tác động của một số enzymes để chuyển ra thành glucose rồi mới được hấp thụ vào máu. Bởi lý do nầy, cho nên đường huyết tăng lên chậm hơn so với trường hợp đường đơn giản.
Đường phức tạp rất cần cho các hoạt động biến dưỡng của cơ thể.
Đường đơn giản và đường phức tạp không thể thay thế lẫn nhau được.
Một gram đường cho ra 4 calories. Năng lượng dư thừa sẽ được dự trữ dưới dạng glycogen và mỡ... Ăn ngọt thường xuyên quá, mập ra cũng dễ hiểu mà thôi.
Tình trạng béo phì dễ dẫn đến các bệnh tim mạch, tăng huyết áp và tiểu đường. Ngoài ra, việc ăn nhiều đường, kể cả đường thiên nhiên như đường trái cây và mật ong cũng vậy, có thể đưa đến tình trạng hư răng nếu không chịu súc miệng đánh răng kỹ lưỡng.
Ăn nhiều bánh kẹo ngọt cũng có thể làm chất triglyceride (một loại chất béo xấu) trong máu gia tăng.
Người bị bệnh tiểu đường có thể dùng đường được không?
Theo l’Association Canadienne du Diabète, thì họ vẫn có thể ăn ngọt được, nhưng phải ăn một cách điều độ chừng mực và vừa phải thôi. Họ cũng có thể thay thế đường bằng cách ăn trái cây, rau cải, hoặc bằng các sản phẩm của sữa.
Trong một ngày họ không được ăn quá giới hạn tối đa 10% calories từ các thức ăn ngọt.
Biết rằng 1gr đường cho 4 calories...
Trên đây là những chỉ dẫn chung chung mà thôi. Bệnh trạng mỗi người mỗi khác, nên chỉ có bác sĩ điều trị mới có thẩm quyền quyết định.
Theo khuyến cáo của American Heart Assocation: Added sugar (đường thêm vào):
- đàn ông tối đa:không nên dùng hơn 9 muỗng café /ngày
- đàn bà tối đa: không nên dùng hơn 6 muỗng café/ ngày.
Thực tế cho thấy người Mỹ dùng lối 22 muỗng added sugar/ ngày.
Some of the common added sugars include: corn syrup, dextrose, corn sweetener, maltose, malt syrup, glucose, molasses, sucrose, syrup, and high fructose corn syrup. These ingredients are commonly found in candies, cakes, cookies, and soft drinks. Other sugars, the naturally occurring ones such as fructose and lactose, can be found in fruit and dairy products, respectively.
Các nhà khoa học Âu Mỹ đều nói rằng, không có mối liên hệ trực tiếp cho thấy đường là nguyên nhân gây ra bệnh diabetes type II. Nhưng về mặt sinh lý học, rất có thể đường gây ra bệnh diabetes một cách gián tiếp, chẳng hạn như trong trường hợp chúng ta thường tiêu thụ những thức ăn thức uống có chỉ số đường huyết (glycemic index) cao, khiến tụy tạng bị mệt mỏi và trở nên yếu đi, vì phải thường xuyên tiết insuline.
Gs Jim Mann thuộc Đại Học Otago, New Zealand cũng nhận định rằng đường gây béo phì và tình trạng nầy sẽ dẫn tới bệnh diabetes. Mập bụng (abdominal obesity) là một mối nguy cơ (risk factor) làm xuất hiện bệnh tiểu đường type II..
Trong thực tế, rất khó tách rời ảnh hưởng của đường trong bệnh diabetes. Thêm đường vào thức ăn thức uống chỉ làm tăng calories ăn vào chớ chẳng làm gia tăng giá trị dinh dưỡng của sản phẩm.
Các khảo cứu về bệnh tiểu đường những năm gần đây nghi ngờ các loại nước ngọt có gaz như Coca, Soda, Pepsi, Seven Up, v.v...đã dự phần quan trọng trong sự xuất hiện của bệnh diabetes.
Vậy thì đường fructose có tốt hơn không?
Đây là đường trích từ trái cây.
Fructose ảnh hưởng ít hơn các loại đường khác trong việc làm gia tăng đường huyết, vì vậy từ trước tới giờ các bệnh nhân tiểu đường thường được khuyên nên sử dụng đường fructose để tạo vị ngọt, nhưng ngày nay thì fructose mất dần sự sáng chói của nó.
Được biết rằng ảnh hưởng của fructose không mấy quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết, vì nó không kích thích sự tiết insuline, và tai hại hơn nữa là nó làm tăng hàm lượng loại chất béo xấu triglyceride lên.
Sự gia tăng triglyceride trong máu là một yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Thí nghiệm trên súc vật cho thấy fructose còn làm tăng sự kháng insuline (résistance à l’insuline), đồng thời cũng làm thay đổi hiện tượng dung nạp glucose (tolérance au glucose) và hiện tượng cao máu.
Thí nghiệm lâm sàng sơ khởi thực hiện ở người, còn cho biết fructose làm tăng cân do tác dụng xấu trên hàm lượng của hai hormones liên hệ tới sự no (satiété) và sự đói (appétit)... Đó là hormones leptine và ghréline.
Fructose có chỉ số đường huyết (index glycémique hay IG) rất thấp, lối 22 nên làm tăng glucose trong máu lên chậm so với đường sucrose (đường mía) có IG lối 67.
IG là vận tốc chuyển hóa của một chất bột đường carbohydrate ra thành glucose để được hấp thụ vào máu. IG càng cao, đường huyết càng tăng nhanh.
Về mặt tạo năng lượng, 1 gram fructose cho ra 3 Calories trong khi 1 gram sucrose tạo ra 4 Calories.
Trong cơ thể, năng lượng dư thừa sẽ được chuyển ra thành mỡ.
- Fructose thiên nhiên trong trái cây chiếm một tỉ lệ không đáng kể. Nếu sử dụng một cách bình thường sẽ không hại gì đến sức khỏe.
Trong rau quả, fructose (và một vài loại đường khác) luôn luôn phối hợp với một số dưỡng chất khác để giúp cho việc hấp thụ được dễ dàng.
Lấy thí dụ, các chất xơ trong trái cây làm chậm lại sự hấp thụ của đường, cũng như sự hiện diện của các bần tố oligoéléments như chrome, magnesium sẽ giúp vào tác động chuyển hoá của đuờng.
- Fructose tự do là dạng đường được cho thêm vào (added sugar) trong thức ăn thức uống để tạo vị ngọt. Người ta sử dụng đường Fructose cao của sirop bắp (high fructose corn sirup hay HFCS).
Tại Canada, kỹ nghệ thực phẩm cố tình tránh né danh từ HFCS, và họ thay thế bằng cụm từ Sugar/glucose-fructose trên các nhãn hiệu của sản phẩm.
HFCS được cho thêm vào sản phẩm để tạo vị ngọt nhưng không có kèm theo những dưỡng chất khác để giúp vào tác động chuyển hóa.
Tại Hoa Kỳ và Canada lối 40% thức ăn và thức uống biến chế công nghiệp đều có chứa đường fructose cao high fructose corn syrup(HFCS).
HFCS có thể được chế biến thành nhiều loại đường có độ ngọt khác nhau bằng cách cho thay đồi tỉ lệ glucose-fructose.
Thông thường, trái cây có chứa một tỉ lệ glucose - fructose bằng nhau 50/50, nhưng hầu như kỹ nghệ nước ép trái cây thường có khuynh hướng cho thêm fructose cao HFCS trong sản phẩm để giúp tăng độ ngọt lên.
HFCS được thấy trong trong các loại nước ngọt như Coca, Pepsi, Seven Up, soda, iced tea,chocolate,yogurt , bánh mì sandwich, ketchup, tomato soup, cereal ăn sáng, thỏi cớm ngọt (energy bars, barres tendres, chewy granola bars), trong các loại bánh kẹo, và trong mật ong (honey) được pha HFCS một cách bất hợp pháp v,v…
Tóm lại món nào ngọt là có đường high fructose corn syrup trong đó.
Nguyen Thuong Chanh 04Canada Pepsi : Glucose –Fructose có nghĩa là HIGH FRUCTOSE CORN SYRUP(Photo NTC)
Nguyen Thuong Chanh 05Coke regular Hoa Kỳ chứa High Fructose Corn Syrup
Nguyen Thuong Chanh 06Nước ngọt soda chứa toàn đường Fructoe (high fructose corn syrup)(Photo Vietbao.com)
Nguyen Thuong Chanh 07Ảnh hưởng của đường high fructose corn syrup trên sức khỏe
Một sự tiêu thụ bình thường fructose sẽ không có hại gì nhưng ngược lại, một sự thặng dư hay tiêu thụ quá tải đường fructose dưới dạng sirop bắp hay HFCS sẽ là nguyên nhân của nhiều thứ bệnh tật như tim mạch, béo phì và tiểu đường type 2.
Thông thường thì chất bột đường carbohydrate tiêu thụ sẽ được chuyển ra thành đường dơn glucose. Vào máu, glucose sẽ kích thích tuyến tụy tạng pancreas tiết hormone insuline giúp đem glucose vào tế bào để tạo năng lượng đồng thời cũng giúp vào việc điều chỉnh đường huyết glycémie ở mức độ thích hợp.
Riêng fructose được chuyển hóa tại gan. Một sư tiêu thụ quá nhiều fructose sẽ làm cho gan không chu toàn được nhiệm vụ tạo năng lượng và thay thế vào đó là sự tạo ra những chất mỡ xấu triglycerides và được thải vào máu. Đây là yếu tố nguy cơ gây ra bệnh tim mạch.
Cá loại thức uống ngọt như Soda, Coca, Pepsi, 7 Up đều có chứa rất nhiều đường fructose dưới dạng HFCS.
Từ hơn 20 năm nay HFCS đã được kỹ nghệ thực phẩm sử dụng hết sức rộng rãi trong thức ăn thức uống sản xuất theo lối công nghiệp.
Vào cơ thể HFCS sẽ tạo ra các chất reactive carbonyls và làm tổn hại tế bào bêta của tụy tạng (nơi sản xuất insuline) và dẫn tới bệnh tiểu đường type 2.
Các thí nghiệm sơ khởi ở người cho thấy, fructose cũng làm tăng cân, gây béo phì do tác dụng xấu trên liều lượng của hai loại hormones liên hệ đến sư no satiety và sự đói bụng appetite.
Đó là hormone leptin và hormone ghrelin.
Một khảo cứu của Gs Luc Tappy, Lausanne Univ School of Biology & Medicine Thụy Sĩ cho thấy ảnh hưởng chuyển hóa đường fructose có hơi khác biệt tùy theo giới tính.
12 tham số parameters chuyển hóa fructose (như tăng triglyceride, tăng glucose...) xuất hiện nhanh hơn ở nhóm thanh niên so với nhóm phụ nữ tham dự trong cuộc thí nghiệm.
Nguyen Thuong Chanh 08Sản phẩm có chứa high fructose corn syrup
Vậy tại sao có sự thặng dư fructose?
Vấn đề thặng dư ở đây là do fructose tự do mà ra. Đó là fructose cao của sirop bắp (HFCS) được cho thêm vào thức ăn hoặc thức uống để tạo vị ngọt.
Trước những năm 70, Hoa Kỳ sử dụng toàn đường mía và đường củ cải (sucrose- saccharose), nhưng từ những năm 80 chánh phủ Hoa Kỳ cho tăng giá đường lên và đồng thời họ cho tài trợ ngành trồng bắp trong xứ. Nhờ đó mà giá bắp được giữ thật thấp.
Kỹ nghệ thực phẩm không còn cách nào khác hơn là phải chọn nguồn đường rẻ tiền được sản xuất từ bắp. Đó là lý do xuất hiện đường fructose cao của sirop bắp (HFCS).
HFCS là một loại đường dễ hòa tan, dễ sử dụng và đồng thời nó cũng có thời hạn dùng (shelf life) dài hơn so với các loại đường khác.
Đường hóa học và các chất thay thế đường
Đây là những chất có vị ngọt nhưng tạo ra rất ít calories.
Người ta chia chúng ra làm 2 nhóm:
1)- Nhóm có tính dinh dưỡng (édulcorants nutritifs):
Xylitol, Sorbitol và Mannitol, là những chất được làm từ trái cây. Người ta còn gọi những chất nầy là đường rượu (sucre alcoolique). Chúng có vị ngọt, nhưng lại có thêm tính nhuận trường nữa. Ăn trên 30g/ngày có thể bị tiêu chảy...
Mỗi gram của các chất này chỉ cho ra có 2 calories, trong khi đường cát cho ra 4 calo.
Các loại đường này không mấy phổ biến cho lắm, chỉ thấy được sử dụng trong một số sản phẩm, chẳng hạn như trong kẹo chewing gum.
2)- Nhóm không có tính dinh dưỡng (édulcorants non nutrtifs):
Những chất này không tạo ra năng lượng, nhưng lại có vị ngọt gấp cả trăm lần đường cát. Chúng thường được đựng trong các bao nho nhỏ màu xanh, vàng hoặc hường để chúng ta bỏ vào café.
Kỹ nghệ thực phẩm cũng sử dụng các loại đường hóa học này để tạo vị ngọt cho các loại sản phẩm nhược năng lượng (hypocaloric) và các thực phẩm diet. Đây là những chất tổng hợp hóa học để tạo vị ngọt (édulcorant synthétique) và thường được phân chia ra làm hai nhóm:
* nhóm thế hệ thứ nhất: saccharine, sodium cyclamate, aspartame.
* nhóm thế hệ thứ nhì: sucralose (Splenda), acésulfame-potassium (Sunnet, Sweet One, Acek)), neotame, alitame.
Thông dụng nhất, là chất aspartame mà chúng ta thấy trong các thức ăn thức uống diet.
Tuy nhiên cũng có dư luận cho rằng ăn thường xuyên các loại đường hóa học sẽ không tốt cho sức khoẻ.
Phe chống đối đường hóa học quả quyết rằng chất aspartame gây nhức đầu (migraine) cũng như có thể gây cancer não.
Được biết một phần aspartame sẽ chuyển thành methanol trong bao tử và chất nầy sau đó sẽ phân hóa thành formaldehyde và acide formique là chất độc cho hệ thần kinh.
Họ còn nói là trong cơ thể aspartame còn bị phân cắt ra thành acide aspartique và phénylalanine.
Đối với những người bị bệnh phenylketonuria (PKU), là một bệnh rất hiếm thấy do sự lệch lạc của một gene, khiến cơ thể không tạo ra được enzyme để khử chất phenylalanine, do đó chất nầy tăng nhiều trong máu và gây tổn hại đến hệ thần kinh trung ương.
Thí nghiệm cho thấy, chất saccharine (Twin, Sweet N Low) ở liều lượng thật lớn nó có thể gây cancer bọng đái ở loài chuột.
Ngày nay tại Canada, saccharine và sodium cyclamate (Sucaryl, Twin sugar) bị rút ra khỏi danh sách các chất phụ gia và bị cấm sử dụng trong kỹ nghệ, nhưng vẫn còn được cho phép sử dụng với liều lượng nhỏ để chúng ta tự bỏ vào café.
Phe cổ võ chất aspartame lẽ đương nhiên là giới kỹ nghệ thực phẩm, chánh phủ, FDA, Health Canada, các trung tâm nghiên cứu trong các đại học, National Cancer Institute Hoa Kỳ, Tổ chức Autorité Européenne de Sécurité des Aliments EFSA, Tổ chức y tế thế giới OMS, tổ chức Lương nông FAO thuộc Liên Hiệp Quốc...tất cả đều khẳng định là trong điều kiện sử dụng bình thường, chất aspartame rất an toàn cho sức khỏe cũng như chẳng có mối liên hệ nào với bệnh cancer cả.
Trên thế giới, aspartame (Nutrasweet, Equal, Egal, Canderel...) được sử dụng rộng rãi trong khoảng 6000 loại mặt hàng và sucralose có mặt trong lối 4000 sản phẩm.
Ý niệm về sự an toàn hoặc không an toàn của đường hóa học rất thay đổi tùy theo từng quốc gia... Alitame được sử dụng tại Mexico, Úc châu và Trung quốc, nhưng Canada và Mỹ thì cấm... Riêng neotame, một chất tạo vị ngọt anh em với aspartame thì được FDA Hoa kỳ chấp thuận từ 2002, nhưng Canada thì chưa cho phép.
Nói chung, các nhà dinh dưỡng đều đồng ý là các loại đường hóa học có thể giúp ích một phần nào cho con người, nhưng không thể xem chúng là một giải pháp thỏa đáng để giúp ta có một hàm răng tốt, để giảm cân, hoặc để kềm hãm bệnh tiểu đường.
Năm 2007 vừa qua, Bs Ramachandran Vasan, Hoa Kỳ, trong khảo cứu thực hiện trên một nhóm 9000 ngàn người trung niên đã cho biết, là có sự liên quan mật thiết giống như nhau, giữa sự tiêu thụ mỗi ngày trên một lon 355ml sođa loại thường regular tức là có chứa đường và loại diet (không có đường sugar free), cùng với sự xuất hiện của hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome) như tăng mỡ vùng bụng, cao máu, tăng hàm lượng chất béo xấu triglyceride, giảm hàm lượng chất cholesterol tốt HDL và tăng đường huyết.
Tất cả các nhà khoa học kể cả Bs David Jenkins (St Micheael’s Hospital Toronto), đều bối rối trước khám phá quá mới mẻ nầy «Before we were saying take the diet drink and you’re ok. Now we’re saying: watch it»...
Bs R.Vasan người thực hiện cuộc khảo cứu đăng trong tạp chí Circulation: Journal of the American Heart Association, cũng thắc mắc trước kết quả. Ông ta đưa ra giả thuyết rất có thể những người uống một hai lon soda một ngày cũng là những người có khuynh hướng tiêu thụ nhiều calories, nhiều chất béo bão hòa và nhiều trans fat (là những chất béo xấu). Đồng thời, họ cũng là những người ù lì ít chịu vận động
Một khảo cứu khác do Ts Susie Swithers (Purdue Univ. Indiana), đăng trong tạp chí Behavioral Neuroscience cho biết thức ăn thức uống nhược năng nghĩa là chỉ có chứa đường hóa học saccharine hoặc aspartame đều có khuynh hướng làm xáo trộn chức năng nhận biết calories của não.
Bình thường khi ăn ngọt thật sự, cơ thể sẽ nhận biết ngay số calories ăn vào để sau đó kích động biến dưỡng để đốt số năng lượng thặng dư và tăng thân nhiệt lên.
Trường hợp sử dụng đường hóa học saccharine để tạo cảm giác ngọt giả tạo, nhưng chẳng có calorie nào kèm theo, thì cơ thể tăng nhiệt độ rất ít và vì thế sẽ bị mập ra. Thí nghiệm đã được thực hiện trên loài chuột. Đây là một giả thuyết rất mới mẻ và trái ngược với ý niệm cũ là việc sử dụng các chất tạo vị ngọt hóa học như aspartame, saccharine để giúp giảm cân.
Chuyện nước soda (nước ngọt có gas)
Thời đại nào, xã hội nào cũng thế, vị ngọt vẫn dễ hấp dẫn mọi người.
Các loại nước giải khát như Coke, Pepsi, Seven Up, Soda v,v...đều có chứa rất nhiều đường, mà đặc biệt là đường sirop bắp gọi lả high fructose corn sirup HFCS
Rất nhiều khảo cứu cho biết việc sử dụng quá thường xuyên các loại nước ngọt là nguyên nhân dẫn đến tình trạng béo phì, bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường loại 2 tại Hoa Kỳ.
Tại Canada, từ 1977 đến 1997 số lượng nước ngọt có gas tiêu thụ đã tăng vọt lên 100% ở trẻ em theo tỉ lệ cứ bốn em thì có ba em uống các loại nước có gas mỗi ngày.
Trong một số lớn các em, các loại nước giải khát có gas đã chiếm lối 10% calories trong tổng số nhu cầu năng lượng cần thiết trong ngày.
Đây quả là một tỉ lệ quá lớn đối với một loại thức uống chả có ích gì cho sức khỏe hết nhưng ngược lại chúng còn chiếm chỗ các thức uống cần thiết như sữa và các loại nước ép trái cây.
Công ty Coca Cola và Pepsi Cola không ngừng tìm mọi cách để xâm chiếm thị trường, và khai thác thị hiếu hảo ngọt của dân chúng, đặc biệt là giới trẻ em, sinh viên học sinh.
Nước ngọt nhược năng (diet, zero calorie) có tốt không?
Thay thế nước ngọt có gas và nhiều đường bằng loại nước ngọt nhược năng hay nước kiêng (diet): Diet Coke , Coke zero, Diet Pepsi, v,v... là những thức uống chứa toàn chất ngọt hóa học như Aspartame,Acesulfame potassium không phải là một giải pháp tốt đẹp cho sức khỏe như mọi người thường lầm tưởng đâu
Nguyen Thuong Chanh 09Coke zero calorie cũng không khá vì hơn
Trên lý thuyết, nước giải khát diet, ít nhiệt năng sẽ giúp bớt đi tác hại của sự tăng cân, của bệnh tiểu đường loại 2 và của bệnh cao máu.
Thực tế cho thấy có thể là ngược lại.
Tạp chí Circulation số tháng 7/2007 của American Heart Association có đăng bài khảo cứu giá trị liên quan đến ảnh hưởng của hai loại nước ngọt, loại có đưòng và loại diet, trên sự xuất hiện của triệu chứng biến dưỡng (metabolic syndrome).
Theo định nghĩa, triệu chứng biến dưỡng được xác định bởi các dấu hiệu sau đây:
- Dư cân (nguy cơ béo phì).
- Có hàm lượng insuline cao (nguy cơ bênh tiểu đường).
-Có hàm lượng chất béo glyceride cao (nguy cơ bệnh tim mạch).
-Có áp huyết cao (nguy cơ bị tai biến mạch máu não)
Ngoài ra, hội chứng biến dưỡng còn làm tăng thêm nguy cơ bị đứng tim (heart attack), tiểu đường, hoặc có thể dẫn đến một vài loại ung thư.
Qua kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học nhấn mạnh thêm một điểm ở đây là dù cho có uống nước ngọt loại nhược năng (diet) đi nữa thì sự nguy hiểm cho sức khỏe cũng y như mình uống nước ngọt có đường (regular).
Tóm lại, sự tiêu thụ quá thường xuyên các loại nước có gas loại diet hay nước ngọt có đường regular cho thấy đó là một thói quen phản ảnh một lối sống không được lành mạnh cho lắm và rất có thể dẫn tới nhiều vấn đề sức khỏe trong tương lai.
Phòng bệnh không chỉ là việc thay thế nước ngọt có đường bằng loại nước diet mà thôi, nhưng còn cần phải sửa đổi lối sống của chúng ta chẳng hạn như chỉ dùng những thức ăn thức uống trong lành, tinh khiết, bỏ rượu, bỏ thuốc cũng như cần phải chuyên cần vận động và tập thể dục.
Khuyến cáo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới
Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO) và Cơ Quan Lương Nông Quốc Tế (FAO) vừa phối hợp nghiên cứu và đồng khuyến cáo mọi người nên cắt giảm số calories do đường mang vào xuống dưới mức 10%.
Nói một cách dễ hiểu, nếu tổng số nhu cầu của một người là 2000 calories/ngày, thì calories do đường tinh chế tạo nên phải thấp hơn 200.
Được biết, 1g đường cho 4 calories, 1 muỗng café đường có khoảng 16 calories và 1 lon Coke regular chứa lối 9 muỗng đường tương đương với 145 calories.
Mục đích của Cơ Quan Liên Hiệp Quốc là nhằm giúp ngăn chặn phần nào các loại bệnh mạn tính cũng như các bệnh về tim mạch, bệnh béo phì, bệnh tiểu đường và một vài loại cancer.
Để duy trì một sức khỏe tốt, chúng ta cần theo đuổi một chế độ dinh dưỡng ít dầu mỡ, ít đường, ít muối, không được dùng quá 2400 mg sodium hay 5g muối tương đương với 1 muỗng café muối ăn trong 1 ngày.
Đồng thời cần phải ăn nhiều rau cải, trái cây tươi và nên vận động, tập thể dục thường xuyên.
Chắc chắn là khuyến cáo nầy không làm hài lòng kỹ nghệ bánh kẹo và kỹ nghệ nước ngọt rồi. Một tài liệu khảo cứu mới vừa được phổ biến trong tạp chí JAMA, August 2004 cũng đưa kết luận là các loại nước ngọt classic hay regular như Coke, Pepsi, Soda….vì chứa quá nhiều đường nên là một trong nhiều nguyên nhân quan trọng làm gia tăng sự xuất hiện của bệnh tiểu đường type II ở Hoa Kỳ.
Kết luận
Các nhà dinh dưỡng thường xếp các loại thức ăn thức uống bán trong máy (bánh, kẹo, chip, chocolat, Coca Pepsi, v.v...) vào nhóm tạp phẩm (junk food), không bổ dưỡng gì hết vì chứa nhiều calorie rỗng (empty calorie), nhiều đường, nhiều caffeine, nhiều gaz và chất hóa học...nhưng lại không có hoặc có rất ít vitamins.
Trong xã hội ngày nay, nước ngọt có gas nói chung, loại có đường cũng như loại diet, có mặt khắp mọi nơi.
Sử dụng nước ngọt có gas là một việc quá dễ dàng, quá đơn giản đối với mọi người.
Vấn đề là việc lạm dụng, uống quá nhiều và quá thường xuyên các loại nước ngọt mới thật sự có hại.
Tóm lại, sự tiêu thụ quá thường xuyên các loại nước có gas loại diet hay nước ngọt có đường regular cho thấy đó là một thói quen phản ảnh một lối sống không được lành mạnh cho lắm và rất có thể dẫn tới nhiều vấn đề sức khỏe trong tương lai.
Phòng bệnh không chỉ là việc thay thế nước ngọt có đường bằng loại nước diet mà thôi, nhưng còn cần phải sửa đổi lối sống của chúng ta chẳng hạn như chỉ dùng những thức ăn thức uống trong lành, tinh khiết, bỏ rượu, bỏ thuốc cũng như cần phải chuyên cần vận động và tập thể dục./.
Tài liệu tham khảo:
*AHA Scientific Position on Carbohydrates & Sugars. Feb 10,2008
* Ravi Dingra MD et al. Soft drink consumption and risk of developing cardiometabolic risk factors and the metabolic syndrome in midle-age adults in the community. Circulation 2007; 116:480-488 http://circ.ahajournals.org/cgi/content/full/116/5/480
Ăn Nhiều Muối Không Tốt Cho Sức Khỏe
20/05/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
Muối là một chất rất cần thiết cho sự sống của con người. Hầu như trong tất cả mọi bữa cơm, dù chay hay mặn, đều có sự hiện diện của muối trong thức ăn.
***
-Disclaimer-(Chối từ trách nhiệm) tác giả không phải là y khoa BS, và cũng không phải là dược sĩ – Bài viết chì là một tổng kết từ các tài liệu khoa học ngoại quốc đáng tin cậy mà thôi-Mọi nghi vấn xin các bạn vui lòng tham khảo với bác sĩ gia đình.
Slash the Salt Part II – Do You Avoid Salt Shakers? You Probably ...
Muối cũng xâm nhập cả vào lãnh vực văn chương bình dân truyền khẩu của văn hóa Việt Nam, như “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư’’ (giáo dục con cái) hay “Miệng ăn mắm ăn muối, đừng có nói bậy bạ không nên’’ (có tính cách dị đoan, sợ đụng chạm đến thánh thần) hoặc bình dân hơn thì: “Còn trẻ quá mà tóc đã điểm muối tiêu rồi!” (có người dám nói là tại gì xấu máu) và chót hết là “Ông chủ tao đã đi bán muối rồi” (tức là ổng đã đi tàu suốt về bên kia thế giới).
Trong chuyện bếp núc thì có muối mè, muối tiêu, muối ớt, muối sả, hột vịt muối, cà muối, v.v…Còn có khát nước thì làm bậy một ly nước đá chanh muối cũng đã lắm.
Muối giúp cho món ăn bớt nhạt nhẽo, tăng khẩu vị và dễ bắt cơm hơn.
Trớ trêu thay ngày nay khoa học cho biết ăn quá nhiều muối sẽ không tốt cho sức khỏe.
Khô cá sặc bổi
KHÔ CÁ SẶC -Ngon nhưng rất nhiều muối
Muối và sức khỏe
Con người ta sống được là nhờ có muối, nói đúng ra là nhờ chất sodium trong muối...
Sodium rất thiết yếu trong việc điều hòa và giúp thể dịch trong cơ thể được giữ ở một mức độ thích nghi.
Sodium cũng còn dự phần trong các hoạt động biến dưỡng như giúp vào hoạt động dẫn truyền mệnh lệnh thần kinh, hấp thụ dưỡng chất của tế bào và co thắt của các cơ.
Nhu cầu về muối thay đổi tùy theo tuổi tác, trọng lượng cơ thể, nếp sinh hoạt và cũng tùy theo sức khỏe của mỗi người.
Ở người có sức khỏe bình thường, sự thặng dư sodium được thận loại bỏ ra ngoài theo nước tiểu và mồ hôi.
Ở một số người khác có tính nhạy cảm với muối, thì sự loại bỏ sodium như vừa kể không mấy dễ dàng nên tỉ lệ chất nầy không ngừng gia tăng lên mãi kéo theo hiện tượng giữ nước trong gian bào và trong máu.
Để thích nghi với sự gia tăng của một khối lượng máu quá lớn, tim phải làm việc nhiều hơn và mạnh hơn đồng thời hệ thống mạch máu phải giãn nở thêm hơn.
Áp lực lưu thông của máu trong huyết quản nếu vượt qua một giới hạn nào đó sẽ được xem là hiện tượng cao máu (hypertension).
Khi đo huyết áp, ở người bình thường giới hạn tối đa không nên vượt qua là 140/90. Đối với những người đang bị bệnh tiểu đường thì giới hạn tối đa là 130/80.
Trong các trường hợp huyết áp động mạch có vẻ cao hơn bình thường thì bạn cần phải đi khám bác sĩ.
Khoa học gọi hiện tượng cao máu là kẻ giết người thầm lặng vì lẽ nó giết ta một cách thật âm thầm, bất ngờ mà không báo hiệu ra một triệu chứng gì trước đó cả.
Tuổi tác càng cao thì sức đàn hồi của động mạch lại càng giảm vì vậy bệnh cao máu càng dễ xuất hiện, rất nguy hiểm vì có thể gây ra tai biến mạch máu não.
Tất cả các nhà khoa học trên thế giới đều chỉ đích danh sự thặng dư muối như là một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh cao huyết áp động mạch.
Để theo dõi huyết áp của mình một cách thường xuyên, bạn có thể mua một cái máy để mỗi ngày tự đo lấy huyết áp của mình. Bạn cũng có thể ghé vào bất kỳ những pharmacies lớn nào tại Hoa Kỳ hay Canada để nhờ họ đo giùm. Dịch vụ nầy hoàn toàn miễn phí!.
Các loại sodium
Muối (chlorure de sodium) dùng để nêm nếm thức ăn tức muối bọt, chỉ chiếm có một phần nhỏ trong tổng số lượng sodium thật sự được sử dụng, số còn lại bao gồm sodium hiện diện một cách tự nhiên trong thực vật rau cải, trái cây và cuối cùng là các loại sodium khác, không ở dưới dạng muối, được sử dụng để pha trộn vào thực phẩm biến chế. Mục đích chính là để giúp gia tăng phẩm chất, hương vị, màu sắc và để việc tồn trữ được kéo lâu dài hơn.
Ngoài việc sử dụng muối để bảo quản, sodium còn giúp sản phẩm tăng tính giữ nước và thêm cân. Đây là hiện tượng thường thấy trong kỹ nghệ sản xuất thịt nguội (charcuterie) thí dụ như saucisse, jambon, v.v...
Sự kiện thực phẩm công nghiệp có chứa nhiều muối như pizza, chip, BigMac, Gà KFC, đậu phọng rang, v.v…cũng khiến người tiêu thụ dễ bị khát nên có khuynh hướng cần phải uống nước và đương nhiên giúp nhà hàng tăng số bán các loại nước ngọt như Coke, Pepsi, Seven Up...
Các loại muối sodium nầy được gọi là muối ẩn (caché, hidden) rất nguy hiểm vì chúng ta không thể thấy chúng được.
Đó là Nitrite de sodium và erythorbate de sodium (dùng trong kỹ nghệ thịt nguội để ướp lạp xưỡng, saucisse, jambon, hot dog, nem…), Bicarbonate de sodium còn gọi là baking powder (men, bột nổi để làm bánh), Phosphate de sodium, Benzoate de sodium (trong trái cây khô), Citrate de sodium (trong các loại đồ hộp), Propionate de sodium (giúp bánh mì không bị mốc meo) và chót là Monosodium glutamate (MSG) mà chúng ta quen gọi là bột ngọt hay mì chín...Sản phẩm có chứa muối sodium nhưng ăn lại không thấy mặn. Chết người là chỗ đó!
Những chất gì có thể thay thế được muối?
Trên thị trường cũng có một số sản phẩm có thể được dùng để thay thế muối ăn (Salt substitute) vì chứa rất ít hoặc không có chứa sodium gì hết.
Thông thường thì những sản phẩm loại này lại chứa quá nhiều potassium nên không mấy thích hợp cho một số người.
Thức ăn nào có chứa nhiều sodium?
Hầu như thức ăn, thức uống nào cũng có chứa ít nhiều sodium hết.
Sodium có trong thịt, thịt nguội charcuterie (jambon, saucisse), thịt bacon, lạp xưỡng, tôm cá, trong đồ conserve, các lon súp, súp dưới dang bột (soupe déshydratée), các lon rau đậu, các lon nước ép trái cây như tomato juice, cocktail aux légumes V8, Clamato, trong thức ăn đông lạnh frozen meals, plats cuisinés, trong các loại fast food (pizza, hamburger, Gà KFC, McCroquettes…), trong tất cả các loại chip, mì gói, trong sữa, bơ, margarine, fromage, trong nước khoáng (mineral water) như Vichy celestin, cải chua choucroute (sauerkraut) và cả trong rau quả chẳng hạn như celeri...
Đối với các món ăn VN, món ăn nào mặn là có nhiều muối tức phải chứa nhiều chất sodium rồi, chẳng hạn như tương, chao, miso, nước tương, dầu hào, nước mắm, các loại cá khô, cá mặn, tép rang, tôm kho Tàu, tôm khô, khô bò, dưa mắm, các loại mắm như mắm nêm, mắm ruốc, mắm ruột, mắm kho, mắm chưng, bún mắm, thịt kho, cá kho, cua rang muối, hột vịt muối, xoài tượng chấm nước mắm đường, v.v…
Ăn nhiều sodium: hãy coi chừng!
Ở những người có sức khỏe bình thường thì cơ thể tự điều hòa lượng sodium sử dụng bằng cách thải bớt ra ngoài qua mồ hôi, qua nước tiểu và qua phân.
Đối với một số người khác, sự thặng dư sodium sẽ có hại cho tim thận, cũng như làm tăng huyết áp động mạch và có thể dẫn đến tai biến mạch máu não rất nguy hiểm…Tiêu thụ quá nhiều sodium sẽ kéo theo mất mát calcium qua thận và có thể dẫn đến tình trạng loãng xương (osteoporosis) và có nguy cơ dễ bị gãy xương.
Ngược lại, một tình trạng thiếu sodium rất hiếm thấy xảy ra do vấn đề ăn uống thiếu thốn. Thiếu sodium sẽ làm cho cơ thể bị mất nước (deshydratation). Sự kiện này có thể thấy xảy ra trong trường hợp xuất mồ hôi quá nhiều, bị tiêu chảy lâu ngày, hoặc do ói mửa dữ dội.
Ngoài ra việc uống quá nhiều thuốc lợi tiểu (diuretic) để mong giảm cân cho ốm cũng dễ đưa đến tình trạng cơ thể bị thiếu sodium...
Di truyền cũng có thể là một nguyên nhân gây ra huyết áp cao. Người ta ước lượng có từ 10 đến 30% dân số Bắc Mỹ có mang sẵn trong người gène cao máu.
Một số nhà khoa học thì cho rằng sodium không phải là nguyên nhân trực tiếp của vấn đề làm cao huyết áp. Nó chỉ làm trầm trọng thêm các yếu tố khác liên hệ với bệnh lý này mà thôi.
Ngoài muối ra, một số yếu tố khác như thuốc lá, nếp sống ù lì ít vận động, béo phì, stress cũng ảnh hưởng đến việc làm tăng huyết áp động mạch.Tháng tư, 2007 tạp chí Hypertension có đăng tin một nhóm khảo cứu gia thuộc Đại học Bristol Anh Quốc qua thí nghiệm trên chuột đã nhận diện được nguyên nhân gây hiện tượng gia tăng huyết áp. Đó là protein Junctional Adhesion Molecule-1 (JAM-1)...JAM-1 được tìm thấy trong lớp tế bào endothelium, tức các tế bào lát trong lòng các mạch máu não bộ. Sự kiện khá đặc biệt là JAM-1 có tác dụng giam giữ các bạch huyết cầu, gây nên tình trạng viêm sưng (inflammation) não, cản trở việc lưu thông máu và giới hạn nguồn cung cấp oxy trong đầu. Với khám phá quá mới mẻ nầy, các nhà khoa học nghĩ rằng trong tương lai phương cách trị liệu bệnh cao máu có thể sẽ được duyệt xét lại.
Vậy các bạn hãy cẩn thận. Ăn mặn quá có hại cho sức khỏe.
Cơ quan American Heart Association lúc trước khuyến cáo mọi người nên giảm số lượng muối dùng hằng ngày ở mức độ tối đa là 2300mg. Nay họ thấy số đó vẫn còn quá cao nên ấn định xuống còn 1500 mg sodium/ ngày, tức là lối ½ muỗng café muối. (muối chứa 40% sodium và 60% chlore)..
Trong thực tế, chúng ta tiêu thụ nhiều gấp bội số lượng trên.
The AHA’s previous suggestion – set forth in the U.S. Dietary Guidelines for Americans back in 2005 – called for a maximum upper limit of 2,300 milligrams of salt daily. Most experts now believe that this figure is much too high for the average person, and have lowered the official recommended limit to 1,500 mg per day
Tại Canada luật bắt buộc nhà sản xuất phải trộn thêm 0,01% iode (iodure de potassium) vào muối bán để ngừa bướu cổ (goiter, goître) do tình trạng tuyến giáp trạng thiếu iode gây ra.
Chế độ ăn kiêng, ít muối, ít sodium
Những ai đang có vấn đề tim mạch, huyết áp cao, thận yếu hoặc đang bị tiểu đường thì nên cẩn thận trong việc ăn uống. Không nên ăn mặn quá.
Tùy theo tình trạng của bệnh nhân mà bác sĩ sẽ kê ra các chế độ ăn kiêng thích hợp.
Trong thực tế, tại Canada và Hoa Kỳ luật bắt buộc nhà sản xuất phải nêu rõ số sodium chứa trong sản phẩm.
Nhãn hiệu dinh dưỡng Nutrition Facts ghi trên sản phẩm có thể giúp chúng ta có một ý niệm về sodium trong món hàng.
Nếu bạn muốn tính ra số lượng muối thì phải lấy số lượng sodium và nhân cho 2,5.
Thí dụ 500mg sodium X 2,5= 1250mg muối (hay 1,25g), và nhớ rằng đây chỉ là số lượng sodium của một phần chuẩn (par portion, per serving size) mà thôi.
Ăn càng nhiều thì số lượng muối càng tăng!
Tại Cadana, những nhãn hiệu sau đây có nghĩa là gì?
Cơ quan Kiểm tra thực phẩm Canada (CFIA), thông qua luật về nhãn hiệu đã quy định rõ rệt những từ ngữ được cho phép ghi trên bao bì, thí dụ:
*SANS SEL AJOUTÉ ou NON SALÉ: Không có thêm muối vào thức ăn. Các nguyên liệu sử dụng cũng không có chứa một lượng sodium nào đáng kể hết.
*FAIBLE TENEUR EN SEL ou EN SODIUM ou HYPOSODIQUE: Thức ăn chứa 50% muối (hay sodium) ít hơn sản phẩm bình thường và cũng không thể có hơn 40mg sodium cho 100g (nếu là cheddar cheese) cũng như không thể có hơn 80mg sodium cho 100g nếu là thịt hay cá. Được kể như sản phẩm để ăn kiêng (diète).
*SANS SEL ou SANS SODIUM: Không chứa hơn 5mg sodium cho 100g sản phẩm. Đây là loại thực phẩm chứa ít muối, ít sodium nhất.
Muối, một vấn đề lo nghĩ của nhiều quốc gia
World Action on Salt and Health (WASH) là một tổ chức quốc tế quy tụ trên 200 chuyên gia đến từ 48 quốc gia đã thực hiện một cuộc điều tra về hàm lượng muối của 30 sản phẩm giống nhau được bán trong các hệ thống siêu thị và nhà hàng Fast food trên khắp thế giới.
Riêng đối với Canada, kết quả thật đáng ngại vì có nhiều món hàng cho thấy có chứa một hàm lượng muối 17 lần nhiều hơn sản phẩm đồng loại bán ở các xứ khác. Thủ phạm bị nêu đích danh, đó là Kellog’s, Burger King và McDonald’s (Le Peril blanc, Protégez Vous, No Mai 2007).
WASH cho biết vấn đề muối không phải chỉ thuần túy giới hạn ở các món như hamburger, khoai Tây chiên hoặc vài loại céréale đâu, nhưng theo họ nguồn sodium quan trọng và đáng ngại nhất xuất phát từ các loại thịt nguội (charcuterie), thịt biến chế, chip, bánh biscuit, crackers, craquelins, bánh mì khô (biscottes), thức ăn làm sẵn đóng hộp (plats cuisinés), các loại sauces, soupe lon, bột soupe (soupe déshydratée).
Nói chung là muối nằm rất nhiều trong các loại thực phẩm biến chế công nghiệp.
Coi chừng, có khi một thức ăn giàu sodium không nhất thiết là phải có vị mặn lúc ăn vào đâu. Sodium có thể thấy trong bánh mì, trong các thỏi cớm céréale (barres tendres, chewy granola bars) và thậm chí…có thể thấy cả trong cà rem nữa (alginate de sodium).
Nhiều quốc gia trong khối Liên Hiệp Âu châu đã ý thức rằng sự thặng dư muối là một vấn đề y tế công cộng quan trọng...
Tại Finlande, sự can thiệp của chính phủ vào vấn đề muối từ những năm 1970 đến cuối những năm 1990 đã làm cho sự tiêu thụ muối giảm xuống còn 30%...
Ở Anh quốc, cơ quan Food Standards Agency năm 2003 đã tung ra chiến dịch nhằm kích động giới kỹ nghệ hạn chế lượng sodium trong một số mặt hàng chẳng hạn như trong các lon súp, rau cải đóng hộp, bánh mì và fromage. Mục đích chính của chiến dịch nhằm cắt giảm 1/3 số muối tiêu thụ ở mỗi người dân Anh xuống để không được vượt quá giới hạn 6gr/ngày...
Tại Pháp, cơ quan Agence Francaise de Sécurité Sanitaire des Aliments cũng rất quan tâm đến vấn đề muối trong các sản phẩm bán trên thị trường.
Năm 2002 chính phủ Pháp đã đặt ra một chương trình nhằm giảm thiểu sự tiêu thụ muối ở người dân xuống 20% trong vòng năm năm...
Tại Canada, dù rằng mối nguy cơ của muối đã quá rõ rệt rồi nhưng bộ luật Loi sur les Aliments et Drogues vẫn không xem muối như một chất phụ gia (food additive) nên không ấn định hàm lượng tối đa sodium dùng trong thực phẩm. Muối chỉ được xem như là một nguyên liệu bình thường mà thôi.
Tin ngược đời gây hoang mang cho mọi người (Nov 2011)
Mấy năm trước đây (Nov, 2011) có khảo cứu đưa ra nhận xét là ăn ít muối quá cũng không phải là điều tốt như người ta thường nghĩ.
Vậy các nhà khoa học cần phải xét lại đường lối quy định đâu là giới hạn muối có thể ăn vào mà không hại đến sức khỏe?
Lý do, giảm muối xuống một mức độ nào đó sẻ làm tăng hormones và một vài hợp chất. Sự kiện nầy có thể làm hại tim. Các chỉ số sau đây sẽ thay đổi.
-tăng cholesterol
-tăng Triglyceride (yếu tố nguy cơ của độy quỵ và tai biến mạch máu não)
-tăng enzym renin (là yếu tố liên hệ với áp huyết)
-tăng các hormones adrenalin và noradrenalin (có ảnh hưởng đến áp huyết và nhịp đập của tim)
Khám phá nầy đã gây ra nhiều tranh cãi từ các giới khoa học.
Từ lâu các nhà khoa học và CDC đều chỉ đích danh rằng thoái quen ăn quá mặn là nguyên nhân làm tăng áp huyết và bệnh tim mạch.
« People should not worry about salt intake » says JAMA. 10 nov 2011
Just last month, the Centers for Disease Control and Prevention released a report saying Americans in general consume way too much sodium, and it’s putting our health at risk. Numerous studies have shown excessive dietary salt can lead to hypertension (high blood-pressure), which is a major risk factor for stroke and heart disease.
But this new study—published online this week in the American Journal of Hypertension—reviewe d data from 167 studies comparing high and low sodium diets, and the results are surprising. In folks with normal or high-blood pressure, a low-sodium diet did bring blood pressure down. But a low-sodium diet also corresponded to significantly higher:
Cholesterol levels
Triglyceride levels (a factor linked to heart attack and stroke)
The enzyme renin (which is linked to high blood pressure)
The hormones noradrenaline and adrenaline (which can affect blood pressure and heart rate)
“In my opinion, people should generally not worry about their salt intake,” said study author Dr. Niels Graudal, of Copenhagen University Hospital in Denmark.
Graham MacGregor, a professor of cardiovascular medicine and chairman of the World Action on Salt campaign group, told Reuters he strongly disagrees with Graudal’s conclusions. The review “clearly shows once again that decreasing salt intake lowers blood pressure,” said MacGregor”.
Khảo cứu của Đại học Mc Master Canada, đăng trong The Journal of the Merican Medical Association cũng đưa ra một kết luận tương tợ : Ở những người đang bị bệnh tim và tiểu đường, ăn quá quá ít muối có thể làm gia tăng nguy cơ chết vì bệnh tim mạch.
Too little salt also a health risk, Mc Master study finds
McMaster University research has found that too little salt in the diet of people with heart disease and diabetes may increase the risk of cardiovascular death.
While doctors have warned for years that too much salt is not good, the Hamilton university study of 28,880 people with an increased risk of heart disease between 2001 and 2008 found that a daily intake of less than three grams — or slightly more than a teaspoon — can also increase the risk of heart attack and stroke.
The study was published Tuesday in the Journal of the American Medical Association.
“We did find that too little salt was associated with an increased risk,” said researcher Dr. Martin O’Donnell, an associate clinical professor of medicine at McMaster, told the Toronto Star in a telephone interview from Ireland, where he splits his research time.
The study found moderate sodium intake was associated with the lowest risk of cardiovascular events; high sodium intake with increased risk and low sodium intake with increased risk in cardiovascular deaths and hospital admission for heart failure.
Some studies have reported that low sodium intake can contribute to high blood pressure, which in turn may increase cardiovascular risks.
Trên đây chỉ là kết quả của khảo cứu xét qua một khía cạnh nào đó mà thôi.Vậy nên cẩn thận.
Ăn quá mặn một cách thường xuyên vẫn là việc chúng ta cần nên tránh.
Kết luận
Hình như dân VN mình có thói quen ăn rất mặn.
Không biết có phải đây là nhu cầu tự nhiên của các dân tộc ở những xứ nóng, nhất là đối với những người lao động nặng nhọc thường hay bị đổ mồ hôi nên mất nhiều sodium hay không?
Ngày xưa lúc còn nhỏ chúng ta cũng thường hay nghe người lớn nói là ăn mặn cho chắc da, chắc thịt, cho khỏe đó sao?
Muối, đường và mỡ là ba vấn đề quan trọng mà không ai lại có thể thờ ơ được.
Đây cũng là mối lo ngại chính yếu của những người lớn tuổi lúc ăn uống.
Đối với một số người kể cả tác giả, thói quen ăn mặn cũng không dễ gì một sớm một chiều mà bỏ đi được./.
Một Nghề Cao Qúy: Săn Sóc Cuối Đời
19/05/2020
Bác sĩ Thú y Nguyễn Thượng Chánh
GỞI ĐẾN CHÁU NNT VÀ ĐTPL
Bài nầy được viết nhờ sự hổ trợ của cháu NNT và đã được post trong NHIỀU BÁO online năm 2012 –Hôm nay Dượng tư post lại y nguyên để ghi nhớ đến công ơn của cháu (préposé aux benificières) và bà xã ĐTPL (infirmiere d’hopital)đã hy sinh rất nhiều trong bối cảnh KHÓ KHĂN VÀ VÔ CÙNG NGUY HIỂM CỦA ĐẠI DICH TOÀN CẦU COVID 19 –
Tất cã đại gia đình chúng ta tại Montreal, và bên VN cầu xin TRỜI PHẬT phù hộ cho gia đình cháu sớm trở lại cuộc sống bình thường-NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
blank
blank
***
Săn sóc bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời có mục đích nhằm giảm thiểu sự đau nhức và tạo cho họ có được một ít thoải mái trong những ngày còn lại trên dương thế.
Chẳng hạn như cấp thuốc morphine, thay tã, thay quần thay áo, làm giường, giúp bệnh nhân trong việc ăn uống, trong vấn đề vệ sinh, tắm rửa hằng ngày, v.v…
Đó là những công việc thường lệ của một nhân viên điều dưỡng (préposé aux bénificiaires)
Đây là một job không phải dễ, rất cực nhọc, đòi hỏi một sức chịu đựng cao, một sự cảm thông và nhẫn nại hơn người.
Không phải ai cũng có thể làm được hết đâu.
Làm việc trong một khung cảnh đượm vẻ thê lương, nặng nề, và đầy rẫy âm thanh rên xiết suốt ngày suốt đêm, những người làm công việc nầy cũng không dám nói là mình chai đá dững dưng được trước cảnh đời quá phủ phàng, kiếp nhân sinh quá phù du…
« Con người chịu đựng đớn dau và chết một mình-L’homme soufre et meurt tout seul » (Giáo sư Trần Quang Đệ)
Tạm trị và săn sóc cuối đời (palliative care and end of life care)
Tạm trị (palliative care) không có mục đích chửa trị nhưng chỉ giúp bệnh nhân bớt sự đau đớn về thể xác và tin thần (như lo âu và trầm cảm).
Săn sóc cuối đời (hospice care) luôn luôn có kèm theo palliative care.
Bệnh nhân có thể được tạm trị palliative care bất cứ trong giai đoạn nào của bệnh tật.
Serious illnesses can cause physical symptoms, such as pain, nausea or fatigue. You may also have psychological symptoms like depression or anxiety. The treatments for your disease may cause symptoms or side effects. Palliative care relieves symptoms without curing your disease.
Hospice care, care at the end of life, always includes palliative care. But you may receive palliative care at any stage of a disease. The goal is to make you comfortable and improve your quality of life.
Bs Nguyễn Văn Đích- Săn sóc những giây phúc cuối đời
Bộ phận săn sóc cuối đời trong bệnh viện là một tập hợp của nhiều ngành để có thể đáp ứng nhu cầu của người sắp ra đi cũng như của thân nhân.
Lấy thí dụ đơn vị săn sóc cuối đời tại bệnh viện Hôpital du Sacré Cœur de Montreal, làm việc thường trực 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần . Được chấp nhận vào đơn vị, là những người bị cancer giai đoạn cuối, bệnh nan y về thần kinh, về biến dưỡng và nội tiết. Đồng thời cũng có những người mắc các chứng bệnh ngặt nghèo nhưng họ chuộng giải pháp ở nhà. Họ đến để được bác sĩ điều chỉnh lại liều lượng thuốc giảm đau.
La grande majorité des personnes admises sur l’Unité est affectée par un cancer en phase terminal. Plusieurs autres patients combattent des maladies terminales non néoplasiques, des maladies neurologiques, des maladies métaboliques et endocriniennes. Également, certains patients vivant à domicile, souffrant de maladies sérieuses, visitent l’Unité dans le but d’ajuster leur médication afin de soulager la douleur éprouvée, ce qui leur permet une qualité de vie plus décente.
Đơn vị gồm có những ai?
Bénévoles (thiện nguyện viên)
Médecins et résidents (bác sĩ và Sv nội trú)
Psychiatre (bác sĩ tâm thần)
Infirmières (y tá)
Infirmières auxiliaires ( y tá phụ)
Préposés aux bénéficiaires (nhân viên điều dưỡng ?)
Commis intermédiaire
Infirmière gestionnaire d’épisode de soins
Animateur de pastorale (người lo lễ nghi công giáo)
Tâm sự của một nhân viên điều dưỡng
NNT là cháu của người gõ là một nhân viên điều dưỡng (?) ( préposé aux bénificiaires) tại một bệnh viện lớn ở Montreal.
Mấy năm trước đây, cậu ta làm việc tại một bộ phận có thể được gọi là hắc ám nhứt . Đó là tầng bệnh nhân « tạm trị » trong giai đoạn cuối đời (unité de soins palliatifs)
Đây là đơn vị của các bệnh nhân hết thuốc chữa và chỉ còn chờ ngày ra đi mà thôi.
Sau đây là đôi dòng tâm sự của cậu ta.
« …Cuộc đời đưa đẩy tôi làm nhân viên cho một bệnh viện ở Montreal.
Công việc của tôi là chăm sóc người bệnh, giúp cho họ có được những giây phút thoải mái để cuộc sống dễ chịu hơn trong những ngày cuối cùng của đời họ trên dương thế nầy.
Đó là những người bệnh già, bệnh nhân lú lẫn Alzheimer, những người bị ung thư vào giai đoạn cuối, những người mới vừa được mổ và những người bị bệnh tâm thần, v.v…
Bệnh nhân được tôi săn sóc nằm trong khoảng tuổi từ 18 đến 101 tuổi.
Có người còn rất trẻ, đâu trên dưới 20 tuổi mà phải chịu nằm chờ chết vỉ họ bị ung thư não. Có người bị cancer vú, mùi hôi thúi nồng nặc rất khó chịu, cần phải băng bó vết thương lại bằng những loại băng có chất than charbon activé cho đỡ hôi thúi. Họ không ngớt rên la cả đêm vì quá đau đớn và khó chịu. Họ thường năn nĩ để xin thuốc morphine để giảm đau.
Tôi thấy rất xót xa và cảm thương họ, nhưng biết làm sao bây giờ?
Biết chừng đâu một ngày nào đó mình cũng sẽ như họ?
Trước tình cảnh như thế, người ta tự hỏi chúng ta có nên giúp bệnh nhân chấm dứt sự đau đớn vô ích đó càng sớm càng tốt hay không? Nhưng đây chỉ là ý tưởng riêng tư của mỗi người mà thôi.
Tôi rất xót xa mỗi khi thấy những bệnh nhân còn quá nhỏ tuổi mà phải vô nằm trong soins palliatifs. Họ chưa hưởng được gì cả trong cuộc đời quá ngắn ngủi. Đối với các cụ lớn tuổi, 80- 90 tuổi trở lên thì dễ chấp nhận hơn vì họ đã thật sự sống cuộc đời họ rồi. Chết là sự giải thoát khỏi thân xác già nua xấu xí, khỏi bệnh tật, khỏi sự đau đớn của thể xác và tâm hồn…Các cụ đã sống quá đủ rồi.
Theo sự quan sát của mình, tôi thấy người bệnh rất sợ chết mà thân nhân cũng rất sợ xác chết nữa. Tôi muốn nói đến trường hợp của một cụ bà người Hoa, 85 tuổi. Con gái, 65 tuổi, của cụ bà thường phàn nàn sao đêm nào mẹ mình cũng không ngớt gọi mình làm mình không ngủ nghê gì được cả. Rồi có một đêm nọ, người con gái không còn nghe tiếng mẹ mình gọi nữa. Bà ta mới hỏi tôi và tôi cho biết là bà cụ đã đi rồi trong đêm qua. Người con mới xin tôi được mang găng tay và mặc áo blouse để vào nhìn mặt mẹ lần cuối cùng. Tôi nói bà cụ là mẹ thì cần gì phải mang găng và bận áo choàng làm chi. Bà cứ việc vô đi, không sao đâu, nhưng bà ta không dám, mà chỉ đứng ngoài cửa lấp ló ngó vào và run cầm cập. Mẹ mình mà mình cũng sợ!
Mỗi khi có người vừa mới tắt thở, bác sĩ liền được mời đến để chứng thật. Phận sự của tôi sau đó là tháo gỡ hàm răng giả của người chết ra và bỏ vào hộp. Thay bỏ quần áo cũ ra và bận vào xác chết một cái áo giấy, cuộn xác kỹ lưỡng vào một tấm nylon to. Để xác lên xe và đẩy xuống nhà xác. Thế là xong một kiếp người!
Mỗi khi có người quá vãng thì thân nhân đến viếng.
Dân Haiti thường đến rất đông, khóc la thảm thiết, kế đến là người Ý cũng khá đông.
Người mình thì ít hơn. Đôi khi cũng có gia đình rước thầy đến tụng niệm kinh vãng sanh, bằng không thì cũng để cassette hoặc CD Nam Mô A Di Đà Phật, hoặc kinh Tây Tạng.
Làm việc lâu năm trong soins palliatifs, đối mặt thường xuyên với cảnh bệnh hoạn và chết chóc, tôi phải tự tạo cho mình một cái vỏ khá cứng mới có thể chịu đựng được… NNT » (Ngưng trích)
Vấn đề trợ tử
Theo người gõ : Luật pháp Canada cấm ngặt việc trợ tử.Vấn đề nầy hiện nay vẫn còn là đề tài tranh luận tại các xứ Tây phương!
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xem sự sống là thiêng liêng nên họ đều cấm triệt việc giúp đỡ bệnh nhân sớm kết liểu cuộc sống. Đây là một vấn đề cấm kỵ, còn đang được tranh luận.
Ngày nay chỉ có Hòa Lan, Thụy Sĩ, Bỉ và tại một vài tiểu bang Hoa Kỳ như Washington, Oregon và Montana mới cho phép việc trợ tử physician aid in dying or PAD.
Nguyễn Thượng Chánh-Quyền được chết trong phẩm giá
Vài năm trước đây, báo chí có đề cập đến trường hợp của một người Mỹ gốc Việt rất giàu có, tài sản 100 triệu dollars nhưng chẳng may bị cancer vào giai đoạn cuối cùng, và bác sĩ nói ông ta chỉ còn sống khoảng ba tháng mà thôi.
Bệnh nhân bèn trở về quê hương để được chết bên đó. Theo lời khuyên bảo của một thầy tử vi, ông ta xin chánh quyền Việt Nam cho phép ông được chết (trợ tử) vào ngày giờ tốt hầu giúp cho con cháu được hưng phát sau nầy.
Biết rằng luật pháp Việt Nam cấm việc trợ tử.
Không biết với tài sản kết xù của mình, bệnh nhân có thể chết theo ý muốn được không?
Tiếp xúc với người sắp chết là việc rất khó và rất tế nhị. Chúng phải biết cảm thông với người bệnh vào giai đoạn cuối đời.
Nên ghi nhớ những điều sau đây:
khuyến khích họ thố lộ ra những ưu tư, ước muốn và nói lên những tình cảm sâu kín của họ.
Phải biết lắng nghe họ bằng đôi tai, bằng cặp mắt, và bằng cả con tim của mình và nhẹ nhàng nắm lấy tay họ.
Nếu họ còn nói được, cần phải nhẫn nại, nên dùng những chữ đơn giản, có thể không dùng ngôn từ mà chỉ sử dụng cử chỉ để trao đổi với người bệnh.
Phải biết tôn trọng bệnh nhân trong giai đoạn cuối đời. Không bao giờ nói với họ những câu vô duyên như: ngày mai sẽ khá hơn, hãy mĩm cười, tất cả sẽ tốt đẹp, đừng có lo, mọi sự rồi sẽ trở nên ổn thoả hết...
Đôi khi người sắp chết cần phải nói lên về sự chết hay về quá khứ của họ.
Phải tôn trọng họ và hãy lắng tai nghe họ nói.
Chúng ta cũng cần phải tôn trọng sự im lặng của người sắp chết.
Người sắp chết tuy nằm bất động nhưng họ vẫn còn nghe. Vậy tránh nói những lời không tốt đẹp, nói lén, hoặc đem chuyện gia đình ra gây gổ ào ào với nhau bên cạnh giường bệnh.
Elisabeth Kubler Ross (1926-2004) một nhà tâm lý học Hoa Kỳ, bà thường xuyên làm việc bên cạnh những bệnh nhân trong giai doạn cuối đời của họ. Bà đã đưa ra những điều nhận xét sau đây.
Người sắp chết thường phải trãi qua năm giai đoạn tâm lý sau đây :
Sự chối từ (denial)
Đây là một phản ứng tự nhiên. Họ không chấp nhận sự chẩn đoán chung quyết của bác sĩ. Họ rất lo sợ nên có phản ứng chối từ.
Sự giận dữ (anger)
Tại sao phải là tôi? Tại sao ngay bây giờ. Bất công quá. Bệnh nhân cố ý không chấp nhận sự thật và trở nên hung dữ đối với tất cả mọi người.
Thương lượng với sự chết (bargaining)
«Nếu tôi có chết cũng không thể nào trước ngày đám cưới của con gái tôi được. hoặc không thể nào chết trước ngày ra đời của cháu nội tôi được»
Giai đoạn chán đời, trầm cảm (depression)
Bệnh nhân rơi vào trạng thái buồn rầu cực độ trước sự chết quá hiển nhiên của mình trong những ngày sắp tới. Họ phải xa lìa và bỏ lại hết tất cả những gì thân thương nhất trên cõi đời nầy.
Chấp nhận cái chết (acceptance)
Cuối cùng họ trở nên bình thản hơn và chịu chấp nhận sự ra đi của họ.
Năm điều luyến tiếc thường thấy nhứt ỡ những người sắp ra đi.
Bonnie Ware là một nữ y tá Úc Châu làm việc bên cạnh những bệnh nhân cuối đời. Bà ghi nhận trong một quyển Regret of the Dying năm điều tiếc nuối hầu như giống nhau từ các bệnh nhân cuối đời.
For many years I worked in palliative care. My patients were those who had gone home to die. Some incredibly special times were shared. I was with them for the last three to twelve weeks of their lives.
1-Phải chi tôi có đủ can đảm sống cuộc đời như tôi muốn chớ không phải sống như người khác muốn cho tôi.
I wish I'd had the courage to live a life true to myself, not the life others expected of me.
Đây là sự luyến tiếc thường thấy nhất. Khi một người ý thức rằng cuộc đời họ gần chấm dứt thì họ có cái nhìn sáng suốt hơn về thời quá khứ của mình. Họ mới hiểu rằng có biết bao là ước mơ không thực hiện được.
Đa số người sắp chết không thực hiện được 50% số ước mơ của họ và họ chết vì sự lựa chọn hay không lựa chọn của họ.
Sức khỏe là một thứ tự do mà ít có người để ý đến cho đến lúc mất nó.
2-Phải chi tôi đừng quá ham làm việc.
I wish I didn't work so hard.
Hầu như đây là lời tiếc nuối của hầu hết tất cả bệnh nhân mà bà Bonnie Ware có dịp săn sóc cho đến phút họ ra đi. Họ tiếc rẻ rằng họ không còn có mặt ở trên cỏi đời nầy trong thời gian con cái họ còn nhỏ dại cũng như không được ở bên cạnh người vợ yêu quý.
3-Phải chi tôi có đủ can đảm để nói lên tình cảm của mình.
I wish I'd had the courage to express my feelings
Nhiều người chôn chặt tình cảm của họ để tránh xung đột với người khác. Bởi lý do nầy, một số không ít người đã phải chịu đựng những bệnh liên hệ với trạng thái xót xa (bitterness)và phẫn hận (resentment).
4-Phải chi tôi vẫn còn giữ mối liên hệ với các bạn tôi.
I wish I had stayed in touch with my friends.
Thường các bệnh nhân không nhận biết được những gì các bạn già của họ có thể đem đến cho họ mãi cho đế các tuần lễ chót trong đời. Khi họ ý thức được điều nầy thì đã quá trễ để có thể tìm ra dấu vết của những người bạn cũ. Một số người vì quá bận rộn trong cuộc sống riêng tư nên theo năm tháng họ để mất đi những người bạn quí.
5-Phải chi tôi tự cho phép mình được hạnh phúc hơn.
I wish that I had let myself be happier.
Đây là lời tiếc nuối thường nghe nhất.
Phần đông bệnh nhân không ý thức rằng trong đời,vui sướng và hạnh phúc là một sự lựa chọn của mỗi người.
KẾT LUẬN
Chết là điểm cuối cùng trong chu trình sanh lão bệnh tử.
Chết chỉ là một việc rất tự nhiên mà thôi.
Xã hội có khuynh hướng vui mừng và hân hoan trước sự nhiệm mầu của sanh sản nhưng lại khắt khe chống đối sự chết. Tại sao? Tại vì con người quá tham lam, dệt quá nhiều ước mơ và quá nhiều hy vọng chăng?
Nói theo Phật giáo, thì chúng ta vì tâm luyến ái nên cố bám víu vào cuộc sống, và vì vô minh nên không biết đó là giả tạo, không có gì là thật cả!
Cố tình không bàn đến cái chết là cố tình không muốn biết đến lực lượng đông đảo bác sĩ, y tá, nhân viên điều dưỡng và thiện nguyện viên ngày đêm hy sinh, không quản ngại khó khăn, sát cánh bên nhau để giúp cho các bệnh nhân cuối đời có được những giây phút thoải mái trước khi họ thanh thản nhắm mắt ra đi./.
" Thân thể con người cũng như một yên ngựa,
phải biết rời bỏ khi đã tới cuối hành trình "
Ibn Sina (Avicenne) (rf Dr Trịnh Nguyên Phước)
Ai Cũng Sợ Nhưng Vẫn Phải Ăn
17/05/2020
Bac sĩ thú y Nguyễn Thựơng Chánh DVM
Tất cả các cuộc thăm dò dư luận đều cho biết là người tiêu thụ rất đổi quan tâm đến sự hiện diện của các loại hoá chất độc trong thực phẩm. Không ai có thể biết được những gì sẽ xảy ra cho sức khỏe chúng ta trong hai ba chục năm sau.
Nguyen Thuong Chanh 01
THỦ PHẠM Ô NHIỄM HÓA CHẤT LÀ ĐÂY
**** Chanh Nguyen Thuong se fait communicateur auprès de la ... http://www.advite.com/ChanhNguyen.htm
Dưới đây là bản tin của President's National Awards (2000):
Nguyen Thuong Chanh 04
Dr. Thuong Chanh Nguyen
Quebec Area, Operations Branch
Dr. Nguyen has done a considerable amount of work with the Vietnamese community in Quebec to increase the community's awareness of food safety and consumer protection issues. Dr. Nguyen has written a number of articles directed at the Vietnamese community, which have appeared in Quebec publications and pertain to issues such as hamburger disease and other food-borne illnesses and the important of respecting federal laws to protect Canada's natural resources and agri-food industry.
He has received letters of congratulation from his superiors for his role in educating this community and increasing its awareness of the role the CFIA plays in protecting consumers.
Dr. Nguyen's work has enabled the CFIA to reach out and educate the Vietnamese people of Quebec, increasing their awareness of important health issues.
Phục Vụ Cộng Đồng: GS Nguyễn Thượng Chánh
Với tinh thần phục vụ cộng đồng, GS Nguyễn Thượng Chánh một lần nữa được phần thưởng Huân Chương ban khen của Nữ Hoàng Elizabeth về việc viết báo phổ biến kiến thức vệ sinh ăn uống cho đồng bào Việt Nam tại Canada. GĐNN xin thành thật chia vui cùng GS.
The Queen’s Golden Jubilee Medal 2002
***
Mọi người đều sợ bị ung thư
Giới kỹ nghệ đã cảm nhận điều này và để trấn an người tiêu thụ nên thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một một vài loại sản phẩm có đề thêm câu: Không có thêm chất bảo quản, không có hóa chất, không có hàn the (sans agent de conservation, pas d’additifs, no preservatives added), v.v…Không biết chúng ta có thể tin họ được hay không? Riêng người viết thì nghĩ rằng đây chỉ là một vấn đề quảng cáo và khuyến mãi mà thôi!
Còn bao nhiêu thứ nhập cảng từ khắp nơi trên thế giới, từ Á châu và từ Nam Mỹ, liệu họ có những luật chặt chẽ để bảo vệ tính chất trong lành của sản phẩm hay không?
Các quốc gia Âu Mỹ, tuy là được tiếng có nền kiểm soát thực phẩm rất quy củ và chu đáo, nhưng cũng không thể nào bảo đảm một cách tuyệt đối là 100% sản phẩm ngoại nhập bán ra đều trong lành hết đâu!
Tại các chợ Á Đông ở Montreal và có lẽ ở những nơi khác nữa một số không ít sản phẩm chẳng hạn như nem, chả đầu, giò thủ, v.v… đều là những mặt hàng ngoài luồng nghĩa là không được sản xuất từ một nhà máy có đăng ký và kiểm soát bởi Cơ quan Kiểm Tra Thực Phẩm.
Đó là chưa nói đến các loại “cơm chỉ”, chỉ món nào là mua món đó (food to go) rất phổ biến đối với bà con tại hải ngoại.
Còn vấn đề ô nhiễm môi sinh do các chất phế thải kỹ nghệ (déchets industriels) và nông dược (pesticides) cũng rất đáng ngại và có thể ảnh hưởng vào tính trong lành của các sản phẩm bán ra. Các nhà khoa học đều nhìn nhận là có một số ít chất phụ gia có tiềm năng gây cancer cho người. Tuy nhiên, các nhận định nầy đều dựa vào kết quả thử nghiệm trên loài chuột mà thôi. Trong những thí nghiệm nầy, người ta đã sử dụng những liều lượng thật lớn để gây nhiễm cho chuột, bởi vậy trên thực tế chúng ta hy vọng là cancer cũng khó có thể xảy ra cho con người được.
Nồng độ của các chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm đều được ấn định ở mức rất thấp và rất an toàn. Nhà sản xuất không được vượt quá giới hạn nầy...(đây là nói theo luật và luận điệu của nhà nước vậy mà!).
Cách nấu nướng cũng có thể là nguyên nhân tạo ra những chất gây cancer. Đó là trường hợp chất heterocyclic aromatic amine khi nướng thịt ở nhiệt độ quá cao, hoặc chất benzopyrène do khói tạo ra khi chúng ta nướng barbecue trực tiếp trên lửa.
Nhiệt độ cao cũng có thể chuyển nitrite trong bacon, hot dog hoặc trong thịt ướp ra thành nitrosamine, là một chất gây ra cancer. Thường xuyên ăn thịt nướng trên lửa dễ có nguy cơ bị cancer lắm đó!
Theo cơ quan Food and Nutrition Board của National Research Council Hoa Kỳ, thì 35% cancer bắt nguồn từ thói quen và cách ăn uống mà ra, như ăn quá nhiều dầu mỡ, nhiều thịt đỏ (heo-bò-dê-cừu), ít chịu ăn rau cải và trái cây tươi và hơn nữa trong tổng số trường hợp cancer vừa kể thì chỉ có 1% hay 2% gây nên bởi chất phụ gia mà thôi.
Sợ nhưng vẫn phải ăn
Dù muốn dù không chúng ta vẫn phải ăn, vẫn phải uống để sống! Trong một xã hội quá ư là văn minh và quá ư là kỹ nghệ như Bắc Mỹ ngày nay, chúng ta không thể nào thoát ra khỏi quỹ đạo của hóa chất được.
Thôi thì tốt hơn hết là nên cẩn thận trong vấn đề ăn uống, nên điều độ và chừng mực thì tốt hơn!
Hãy cảnh giác và thận trọng đối với các loại thực phẩm (khô, tươi và biến chế) nhập từ Á Đông.
Đừng quên là hấu hết các loại thực phẩm tươi và khô trong các chợ Á Đông đều được made in China.
Hạn chế việc dùng những loại thực phẩm công nghiệp như các loại nước ngọt, các loại đồ hộp, đồ conserve, các loại thịt nguội và thịt hong khói smoked meat, v.v…Tránh bớt chừng nào tốt chừng đó!
Vào thế kỷ thứ XVI, Paracelse, một nhà hóa học nổi tiếng và đồng thời cũng là một y sĩ lỗi lạc của Thụy Sĩ đã từng nói một câu để đời như sau: «C’est la dose qui fait le poison», có nghĩa là chính liều lượng làm nên chất độc.
Ngẫm nghĩ lại câu này vẫn còn đúng cho đến ngày hôm nay./.
Thực phẩm bị nhiểm hóa chất từ đâu?
Hóa chất có thể gây nhiễm vào bất cứ giai đoạn nào trong tiến trình phát triển và tăng trưởng của các loài động vật và thực vật. Người ta gọi đây là hiện tượng tích lũy sinh học (bioaccumulation). Ngoài ra, trong lúc sản xuất, biến chế, bảo quản và tồn trữ, hóa chất cũng đôi khi dễ dàng lây nhiễm vào thực phẩm. Nguồn gây nhiễm có thể là do:
§ Ô nhiễm kỹ nghệ (BPC, Dioxine)
§ Canh nông (thí dụ, các loại nông dược)
§ Biến chế thực phẩm (các chất phụ- gia)
§ Các chất độc thiên nhiên (độc tố Aflatoxine từ nấm mốc)
Ảnh hưởng trên sức khoẻ cũng rất thay đổi tùy theo loại hóa chất, nồng độ và số lượng ăn vào, có ăn thường xuyên hay không và đôi khi cũng tùy theo cá nhân mỗi người nữa.
Các nông dược nhóm organochlorés
Điển hình là các chất DDT, MIREX, ALDRIN vv….MIREX thường thấy tích tụ trong cá và lươn. Phần lớn các chất nhóm organochlorés đã bị cấm sử dụng tại các quốc gia Tây Phương và
lần lần được thay thế bởi những hoá chất nhóm organophosphorés. Ngược lai, các quốc gia đang phát triển vẫn còn tiếp tục xài các hoá chất nhóm organochlorés. Chất tồn dư nhóm organochlorés thường tích tụ trong mỡ của các loài động vật và cả trong sữa bò nữa. Triệu chứng ngộ độc thường thấy là nôn mửa, cơ thể bải hoải, thần kinh rối loạn và co giật, nhưng điều mà mọi người lo sợ nhất là... ung thư.
Nông dược nhóm organophosphorés
Thí dụ như DIAZINON, MALATHION, PARATHION vv.... Hoá chất nhóm nầy thường tích tụ nhiều trên các loài thực vật có lá. Nhiễm độc nhẹ sẽ gây rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, tiêu chảy và chóng mặt. Nói chung, hóa chất nhóm organophosphorés rất độc cho hệ thần kinh và có thể làm suy hô hấp.
Các chất phụ gia
Canada có vào khoảng 400 chất phụ gia đang được cho phép sử dụng. Chất phụ gia được thêm trong thức ăn và thức uống để cải thiện chất lượng, để thay đổi màu sắc, cũng như để kéo dài thời gian bảo quản và tồn trữ. Không phải chất phụ gia nào cũng đều có hại cho sức khỏe hết. Chỉ có một số ít chất như vài loại màu hóa học nhân tạo là có thể gây hại đến sức khỏe thôi...Phản ứng thông thường thuộc loại phản ứng dị ứng, như ngứa ngáy, da nổi đỏ, nổi mề đay, khó thở, nhức đầu, đau bụng và bị tiêu chảy vv....Một số chất phụ gia cũng bị nghi ngờ là nguyên nhân của vài loại cancer.
Bột ngọt (MSG) là thủ phạm của hội chứng nhà hàng Tàu (syndrome du restaurant chinois). Có người khi ăn bột ngọt sẽ bị nôn mửa, ngứa ngáy, mặt đỏ, ngộp thở, chóng mặt, nóng ran sau ót, ở hai cánh tay, và ở vùng ngực… Chất Sulfite được dùng để bảo quản thực phẩm và giúp giữ màu sắc được tươi thắm hơn, Sulfite có nhiều trong nước nho, trong rượu chát, sauce tomate, trong một số rau quả đóng hộp và trong các loại bánh mứt…Chất Nitrite và Nitrate (sodium et potassium) dùng để ướp muối thịt, khi nướng sẽ cho ra chất Nitrosamine, là một chất gây cancer. Tại một số quốc gia vùng Á Đông, trong đó có VN, rất nhiều hóa chất độc hại cho sức khỏe có thể được nhà sản xuất tự tiện thêm vào sản phẩm một cách bất hợp pháp nhằm mục đích bảo quản và kinh doanh…Hàn the (borax) ướp thịt cho tươi thắm…Formaldehyde giúp cho hủ tiếu khô được dai… Hóa chất lạ (giúp trái cây được tươi, lâu hư)…Phân urê và thuốc kháng sinh Streptomycin dùng ướp cá là những thí dụ được nhiều người thường nói đến.
Các chất kim loại
CHÌ (Pb): Có thể thấy nhiều trong kỹ nghệ chế biến bình điện, trong các loại thực phẩm đóng hộp, và trong các hệ thống ống dẫn nước bằng chì. Ngộ độc chì sẽ làm đau bụng, mất máu, đi đứng khó khăn và các triệu chứng thần kinh khác.
v CADMIUM (Cd): Tìm thấy trong kỹ nghệ khai thác các quặn đồng, chì và kẽm, trong kỹ nghệ mạ kền, kỹ nghệ làm plastique, sản xuất nước sơn vv... Nhiễm cadmium lâu ngày, hệ miễn dịch sẽ bị tổn hại, ngoài ra cadmium cũng có thể gây cancer. Cadmium tích tụ trong tôm, cua, sò, ốc và trong gan thận thú rừng, hưu, nai và caribou.
THỦY-NGÂN (Hg): Dưới dạng methyl mercury (MeHg), là chất phế thải từ các nhà máy làm bột giấy và từ kỹ nghệ khai thác hầm mỏ. Thủy ngân thường tích tụ trong thịt và trong gan cá. Trong thiên nhiên, do hiện tượng cá lớn nuốt cá bé cho nên những loại cá
nào ở tận cùng dây chuyền thực phẩm là loại cá chứa nhiều thủy ngân nhất. Cá mập hay cá nhám (shark), cá tuna, cá lưỡi kiếm swordfish, brochet, cá doré, cá king mackerel, cá tile fish là những cá có độ nhiễm thủy ngân nhiều hơn cá hareng. Thủy ngân tích lũy theo thời gian và quyện một cách chặt chẽ vào protéine của cá…Khác với cá biển, cá sông hồ nội điạ lại thường chứa một tỉ lệ chất ô nhiễm khá cao. Ở người, triệu chứng nhiễm thủy ngân thay đổi khác nhau tùy theo nồng độ và tùy theo thời gian nhiễm. Thủy ngân có thể gây độc cho bào thai, cho trẻ em và người lớn. Triệu chứng chính thuộc hệ thần kinh trung ương như cảm giác tê quanh môi, ở các ngón chân và ngón tay rồi lần lần ăn nói khó khăn, mắt và tai kém, mỏi mệt, nhức đầu, bồn chồn, không tập trung tư tưởng được, cơ thể càng ngày càng yếu đi, đi đứng rất ư là khó khăn, và cuối cùng thì hôn mê và chết…Santé Canada cho phép mức độ nhiễm thủy ngân ở cảc loài thủy sản là 0.5 ppm. Tại Hoa kỳ cơ quan FDA ấn định mức cho phép là 1ppm.
Dioxine
Nguồn ô nhiễm chính là các nhà máy đốt rác và các chất phế thải. Kỹ nghệ sản xuất các thuốc diệt cỏ nhóm organochlorés cũng làm phát sinh ra dioxine. Trong thiên nhiên, cháy rừng và hoạt động của núi lửa cũng là nguyên nhân của sự ô nhiễm dioxine. Thuốc khai quang màu da cam 2,4-D được sử dụng tại Việt Nam ngày trước là một trong nhiều nguyên nhân ô nhiễm dioxine tại miền Nam. Dioxine ít hoà tan trong nước, nhưng lại dễ hoà tan trong mỡ và chất béo…Ở người, phần lớn ô nhiễm dioxine có nguồn gốc từ việc ăn uống. Dioxine đuợc tìm thấy trong cá, tôm, cua, sò, ốc, trong sữa bò và cả trong trứng gà nữa. Nhiễm dioxine lâu ngày có thể làm xuất hiện một loại bịnh ngoài da rất độc hại, gọi là chloracné. Các hệ miễn dịch, nội tiết, sinh dục và thần kinh đều bị tổn hại. Sinh ra quái thai và ung thư là hiểm họa đáng sợ nhất của dioxine.
BPC (Biphényles Polychlorés)
Mặc dù đã bị cấm sử dụng tại Canada từ những năm 80, nhưng BPC vẫn còn là hóa chất thường hay được báo chí nói đến luôn. BPC đã được dùng trong các vật liệu chống lửa, trong nước sơn, trong mực in và trong những máy biến thế điện (transformateur)…BPC làm tổn hại hệ miễn dịch và cũng có thể gây ra cancer. BPC được tiết qua sữa mẹ. Trong dây chuyền thực phẩm, cá là loại nhiễm BPC nhiều nhất và từ đó lây nhiễm cho loài người…Tập chí Protégez vous ở Quebec, số tháng 2/2002 có báo động là cá Saumon de l'Atlantique đã bị nhiễm độc BPC ở mức độ rất cao. Cá được nuôi dưỡng theo lối công nghiệp trong những bè vĩ đại ven bờ biển Canada vùng Vancouver và Halifax, và được cho ăn toàn thức ăn hỗn hợp làm từ bột cá tạp, bột lông gà, bột bắp, dầu thực vật, và trụ sinh vv... Nhưng không biết vì lẽ gì loại dầu sử dụng đã bị nhiễm BPC nên đã lây nhiễm cho cá nói trên.
Tình hình Việt Nam theo báo chí bên nhà
Ước tính, TP.HCM mỗi năm có hơn 5.000 ca mắc ung thư mới, với 80% do các bệnh nhiễm, chế độ ăn uống (nhiều thực phẩm khô, rượu…) và khói thuốc lá. Theo BS Nguyễn Chấn Hùng, Chủ tịch Hội Ung thư VN, muối gốc nitrat trong các loại thực phẩm muối mặn phơi khô khi kết hợp với các chất dịch trong dạ dày sẽ biến thành nitrosamine. Cơ quan Nghiên cứu quốc tế về ung thư (IARC) xếp nitrosamine là tác nhân gây ung thư nhóm 1. Qua nhiều nghiên cứu tại các quốc gia có thói quen ăn uống giống Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, IARC đã chứng minh, sử dụng thường xuyên những thực phẩm muối mặn, phơi khô, gia vị tẩm… là một trong các nguyên nhân gây bệnh ung thư.”(Ngưng trích: An Quý – Nguyễn Cẩm Phụ nữ online đăng ngày 31/12/2011)
Kết luận
Nói chung, cũng may là đa số hóa chất gây nhiễm trong thực phẩm thường nằm dưới giới hạn quy định của Santé Canada. Sống trong một đất nước quá ư tiên tiến và kỹ nghệ thì vấn đề ô nhiễm môi sinh ắt khó tránh khỏi được. Đây là vấn đề làm nhiều người trong chúng ta thường hay lo nghĩ đến. Tuy nhiên, để hạn chế bớt tác dụng độc hại của một số hóa chất trên sức khỏe, chúng ta cần nên lưu ý đến các điểm sau đây:
§ Độ nhiễm cũng thay đổi tùy theo từng vùng, có gần các khu kỹ nghệ hay không? Sông, rạch, ao hồ nội điạ nhiễm nhiều hơn vùng đại dương .
§ Đồ lòng, gan, thận thú rừng, hưu, nai chứa nhiều chất kim loại như Cadmium .
§ Mỡ và da cá là nơi tích tụ nhiều BPC và Dioxine .
§ Để tránh hiện tượng tích lũy độc chất, nên thường xuyên thay đổi loại cá ăn .
§ Tại Bắc Mỹ, phụ nữ đang mang thai hoặc đang cho con bú cần nên hết sức thận trọng, tốt hơn hết là tránh dùng các loại cá như cá nhám (cá mập), cá lưỡi kiếm (swordfish), cá tuna, king mackerel, và cá tile fish.
§ Tất cả thực phẩm sản xuất theo lối công nghiệp đều có chứa hóa chất.
§ Ăn, rau, cải, trái cây phải rửa kỹ, và phải gọt bỏ vỏ.
§ Cách nấu nướng, như nướng chiên ở nhiệt độ cao, hoặc trực tiếp trên lửa ngọn, thường làm phát sinh ra chất HAAs (heterocyclic aromatic amines), là chất có thể gây ra ung thư
Nguyen Thuong Chanh 0
Phỏng theo tác phẩm nổi tiếng: «Les aliments contre le cancer - La prévention et le traitement du cancer par l’alimentation» par Richard Béliveau PhD. et Denis Gingras PhD. (Trécarré, Quebecor Media, 2005)
*/ Giáo sư R. Béliveau, PhD., nổi tiếng trong lãnh vực cancer, phụ trách bộ môn nghiên cứu phòng trị cancer của Université du Québec à Montréal. Ông còn là giáo sư về các bộ môn sinh hóa, sinh lý học và giải phẫu tại Université de Montréal, đồng thời cũng là giám đốc phòng thí nghiệm Laboratoire de médecine moléculaire au service d’hémato-oncologie du Centre de Cancérologie Charles Bruneau de l’Hôpital Sainte-Justine.
Bốn tác phẩm thuộc hàng bestseller của ông: 1) Les aliments contre le cancer – 2) Cuisiner avec les aliments contre le cancer – 3) La santé pour le plaisir de bien manger – 4) La mort, mieux la comprendre.
Cả 4 tác phẩm đã được dịch ra 25 ngôn ngữ và xuất bản tại 35 quốc gia.
*/ Giáo sư D. Gingras, PhD., chuyên nghiên cứu về ung thư tại phòng thí nghiệm Laboratoire de médecine moléculaire au service d’hémato-oncologie de l’Hôpital Sainte-Justine.
Tóm lược quyển sách
Theo ước đoán tại các quốc gia Tây Phương, thì thực phẩm là nguyên nhân của trên 30% trường hợp bệnh ung thư được phát hiện mỗi năm.
Ngày nay, người ta nghĩ rằng cứ trong ba người thì có một người phải đối phó với bệnh ung thư trong đời mình, và trong số bốn người mắc bệnh nầy thì sẽ có một người bỏ mạng.
Có thể nói thực phẩm là thủ phạm của trên nữa số bệnh ung thư được chẩn đoán.
Các số thống kê đều cho thấy tầm quan trọng của sự chọn lựa những thức ăn trong lành một cách khôn ngoan và hợp lý, là điều kiện giúp giảm thiểu tỉ lệ sự phát sinh cùng sự bành trướng của bệnh ung thư.
Theo thời gian, rất nhiều khảo cứu lâm sàng căn bản và dịch tể học cho thấy một sự tiêu thụ thường xuyên sản phẩm thực vật và rau quả, là một nhân tố chánh yếu trong việc làm giảm nguy cơ bị bệnh ung thư.
Hay hơn nữa, nhiều loại thực phẩm có khả năng diệt mầm vi-ung-thư (micro tumeur) ngay trong trứng nước trước khi nó có thể phát triển ra thành ung thư thật sự trong cuộc đời chúng ta.
Thật vậy, một vài loại thực phẩm có chứa một số lượng quan trọng hợp chất hóa học không mang tính dinh dưỡng (phytochimiques), nhưng chính nó lại đóng vai trò tiên quyết trong việc phòng ngừa ung thư... Như có nhiều khảo cứu gần đây cho biết, ngoài rau quả ra, có nhiều loại sản phẩm khác chẳng hạn như trà xanh, củ nghệ hoặc chocolat đen, v.v…đều có chứa một lượng lớn hợp chất chống ung thư.
Một chế độ ăn uống hằng ngày gồm hỗn hợp nhiều loại rau quả và thức uống như trà xanh, rượu vang đỏ, sẽ giúp cho sự hấp thụ một số lượng hợp chất có tính năng diệt trừ ung thư.
Tóm lại, việc tiêu thụ mỗi ngày các loại thực phẩm khác nhau trong chế độ ẩm thực là một phương cách đơn giản và hữu hiệu để phòng chống sự phát triển và bành trướng của bệnh ung thư.
Có thể nói rằng mỗi người trong chúng ta đều có mang trong mình những bệnh tích thật bé nhỏ của một loại ung thư nào đó, nhưng nhờ vào sức đề kháng tốt của cơ thể nên chúng chưa có cơ hội bộc phát ra thành bệnh ung thư được mà thôi.
Những bệnh tích cancer thật bé nhỏ nầy (microtumeurs), thường là những tế bào trong giai đoạn tiền cancer. Chúng được nhìn thấy bằng kính hiển vi qua việc xét nghiệm mô bệnh học (histopathologie) những bộ phận của người đã chết vì những nguyên nhân nào khác ngoài ung thư ra... Các tế bào có mang dấu tích tiền cancer nhưng chưa bộc phát thành bệnh thường thấy là: 98% ở vú, 40% ở tuyến giáp trạng (thyroide) và 30% ở tiền liệt tuyến (prostate).
Trong thực tế, tỉ lệ thật sự bệnh cancer của ba cơ quan nói trên đều rất thấp trong dân chúng.
Từ lâu người ta được biết rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến cancer chẳng hạn như hóa chất độc, một số chất phụ gia, khói thuốc lá, tia phóng xạ, tia tử ngoại mặt trời, virus, v.v…Đây chỉ mới là một vài thí dụ mà thôi… Vì ngoài ra cũng còn phải kể đến những yếu tố nội tại ở bên trong cơ thể nữa…
Mỗi ngày có hằng tỉ tế bào được phân cắt để tái tạo thành tế bào mới nhằm thay thế những tế bào cũ đã chết. Trong tiến trình phân chia tế bào rất phức tạp nầy nếu có sự lệch lạc nào đó từ một nhiễm sắc thể không hoàn chỉnh thì rất có thể sẽ có một số tế bào nào đó sẽ đi lệch programme.
Chúng sẽ sinh sản hỗn độn, vô trật tự và biến thành những tế bào tiền cancer (précancéreuses) và cuối cùng chúng tìm cách định vị tại một nơi nào đó trong cơ thể!
Để có thể tiếp tục phát triển ra thành khối ung thư, các tế bào tiền cancer nầy cần được nuôi dưỡng bởi một hệ thống mạch máu li ti bao phủ, hình thành mạch (angiogénèse).
Thời gian tiềm ẩn rất lâu dài trước khi các tế bào tiền cancer ban đầu có thể trở thành thật sự một khối u gây bệnh cancer. Đây là giai đoạn rất thuận lợi để các phương pháp trị liệu có thể ngăn chặn và phá vỡ sự bành trướng của hệ thống mạch máu li ti đến nuôi cancer. Ung thư có thể thuộc loại hiền (bénin) hoặc thuộc loại dữ hay còn gọi là ác tính (malin).
Loại hiền định vị tại một chỗ, còn loại dữ thì rất nguy hiểm vì tốc độ phát triển rất nhanh và di căn (métastase) nghĩa là tế bào ung thư chạy lung tung đến định vị ở những cơ quan khác nữa!
Thay đổi nếp sống và sự dinh dưỡng bằng cách dùng nhiều rau quả tươi là điều cần thiết để hy vọng có thể ngăn chặn được sự xuất hiện của vài loại cancer…
Chính một số các hóa chất sinh học thực vật (phytochimiques) hiện diện trong rau quả có thể tác động như những vũ khí bén nhọn để ngăn chặn và phá vỡ hệ thống mạch máu nuôi cancer khi chúng còn ở trong giai đoạn sơ khởi chưa hoàn chỉnh.
Những nguyên nhân dẫn đến ung thư
- Dinh dưỡng và thực phẩm do ăn nhiều mỡ dầu, thịt đỏ, chất phụ gia, nitrite trong thịt nguội, thịt nướng khét: 30%
- Thuốc lá: 30%
- Di truyền:15%
- Bối cảnh do việc làm hay nghề nghiệp như hít thở hóa chất độc: 5%
- Béo phì hay thiếu vận động: 5%
- Tia tử ngoại (UV) mặt trời: 2%
- Một số dược phẩm: 2%
- Ô nhiễm môi sinh: 2%
- Các yếu tố khác: 2%
Rau quả tươi có thật sự giúp chúng ta ngừa cancer hay không?
Các dân tộc Á Đông nhờ vào tập quán ăn uống đặc biệt gồm nhiều rau đậu nên ít bị một vài loại cancer nào đó so với các dân tộc Tây Phương thường hay ăn nhiều thịt, nhiều dầu mỡ nhưng lại ít dùng rau quả tươi.
Một vài loại thực vật đã được khoa học xác nhận là có tính năng giúp chúng ta ngừa một số cancer. Chẳng hạn như nhóm cải bắp (crucifère) có khả năng ngăn chặn việc tạo ra hormones œstrogènes nhờ đó có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện cancer vú ở phụ nữ... Cà Tomate có chất chống oxy hóa lycopène giúp ngừa cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông lớn tuổi... Củ nghệ và chocolat đen cũng có chứa những chất chống oxy hóa giúp ngừa sự xuất hiện của vài loại cancer…
Dân Nhật Bản sống trên đảo Okinawa có tuổi thọ cao nhất thế giới có lẽ nhờ họ sống trong một môi trường trong lành, và đồng thời họ cũng áp dụng lối dinh dưỡng tốt gồm có nhiều rau cải tươi, rong biển và cá.
Một số rau quả điển hình có chứa chất kháng cancer (Surh,Y-J 2003 Nature Review on cancer 3,768-780)
Cac Thuc Pham Phong Chong Ung Thu 02
:
Các thực phẩm chống ung thư. (hình tác giả cung cấp)
- Nghệ (curcuma): chất kháng cancer curcumine, ngừa cancer ruột già, bao tử, gan, da…
- Bleuets (blueberries): delphinidine
- Fraises (strawberries): acide ellagique
- Trà xanh (green tea): epigallocatéchine-3-gallate, trà xanh chứa nhiều chất catéchines hơn trà đen...
- Đậu nành (soja, soybean): génistéine, ngừa cancer vú ở đàn bà và cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông. Thực phẩm làm từ hạt đậu nành thí dụ như đậu nành rang, tàu hũ, miso, sữa đậu nành, vân vân tự làm lấy ở nhà tốt hơn các viên suppléments soja hay sữa đậu nành bán trong siêu thị.
- Tomates: lycopène, ngừa cancer tiền liệt tuyến. Pâte de tomate chứa nhiều lycopène hơn tomate sống.
- Nho (grapes): resvératrol, rượu chát đỏ làm từ nho cũng rất tốt nhưng chỉ nên uống ít và điều độ thôi vì dù sao nó cũng vẫn là rượu.
- Bưởi (grapefruits): limonène
- Tỏi (garlic): diallyl-sulfide
- Cải bắp (cabbages): indole-3-carbinol
- Broccoli: sulphorahane
- Chocolats đen: có chứa 70% cacao, cung cấp một số lượng polyphénols đáng kể*, nên được xem rất có ích để ngừa các bệnh mãn tính như cancer và các bệnh thuộc về tim mạch.
- Các loại thịt ngâm muối (mariné) và các loại rau quả ngâm giấm;
- Thịt, cá hong khói (fumé);
- Thức ăn chiên, nướng khét ở nhiệt độ cao;
- Thức ăn biến chế theo lối công nghiệp thí dụ như đồ conserve, thịt nguội charcuterie, jambon, saucisse, lạp xưỡng, vân vân;
- Rượu: hạn chế.
Ngừa ung thư bằng cách nào?
+ bỏ thuốc lá (cancer phổi, miệng, thanh quản…)
+ giảm bớt năng lượng calories ăn vào, giảm bớt các loại fast food và các loại nước ngọt có gaz. và không ăn thức ăn quá nóng!
+ giảm bớt thịt đỏ như thịt bò, thịt heo và thịt dê cừu (cancer ruột già), nên ăn thịt trắng như thịt gà, thịt nạc hay cá (cá có chứa nhiều chất acid béo oméga-3 rất tốt cho sức khỏe)
+ thay nguồn protéine từ thịt bằng các loại đậu và tàu hũ, không cần phải nhất thiết ăn thịt mỗi ngày!
+ giảm bớt việc ăn những loại sản phẩm có chứa những hóa chất bảo quản có tiềm năng gây cancer chẳng hạn như thịt bacon, saucisse, jambon, hot dog, lạp xưỡng, thịt hong khói (smoked meat), vân vân, vì các sản phẩm nầy đều có chứa nhiều nitrites và lúc chiên hay nướng chúng sẽ chuyển ra thành chất nitrosamines là chất có thể gây ra cancer!
+ tránh dùng những món ăn đã bị khét. Khi nướng thịt trên lửa ngọn, mỡ chảy ra và bốc cháy thành những chất hydrocarbures aromatiques bám vào miếng thịt, đây là chất gây cancer. Khi nấu thịt ở nhiệt độ cao cũng sẽ tạo ra chất amines hétérocycliques cũng là chất gây ra cancer!
+ tránh ăn những sản phẩm có quá nhiều muối!
+ ăn nhiều rau quả tươi (đủ màu sắc) để có nhiều chất chống oxy-hóa và vitamines và nên ăn một thức ăn đa dạng!
+ vận động, thể dục, thể thao đều đặn!
Những tin đồn bất lợi về rau quả
= Rau quả nhiễm hóa chất, nông dược (pesticides) có thể gây cancer?
Sai - Các xét nghiệm tại Canada cho biết, rau quả nếu có bị nhiễm hóa chất thì cũng chỉ nhiễm ở mức độ rất thấp. Trước khi ăn nên rữa sạch, gọt bỏ vỏ, hay gỡ bỏ các lớp bên ngoài như trường hợp cải bắp. Lợi ích của việc dùng rau cải vẫn trội hơn là vấn đề sợ rau cải bị nhiễm hóa chất mà không ăn!
= Rau quả xuất phát từ kỹ thuật làm thay đổi gène (GMO) nên ăn không tốt?
Sai - Đa số rau quả mà chúng ta dùng mỗi ngày đều là sản phẩm standard, và được trồng một cách bình thường mà thôi. GMO thật ra là một vấn đề thuộc về sinh thái (biodiversité)!
= Chỉ có rau quả Bio, Organic, Hữu cơ mới tốt cho sức khỏe?
Sai - Tất cả các khảo cứu từ trước tới nay đều được thực hiện với các loại rau quả bình thường và đã nói lên lợi ích của chúng đối với sức khỏe. Được biết rau quả Bio hay Organic là rau quả trồng theo lối thiên nhiên và không sử dụng hóa chất, và nhãn hiệu Bio không phải là điều tối cần thiết trong việc tận dụng những lợi ích của rau quả!
Kết luận
Hằng ngày, ta nên sử dụng nhiều loại rau quả tươi và đa dạng.
Đó là bước đầu để chúng ta có được một sức khỏe tốt, đồng thời cũng để giúp giảm thiểu nguy cơ xuất hiện của một vài loại bệnh ung thư.
Đói ăn rau, đau uống thuốc!
Thức ăn là liều thuốc!
(Que ton aliment soit ta seule médecine!)
Hippocrate 460-377 av. JC
Người Việt Hải Ngoại Và Bệnh Tim Mạch
13/05/2020
Nguyễn Thượng Chánh DVM
*Disclaimer-chối từ trách nhiệm-Nói rõ tác giả không phải là y khoa BS- Đây chỉ là bài dịch từ tài liệu ngoại quốc-Mọi thắc mắc nghi vấn về bệnh tim mạch xin các bạn trực tiếp hỏi bs gia đình.
Không tha một ai: Già cũng như trẻ, hút thuốc lá, béo phì, thích ăn quá mặn, cao áp huyết, tiểu đường, thường xuyên bị căng thẳng tinh thần STRESS - là những đối tượng có nhiều nguy cơ bị bịnh tim mạch, đột quỵ, tai biến mạch máu não (stroke, avc).
“Tại Hoa Kỳ, bệnh tim mạch giết 801,000 người, bệnh tim giết 370,000 người, và đột quỵ giết gần 129,000 người. Còn nữa, có 750,000 người tại Hoa Kỳ bị đau tim, 116,000 người chết” (Ngưng trích Vietbao.com 21,12/2015).
***
Béo thì ngon, nhưng ăn nhiều và ăn thường xuyên quá cũng có thể không tốt cho sức khỏe.
Còn nhớ lúc xưa ở quê nhà, mỗi lần đi ăn phở, mình thường hay xin thêm một ít nước béo cho nó ngon.
Các món như chuối chưng, chè đậu, chè ba màu, bột chiên, cari, chả giò, kiễm, và đồ kho để ăn chay (mua ngoài chợ và cả ăn ở trong chùa) đều có chứa hoặc nhiều nước cốt dừa (coconut milk, lait de coco) hoặc nhiều mỡ dầu lắm.
Ba ngày Tết, hầu như mỗi nhà VN đều phải có một nồi thịt kho nước dừa , mà phải là loại thịt đùi nửa nạc nửa mỡ mới đúng điệu.
Chỉ riêng một vài dẫn chứng vừa kể cũng đủ thấy là mỡ dầu là một thành phần quan trọng không thể thiếu được trong tập quán ăn uống của chúng ta.
Tại Canada, bênh tim mạch là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ nhì sau bệnh ung thư
Người Mỹ gốc Á Châu dẫn đầu về bệnh tim mạch tại Hoa kỳ
Asian Americans Face Greater Risk for Stroke and Hypertension
So với người Mỹ da trắng, người Mỹ gốc Á châu dẫn đầu về bệnh tim mach tại Hoa kỳ
Asian Americans face higher risk for stroke and hypertension compared to whites, finds study.
Published in the Journal of the American College of Cardiology, a recent study analyzed death records for the six largest Asian-American subgroups: Asian Indian, Chinese, Filipino, Japanese, Korean and Vietnamese. Together, these subgroups make up 84% of the Asians in the United States.
Người Việt tại Hoa Kỳ và bệnh tim mạch
Tung T. Nguyen, MD et al-Cardiovascular Risk Factors and Knowledge of Symptoms Among Vietnamese Americans
Tóm tắt kết luận của khảo cứu vể Bệnh tim mạch ở một nhóm người Mỹ gốc Viêt tại Santa Clara, CA
Thiếu vận động, ít ăn rau quả mỗi ngày và thiếu kiến thức và hiểu biết về triệu chứng của cơn đứng tim heart attack.Trong nhóm người Việt được thăm dò, thì chỉ có 59% trả lời đúng dấu hiệu đau nơi ngực là một triệu chứng của heart attack.
Physical inactivity is an important cardiovascular risk factor, and 40% of Vietnamese Americans
Vietnamese Americans may not meet the Healthy People 2010 recommendations for fruit and vegetable consumption (75% with at least two daily servings of fruit and 50% with at least three daily servings of vegetables
Another problem identified by this study is the lack of knowledge of heart attack and stroke symptoms. Recognition of these symptoms is important, because early treatment can save lives and prevent morbidity. Only 59% of Vietnamese Americans in this study knew that chest pain was a symptom for heart attack,
“Đứng tim cũng được gọi là nhồi máu cơ tim (myocardial infarction, hay MI). Tình trạng này xảy ra khi mạch máu đưa dưỡng khí đến bắp thịt tim bị nghẹt, làm cho máu ngưng chảy đến một phần của tim. Nếu không chữa ngay, thì phần bắp thịt tim bị chết. Quý vị được giúp đỡ càng sớm, thì tim càng ít bị hư hại.
Mạch máu bị nghẹt vì:
•Chất mỡ đọng lại gọi là mảng•Cục máu đông•Mạch máu bị co thắt
Triệu chứng đứng tim
•Đau, bị sức ép, chẹn, nặng, nén lại hoặc nóng rát ở ngực, cánh tay, quai hàm, vai hoặc cổ. Xảy ra trong khi hoạt động lẫn khi nghỉ ngơiLâu hơn 5 phút hoặc tự khỏi rồi sau đó bị lại.
Ra mồ hôi
Thở hổn hển
Buồn nôn hoặc ói mửa
Đau bao tử hoặc ợ nóng khó tiêu
Cảm thấy mệt mỏi, chóng mặt hoặc ngất xỉu
Cảm thấy sợ hãi hoặc hoảng sợ
Gọi 911 ngay nếu quý vị có bất cứ triệu chứng nào như vậy. Ngồi hoặc
nằm xuống cho đến khi toán cấp cứu đến.
Đừng lái xe hơi đến bệnh viện hoặc để chậm trễ bằng cách gọi bác sĩ “(Ngưng trích-Heart attack)
Khảo cứu cho thấy việc tiêu thụ protein nguồn thực vật (tofu, hạt nut, đậu…) có thể giúp giãm nguy cơ bệnh tim 30%- Không phải protein nào cũng giống nhau hết đâu- Tiêu thụ nhiều protein gốc động vật (thí dụ thịt…) sẽ không tốt cho sức khoẻ và có hại cho tim, ngược lại việc ăn nhiều đạm thực vặt sẽ giúp tim hoạt động tốt.
“A major study published in February 2005 reconfirmed the link between animal products and heart problems. The study, which was published in the American Journal of Epidemiology, concluded that among the 29,000 participants, those who ate the most meat were also at the greatest risk for heart disease. The researchers also reported that a high intake of protein from vegetable sources such as tofu, nuts, and beans lowers our risk of heart disease by 30 percent. Dr. Linda E. Kelemen, the scientist who headed the study, told reporters, “Not all proteins are equal”—while vegetable protein can help keep our hearts healthy, eating animal protein can put us in an early grave”.
Thưòng có diễn tiến chậm chạp nhưng cũng có thề xảy ra một cách bất ngờ đột ngột.
-Dau, khó chịu ngay giữa lòng ngực kéo dài trong nhiều phút hoặc trở đi trở lại từng cơn
-Đau, khó chịu vùng ngực hay phần trên của thân: hai cánh tay, vùng lưng, sau cổ, hàm và vùng bao tử (phía trái)
- Nhịp thở ngắn, có hoặc không có cảm giác khó chịu kèm theo.
-Có thể có các dấu hiệu khác: như toát mồ hôi lạnh, nôn mửa hoặc hơi hơi nhức đầu
Some heart attacks are sudden and intense — the "movie heart attack," where no one doubts what's happening. But most heart attacks start slowly, with mild pain or discomfort. Often people affected aren't sure what's wrong and wait too long before getting help. Here are signs that can mean a heart attack is happening:
Chest discomfort. Most heart attacks involve discomfort in the center of the chest that lasts more than a few minutes, or that goes away and comes back. It can feel like uncomfortable pressure, squeezing, fullness or pain.
Discomfort in other areas of the upper body. Symptoms can include pain or discomfort in one or both arms, the back, neck, jaw or stomach.
Shortness of breath with or without chest discomfort.
Other signs may include breaking out in a cold sweat, nausea or lightheadedness.
As with men, women's most common heart attack symptom is chest pain or discomfort. But women are somewhat more likely than men to experience some of the other common symptoms, particularly shortness of breath, nausea/vomiting, and back or jaw pain. Learn about the warning signs of heart attack in women.
Các loại dầu ăn thông dụng tại Canada (Photo NTC 2014)
Chất béo bão hòa (saturated fat): đông đặc ở nhiệt độ bình thường trong nhà.Thấy nhiều trong thịt,mỡ, tôm, cá, đồ lòng, lòng đỏ hột gà, sữa và phó sản của sữa như fromage, crème,bơ vv….Thực vật, trái cây, hạt có dầu đều chứa rất ít chất béo bão hòa, ngoại trừ dầu dừa, nước cốt dừa và dầu cọ (palm oil) là những sản phẩm có chứa một tỉ lệ chất béo bão hòa cao nhất trong nhóm thực vật.
Chất béo bão hoà là chất béo xấu, có hại cho sức khỏe và có thể gây nên bệnh chứng nghẽn mạch máu.
Chất béo không bão hòa (Unsaturated fat): không đông đặc ở nhiệt độ bình thường. Có nhiều trong dầu thực vật. Đây là chất béo tốt vì có khuynh hướng làm giảm cholesterol trong máu. Người ta phân chia chất béo không bão hòa ra làm 2 nhóm:
Không bão hòa đơn thể (monounsaturated), có nhiều trong dầu olive, dầu canola,và dặc biệt trong mỡ vịt nữa …
Không bão hòa đa thể (polyunsaturated), tiêu biểu là linolenic acid (hay omega 6) và alpha-linoleic acid (hay omega 3). Đây là những acid béo thiết yếu vì cơ thể không tự tổng hợp được mà phải nhờ thực phẩm mang vào. Chất béo không bão hòa đa thể ít ổn định, dễ bị oxy hóa, và dễ bị hôi (rancid) hơn chất béo không bão hòa đơn thể. Chất béo không bão hòa đa thể được thấy nhiều nhất trong dầu hạt lin (linseed, flaxseed oil), kế đến là dầu hoa hướng dương (tournesol, sunflower oil), dầu đậu nành, dầu bắp (corn oil) vv…
Hai chất Omega 3 và Omega 6 thường được các nhà dinh dưỡng ca tụng hết lời vì chúng có khả năng giúp cơ thể tổng hợp chất prostaglandin rất cần thiết để giữ cho máu lưu thông được dễ dàng, ngừa các bệnh tim mạch.
Oméga 3 có thể giúp giảm cholesterol, ngăn ngừa được các chứng viêm khớp, một số bệnh ngoài da, bệnh dị ứng, hen suyễn, trầm cảm, và người ta cũng nghĩ rằng nó có thể ngừa được một vài loại ung thư (vú, ruột và bao tử)?
Ngoài ra,Omega 3 cũng có thể làm giảm chất béo xấu Triglycerides xuống.
Một số cá vùng nước lạnh như Mackerel, Hareng, Tuna, Salmon…đều có chứa Omega 3.
Tóm lại, chất béo không bão hòa đa thể có khả năng làm giảm lượng total cholesterol gồm cả loại xấu lẫn loại tốt trong máu xuống.
Chất béo không bão hòa đơn thể chỉ làm giảm cholesterol xấu xuống mà thôi.
blank
Thịt heo quay tại nhà, ngon nhưng nhiều mỡ lắm(Photo NTC)
Cholesterol là gì?
Đây là một loại chất béo chỉ thấy trong thức ăn gốc động vật mà thôi.
Trong máu, 80% cholesterol do gan sản xuất, phần còn lại do thực phẩm mang vào.
Ở người có sức khỏe tốt, gan tự điều tiết việc tổng hợp cholesterol để giữ hàm lượng chất nầy trong máu ở mức độ bình thường.
Nhưng một lượng chất béo bão hòa quá cao sẽ kích thích gan sản xuất thêm nhiều cholesterol. Dầu dừa, nước cốt dừa và dầu cọ (cũng là một loại dầu nhiệt đới) đều có tỉ lệ chất béo bão hòa thật cao, hãy cẩn thận.
Cholesterol rất cần trong việc tổng hợp hormons (estrogen, androgen, progesterone, cortisone…), tạo lập màng tế bào thần kinh, và sản xuất muối mật để tiêu hóa.
Trong máu ¾ cholesterol được một loại lipoprotein có tỉ trọng thấp chuyên chở (low density lipoprotein). Người ta gọi chúng là cholesterol xấu hay LDL. Phần cholesterol còn lại do một loại lipoprotein có tỉ trọng cao (high density lipoprotein) chuyên chở nên được xem như cholesterol tốt hay HDL.
Một tỉ lệ cholesterol xấu quá cao có khuynh hướng tích tụ thành những mảnh mỡ đóng trong thành mạch máu, nhất là mạch vành (coronary artery) nuôi tim.Theo thời gian , mạch sẽ trở nên xơ cứng (atherosclerosis), khẩu kính mạch trở nên nhỏ hẹp hoặc bị tắt nghẽn, lưu thông máu bị cản trở, gián đoạn gây nên triệu chứng đau thắt ngực (angine de poitrine, angor), nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde, myocardial infarction, heart attack) hoặc tai biến mạch máu não ( AVC, Stroke ) nếu xảy ra trong đầu.
Nhiệm vụ của cholesterol tốt là chuyên chở cholesterol xấu dư thừa từ mạch máu trở về gan. Các nhà chuyên môn khuyến cáo chúng ta nên giữ hàm lượng:
Total cholesterol trong máu dưới mức 200mg/dL hay dưới 5.2mmol/L
HDL (cholesterol tốt) phải trên 35mg/dL hay trên 0.9mmol/L
LDL (cholesterol xấu) phải thấp hơn 3.4mmol/L
Tỉ lệ Total cholesterol / HDL phải bằng hoặc thấp hơn 5 / 1 mới tốt.
Triglycerides phải thấp hơn 2.3 mmol / L hay dưới 200mg/dL
Chúng ta cần giới hạn số cholesterol ăn vào trong ngày ở mức độ thấp hơn 300 mg.
Cholesterol có nhiều trong thịt,mỡ, sữa nguyên chất (loại 3.25% chất béo), crème, bơ, fromage, lòng đỏ hột gà, đồ lòng như gan, thận, óc, đồ biển vv…
dau_hay_mo_chien_cha _gio_ngap_dau-large-content
Dầu nhiều quá
Triglyceride là gì?
Đây cũng là một loại chất béo khác, một phần do thức ăn đem vào, và một phần khác do cơ thể tổng hợp trong tiến trình chuyển hóa năng lượng. Trong máu, Triglyceride được một loại protein có tỉ trọng thật thấp chuyển vận, gọi là very low density lipoprotein hay VLDL.
Nhiệm vụ của Triglyceride là giúp tế bào tạo năng lượng, phần dư thừa sẽ được tích trử dưới dạng mỡ. Cũng như chất béo bão hòa, Triglyceride là chất béo xấu.
Hàm lượng triglyceride cao có thể làm tăng nguy cơ nghẽn mạch.
Bánh kẹo ngọt và rượu đều đóng một vai trò quan trọng trong việc làm tăng chất Triglyceride trong máu lên.
Tập thể dục thường xuyên sẽ làm giảm Triglyceride và đồng thời cũng làm hạ cholesterol xấu (LDL) xuống và làm tăng cholesterol tốt (HDL) lên.
kfc_day_chat_beo-large-content
Quá nhiều muối và nhiều dầu
Trans fat là gì?
Kỹ nghệ làm bánh kẹo và margarine thường áp dụng phương pháp hydro hóa (hydrogenation) bằng cách cho thêm hydrogen vào dầu thực vật để chuyển chúng từ thể lỏng sang thể bán lỏng hay thể rắn chắc.Quá trình sản xuất nầy sẽ làm nẩy sinh ra một loại acid béo rất xấu, đó là Trans fat. Mục đích của hydrogenation là để giúp sản phẩm được khô ráo, tươi tốt, không bời rời, dễ hấp dẫn người tiêu thụ và đồng thời cũng có thời gian tồn trử (shelf life) lâu dài. Khi các bạn nhìn trên nhãn hiệu có đề shortening hoặc made from hydrogenated hay partially hydrogenated vegetable oil thì chắc chắn là có cả khối Trans fat trong đó rồi.
Cũng như chất béo bão hòa, Trans fat làm tăng cholesterol xấu, giảm cholesterol tốt và có khuynh hướng gây bệnh nghẽn mạch.
Muốn tính số lượng Trans fat trong sản phẩm,thì hãy xem nhãn hiệu étiquette.
Trans fat = Total fat - (saturated + polyunsaturated + monounsaturated fat)
Theo quy định mới về nhãn hiệu dinh dưỡng (Nutrition facts) của Hoa kỳ và Canada, kể từ năm 2006 nhà sản xuất bắt buộc phải cho ghi rõ số Trans fat trên nhãn hiệu của tất cả những sản phẩm bán ra.
Được miễn áp dụng điều lệ nầy nếu món hàng có tổng số chất béo (total fat) thấp hơn 0.5 gr cho mỗi phần chuẩn hay xuất ăn (per serving, par portion).
Nói chung, tất cả sản phẩm sản xuất theo lối công nghiệp, bán ở các tiệm hoặc nhà hàng đều có chứa Trans fat: bánh ngọt, cookies, chocolat, patisserie, bánh biscuit, mì gói, bánh mì croissant, chip, bánh donut, muffins, bánh trung thu , bánh pâté chaud bánh cracker , peanut butter, khoai Tây chiên French fries,các loại margarine cứng, được làm từ hydrogenated vegetable oil và thậm chí những thỏi cớm ngọt (bars tendres, chewy granola bars) mà quảng cáo nói là rất bổ dưỡng cũng có chứa Trans fat trong đó.
Một số lượng nhỏ Trans fat cũng có thể thấy hiện diện một cách tự nhiên trong một ít thức ăn gốc động vật như bơ, các sản phẩm làm từ sữa, fromage, thịt bò và thịt cừu .
Quá nhiều đường và trans fat-Bánh Donut Mỹ Vào Đài Loan-Vietbao.com
blank
Không tốt- chứa nhiều palm oil hay dầu cọ (photo NTC)
Bệnh nhà giàu hay bệnh nhà nghèo?
Ngày nay, hiện tượng béo phì, bệnh tim mạch, cao máu, tiểu đường và một vài loại cancer là những tai họa thật sự trong xã hội Bắc Mỹ và cũng của Việt Nam nữa.
Người ta thường gọi đó là bệnh của nhà giàu, nhưng riêng người gõ thì không nghĩ như vậy. Dù nghèo hay giàu, dù ở VN hay ở bên Tây, bên Mỹ, bên Tàu, dù ăn chay hay ăn mặn, dù ốm hay mập, nếu xài quá nhiều dầu mỡ thì nguy cơ bệnh tật vẫn giống y như nhau hết.
Tuy vậy, chất béo cũng rất cần thiết cho trẻ em đang lớn, nhất là lúc các cháu được 1-2 tuổi. Chúng cần thật nhiều chất béo để tăng trưởng và để phát triển tốt.
Những nguyên nhân khác
Nguyễn T Chánh & Nguyễn N Lan-‘Fast Food’ hay ‘Fat Food
Chất béo của thực phẩm chưa phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng nồng độ cholesterol trong máu. Hàm lượng chất béo (cholesterol và triglyceride) trong máu cũng còn có thể tăng lên bởi nhiều nguyên nhân khác nữa như: di truyền, tuổi tác cao, thời gian mãn kinh ở phụ nữ ménopause, thiếu vận động hay thể thao, bệnh tiểu đường, bệnh nhược giáp trạng (hypothyroidism), bệnh gan (obstructive liver disease), bệnh suy thận mãn tính (chronic renal failure), một số thuốc như steroid anabolisant, progesterone,một số thuốc ngừa thai,các corticoides, thuốc trị áp huyết cao nhóm Thiazide diuretics, các thuốc trị cao máu thuộc nhóm chẹn bêta(bêta bloquant) như Atenolol,Acebutolol vv… cũng có thể làm tăng cholesterol trong máu.
Ngoài ra cần phải nhớ là thuốc lá, rượu và café đều là những thứ làm gia tăng nguy cơ xuất hiện các bệnh chứng về tim mạch.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều dược phẩm rất công hiệu để làm giảm cholesterol, và triglyceride trong máu, chẳng hạn như Atorvastatin(Lipitor ), Lovastatin(Mevacor), Pravastatin (Pravachol), Simvastatin(Zocor), Gemfibrozil(Lopid), Probucol,Clofibrate , Fenofibrate vv..Tuy vậy, phản ứng phụ của chúng cũng nhiều và có thể gây ảnh hưởng xấu đến chức năng hoạt động của gan (làm tăng các enzyms của gan). Chúng ta cần phải tuyệt đối tuân theo lời chỉ dẫn của bác sĩ.
Đứng về mặt thuốc thiên nhiên,quảng cáo cũng không phải ít về những sản phẩm có thể giúp hạ cholesterol, giảm mập vv… Đó là các viên dầu cá có chứa một hỗn hợp gồm có Omega 3,6,9 + vitamin E , niacin, tisane, trà xanh, trà đắng, trà đinh, thuốc lá cây, nấm linh chi, nấm hương, tam thất, mộc nhỉ, mè đen và biết bao nhiêu thứ khác nữa được bày bán trong các tiệm thuốc Bắc hoặc được giới Đông y phổ biến. Các sản phẩm vừa nêu có thể giúp làm giảm một phần nào chất béo trong cơ thể , tuy vậy phía Tây y vẫn thường xuyên cảnh giác mọi người cần nên thận trọng để tránh cảnh tiền mất tật mang.
Một vài loại thực phẩm, chẳng hạn như các chất xơ tan trong nước (soluble fibre ) thấy nhiều trong cám lúa yến mạch (oat bran, son d’avoine ), lúa mạch (barley), Psyllium, hạt hạnh nhân (almond), quả hạch Walnut, củ hành Tây, tỏi ăn sống, trái blueberries, sữa đậu nành cũng có thể giúp làm giảm phần nào cholesterol xấu trong máu.
Vậy chúng ta nên làm gì?
+ Tiết chế ăn uống: ăn vừa phải các chất đường, mỡ và muối.
+ Nên dùng nhiều rau quả tươi, năng vận động, tập thể dục đều đặn và thường xuyên, giảm mập, bỏ thuốc lá, bớt rượu và bớt cà phê.
+ Nên quẳng gánh lo đi và vui sống với mọi người.
+ Riêng với người có tuổi, mỗi năm nên đi khám bác sĩ và xin được thử máu, thử tim một lần. Căn cứ vào kết quả xét nghiệm, bệnh sử và một số yếu tố khác như tuổi tác, cân nặng, có hút thuốc, nam hay nữ, có bị tiểu đường hay không… Bác sĩ sẽ thiết lập cho bạn một bản ước đoán % mối nguy cơ bạn có thể bị nghẽn mạch vành tim (risque de coronapathie) thuộc vào loại nào (thấp - trung bình - cao) trong vòng 10 năm sắp tới.
Biết để đề phòng, để thay đổi cách sống và cũng để uống thuốc!
Lời khuyên của một bs chuyên khoa tim mạch
Và đây cũng lời khuyên của một BS chuyên khoa về tim mạch, dr Michel Nguyễn của Đại học Y khoa Sherbrooke:
Để phòng ngừa bệnh tim mạch chúng ta cần phải thay đổi nếp sống: dinh dưõng trong lành, tập thể dục thường xuyên, bỏ thuốc lá, và đồng thời nên uống thuốc để tác động thẳng lên những yếu tố nguy cơ… (Dr Michel Nguyen)
Le Dr Nguyen est cardiologue au Centre hospitalier universitaire de Sherbrooke (CHUS), chercheur au Centre de recherche du CHUS et professeur à la faculté de médecine et des sciences de la santé del'Université de Sherbrooke.
En modifiant votre mode de vie (alimentation saine s’inspirant du Guide alimentaire canadien, exercice physique régulier et arrêt du tabagisme) et en suivant, en parallèle, un traitement médicamenteux qui agit sur les facteurs de risque, vous diminuez sans aucun doute l’inflammation, la progression de la maladie et conséquemment les risques d’avoir d’autres crises d’angine ou un infarctus. Il n’est jamais trop tard pour changer ses mauvaises habitudes.
De nos jours, avec tout l’arsenal thérapeutique médical, l’angioplastie coronarienne et le pontage, il est rare qu’il ne soit pas possible de contrôler la maladie ou les symptômes pour que la personne atteinte puisse mener une vie normale. À condition qu’elle sache se modérer..
Buổi sáng thức dậy đừng bao giờ ăn 3 loại thực phẩm này vì vừa ít dinh dưỡng lại vừa gây ung thư, độc hại hơn cả nhịn đói
Việc ăn sáng bằng 3 loại thực phẩm "độc hại" dưới đây rất nguy hiểm, bạn cần kịp thời phòng tránh.
Khoai lang là "vua chống ung thư" nhưng đừng dại ăn theo 5 cách này vì có thể sinh độc, hại thân, rước thêm bệnh
7 món ăn sáng "tốt như thuốc quý", bổ gấp mấy lần bún phở, lại tốt cho gan mà người Việt nên ăn để chống bệnh tật
Khám phá món ăn sáng yêu thích của Yến Trang: Vừa giữ dáng lại giúp dưỡng da đẹp mịn từ bên trong!
Ăn sáng đầy đủ là "câu thần chú" từ người già lẫn trẻ nhỏ đều ghi nhớ để bảo vệ sức khỏe, nhưng bữa sáng không chỉ cần no mà còn cần phong phú để đáp ứng 1/3 lượng dinh dưỡng hàng ngày của cơ thể, giúp phục hồi thể lực, cải thiện trạng thái tinh thần.
Ngược lại, việc ăn sáng bằng 3 loại thực phẩm "độc hại" dưới đây còn gây hại nghiêm trọng cho cơ thể hơn là để bụng đói. Bạn cần đọc để kịp thời thay đổi thói quen tai hại này.
13de553d7ed14f5e874a b954efd5df60.jpg
3 bữa sáng gây ung thư cực mạnh, độc hại hơn cả nhịn đói
1. Bữa sáng với nhiều đồ chiên rán
Bác sĩ Zhang Wenhong, trưởng Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Hoa Sơn, Đại học Phúc Đán, Trung Quốc cho biết: Bữa sáng không chỉ phải ăn no mà còn phải ăn lành mạnh, bổ dưỡng. Đồ chiên rán tuy có mùi thơm, giúp kích thích vị giác nhưng nếu bạn ăn chúng mỗi sáng cơ thể có thể bị quá tải.
a4dc9269735049b9b44c 0cf750c0b511.jpg
Bác sĩ Zhang Wenhong, trưởng Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Hoa Sơn, Đại học Phúc Đán, Trung Quốc.
Trước hết, đồ chiên rán rất nhiều calo. Một miếng thịt chiên 85g chứa từ 9-31g chất béo, năng lượng tương đương 3 bát cơm. Ăn nhiều dầu mỡ không chỉ làm tăng gánh nặng chuyển hóa của gan, thận mà còn làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Thứ hai, thịt được chiên rán ở nhiệt độ cao nên hầu như dinh dưỡng, vitamin, khoáng chất... trong thịt bị phá hủy, chất dinh dưỡng còn lại rất thấp.
1599120358_85_Lam-hai-mon-nhanh-gon-le-dac-biet-mon-canh.jpg
Thứ ba, thịt được chiên trong dầu ăn cũ rất nguy hiểm. Việc tái sử dụng dầu có thể tạo ra các gốc tự do làm tổn thương các tế bào khỏe mạnh, từ đó dẫn đến ung thư, xơ vữa động mạch hoặc làm tắc nghẽn động mạch.
Do đó, bữa sáng nên ăn ít thực phẩm chiên rán hơn để không phải đối mặt với bệnh ung thư.
2. Bữa sáng với đồ ngọt
Bữa sáng nhanh với bánh quy, bánh kem, đồ ăn nhẹ nhiều đường tuy rất ngon nhưng lại không tốt cho sức khỏe. Vì hầu hết các món ăn này đều chứa polysaccharid và nhiều dầu mỡ, chúng có xu hướng gây tăng cân khi bạn ăn quá nhiều. Hơn nữa, những thực phẩm này thường chỉ chứa đường chứ không có chứa nhiều protein chất lượng cao, vitamin và các nguyên tố vi lượng, nếu lạm dụng bữa sáng như thế này sẽ khiến cơ thể bị thiếu hụt dinh dưỡng.
Đáng sợ hơn cả đó là việc ăn nhiều đường có thể gây ung thư. Một nghiên cứu thực hiện trên hơn 430.000 người cho thấy việc ăn quá nhiều đường có thể làm tăng nguy cơ ung thư thực quản, ung thư màng phổi và ung thư ruột non. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy những phụ nữ ăn bánh ngọt và bánh quy nhiều hơn 3 lần mỗi tuần cũng có nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung cao gấp 1,42 lần so với những phụ nữ tiêu thụ những thực phẩm này ít hơn 1 lần mỗi tuần.
3. Bữa ăn thừa của đêm hôm trước
Mặc dù bữa sáng kiểu này có vẻ tiết kiệm nhưng lại không được khuyến khích. Thực phẩm giàu protein như cá, thịt và các sản phẩm từ đậu nành sẽ bị ôi thiu. Riêng rau xanh có chứa nhiều nitrat, để qua đêm dễ chuyển thành nitrat, đây là một chất có thể gây ung thư.
photo-1604395301816-16043953024845740592 67.jpeg
Bữa sáng như thế nào là lành mạnh và phòng chống được bệnh ung thư?
Giáo sư Yu Kang đến từ Khoa Dinh dưỡng Lâm sàng của Bệnh viện Đại học Y tế Công đoàn Bắc Kinh cho biết bữa sáng rất quan trọng, nếu không có thời gian thì bạn chỉ cần uống một ly sữa tươi hay ăn một quả trứng luộc.
Người tuổi thọ ngắn sau khi ăn cơm sẽ xuất hiện 3 dấu hiệu này, chỉ cần có 1 điểm bạn cũng nên đi khám khẩn cấp
Nhưng nếu có thời gian chăm sóc cơ thể, bạn nên ăn 1 bữa sáng có đủ các yếu tố sau:
- Đa dạng dinh dưỡng.
- Giàu protein chất lượng cao.
- Giàu vitamin.
- Giàu canxi.
Các thực phẩm khuyên dùng cho bữa sáng là: Trứng gà, yến mạch, trái cây, sữa chua, quả óc chó...
4 bữa sáng khoái khẩu của nhiều người nhưng lại là sát thủ gây "thối gan", cần từ bỏ ngay trước khi ung thư
Gan là cơ quan giải độc và tổng hợp chất dinh dưỡng, nếu ăn sáng bằng những món độc hại dưới đây thì gan của bạn có thể bị tổn thương.
Thứ này trong nhà bếp còn bẩn gấp bồn cầu 200 lần, chứa chất độc gấp 10 lần kali xyanua: Người Việt đang mắc phải 2 sai lầm khi dùng mà không biết!
3 bí mật giúp nội tạng "hồi sinh" tự nhiên được giáo sư nổi tiếng Nhật Bản tiết lộ, ai làm được sẽ vừa giảm bệnh lại còn sống lâu trăm tuổi
Loại thịt có nguy cơ gây ung thư cao, người Việt rất thích nhưng 90% chưa nắm rõ lưu ý khi tiêu thụ, nên ăn bao nhiêu là an toàn?
Ăn sáng đầy đủ từ lâu đã là "câu thần chú" được khuyên dùng để giữ gìn sức khỏe. Thật đúng như vậy, nghiên cứu khoa học cho thấy việc bỏ ăn sáng có thể khiến cơ thể bị thiếu năng lượng, dễ bị hạ đường huyết, đồng thời dễ dẫn đến tình trạng viêm dạ dày và sỏi mật.
Một bữa sáng đầy đủ dinh dưỡng sẽ giúp cơ thể bạn khỏe mạnh hơn. Ngược lại, bữa sáng nếu tiêu thụ sai cách sẽ làm hại gan. Gan là cơ quan giải độc và tổng hợp chất dinh dưỡng, nếu ăn sáng bằng những món độc hại dưới đây thì gan của bạn có thể bị tổn thương.
4 loại bữa sáng gây hại gan bậc nhất
1. Sữa đậu nành + khoai tây chiên
Sữa đậu nành với khoai tây chiên là món ăn sáng mà trẻ em rất thích. Sữa đậu nành giàu dinh dưỡng, kết hợp với những miếng khoai tây chiên thơm phức thật sự rất hấp dẫn.
Tuy nhiên, hàm lượng dầu trong khoai tây chiên rất cao nên không thân thiện với gan, ăn nhiều sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh gan nhiễm mỡ.
15h15-ngay-31-12-tin-moi-an-nhieu-khoai-tay-chien-co-gay-ung-thu1609400575.png
Ngoài ra, dầu khi được chiên ở nhiệt độ cao thường tạo ra benzen. Đây là chất có khả năng gây ung thư nằm trong nhóm 1 theo phân loại của Tổ chức nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC). Tiêu thụ lâu dài chất này có thể làm tổn thương tế bào gan và phá hủy mô gan.
2. Cơm trắng + dưa muối
Để tiện cho bữa sáng, nhiều người chọn ăn cơm cùng dưa muối và canh. Nhưng sự kết hợp này thực sự rất ít dinh dưỡng, thậm chí còn gây hại cho sức khỏe. Trong quá trình ướp, dưa được bổ sung rất nhiều muối, vì thế rất gây hại cho dạ dày.
Không những vậy, quá trình lên men khiến dưa muối sản sinh ra nitrat, sau khi vào cơ thể sẽ kết hợp với các amin tạo thành nitrit. Khi gan chuyển hóa nitrit, chất này có thể làm tổn thương các tế bào gan, khiến tình trạng bệnh dễ trầm trọng hơn.
Dưa-Cải-Muối.jpeg
3. Bánh ngọt
Nhiều người thích ăn bánh ngọt vào bữa sáng, đơn giản vì chúng dễ mua, hoặc vị ngọt của chúng sẽ khiến tâm trạng vào buổi sáng vui vẻ hơn, bớt căng thẳng.
Tuy nhiên, thói quen ăn sáng này thực sự không tốt, vì bánh chứa nhiều đường sẽ gây gánh nặng cho gan, ăn thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến khả năng chuyển hóa đường của gan, gây bệnh gan.
Không những vậy, lượng calo trong bánh cực cao, nếu ăn thường xuyên sẽ gây đầy bụng, đau bụng, làm hại cho cơ niêm mạc dạ dày. Vì vậy, tốt nhất nên ăn ít hoặc không nên ăn bánh ngọt vào buổi sáng.
4. Trứng + sữa
Trứng và sữa là những thực phẩm giàu protein và chúng rất bổ dưỡng. Đối với những người khỏe mạnh, ăn sáng như thế này không có vấn đề gì.
2012_cach-an-giup-giam-can-01.jpeg
Tuy nhiên, nó không được khuyến khích cho những người có chức năng gan yếu. Protein chứa nitơ, cần được gan chuyển hóa thành urê. Ăn quá nhiều protein sẽ tạo gánh nặng cho gan trong việc giải độc và làm tăng lượng mật do gan tiết ra, ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của gan và làm tổn thương gan.
Một bữa sáng tốt cho gan sẽ như thế nào?
Người cao tuổi: Khi về già, chức năng tiêu hóa và gan suy giảm, vì thế bữa sáng nên ăn một số thức ăn dễ tiêu như: bánh mì, rau xanh, ngũ cốc…
Cụ bà người Nhật sống thọ 118 tuổi dù từng mắc 2 bệnh ung thư: Bí quyết đến từ 3 món ăn ở Việt Nam bán đầy các chợ
Nhân viên văn phòng: Nên chú trọng đến việc ăn no cũng như đầy đủ dinh dưỡng, khuyến khích ăn bún, phở, cơm….
Học sinh: Chú ý chế độ dinh dưỡng phong phú, có thể là trứng, sữa, bánh mì…
Nửa tiếng sau bữa ăn sáng có thể uống thêm trà kim ngân hoa cúc để giải độc gan. Giúp làm ẩm đường ruột, giảm táo bón, chống tắc nghẽn gan khí.
Có tới 80% các ca đột quỵ não là do cục máu đông. Bổ sung các loại thực phẩm có lợi sẽ giúp bạn hạn chế hiện tượng này.
Huyết khối (cục máu đông) là quá trình tập trung máu đến các mạch máu bị rách và làm ngừng chảy máu, khi một người bị chảy máu, quá trình tạo máu đông sẽ được kích hoạt. Cục máu đông là nguyên nhân hàng đầu gây đột quỵ não. Cục máu đông được hình thành trong mạch máu sẽ làm tắc lưu thông dòng máu, khiến não bị thiếu máu cục bộ.*
Để hạn chế hiện tượng này, bạn nên bổ sung các loại thực phẩm sau vào chế độ ăn uống:
1. Nghệ
(Ảnh: Shutterstock)
Theo Cơ sở dữ liệu dinh dưỡng quốc gia USDA (Mỹ), một thìa canh bột nghệ chứa 29 calo; 0,9g protein; 0,3g chất béo; 6,3g carbohydrate (2g chất xơ và 0,3g đường); cung cấp 26% nhu cầu mangan hàng ngày; 16% nhu cầu sắt; 5% kali và 3% vitamin C.*
Một thử nghiệm được nghiên cứu bởi các chuyên gia dược học Mỹ cho thấy curcumin có khả năng kéo dài thời gian aPTT và PT, liên quan đến nhiều chất làm loãng máu hiện nay. Curcumin cũng gây ức chế việc tạo ra Thrombin và FXa. Do đó, những phát hiện này cho thấy tinh chất nghệ có thể có các hoạt động chống đông máu.
Ghi chú:
Thời gian kích hoạt một phần Thromboplastin (aPTT): Xét nghiệm máu đặc trưng cho mức độ đông máu trong máu.
Thời gian Prothrombin (PT): Xét nghiệm máu đo khoảng thời gian cần thiết để hình thành cục máu đông.
Thrombin dựa trên tế bào: Một loại enzyme trong huyết tương có chức năng chuyển fibrinogen thành fibrin để đông máu.
Yếu tố X hoạt hóa (FXa): Yếu tố Xa là dạng hoạt động của thrombokinase, đóng vai trò quan trọng trong nhiều giai đoạn của quá trình đông máu.
2. Gừng
(Ảnh: Pexels)
Trong gừng có tinh dầu 2- 3%, chất nhựa 5%, chất béo 3%, tinh bột và các chất cay như zingeron, shogaol. Từ ngàn xưa, gừng và tinh dầu chiết xuất từ gừng đã nổi tiếng với nhiều công dụng chăm sóc sức khỏe con người. Người cao tuổi nên thường xuyên ăn gừng để làm loãng máu, giảm nguy cơ đột quỵ. Salicylate trong gừng có thể ngăn ngừa tình trạng đông máu ở tĩnh mạch mà không gây ra các biến chứng chảy máu.
3. Tỏi
(Ảnh: Shutterstock)
Trong 100g tỏi có chứa 6,36g protein, 33g carbohydrates, 150g calo và các dưỡng chất như vitamin nhóm B (B1, B2, B3, B6), sắt, canxi, kali, mangan, magie, photpho… Allicin trong tỏi có tác dụng giúp cơ thể loại bỏ những chất độc hại, tăng cường các tế bào bạch cầu thêm khỏe mạnh, đồng thời allicin còn giúp loại bỏ nicotine để thanh lọc máu và làm sạch hệ hô hấp.*
Tỏi có tác dụng ngăn đóng máu cục nhưng người mắc bệnh tim mạch đang dùng thuốc chống đông máu (đặc biệt là loại mạnh đường uống như warfarin) thì không được ăn tỏi. Những loại thuốc này sẽ mất tác dụng nếu bị dùng chung với tỏi (tỏi sống, tỏi ngâm, tỏi xào…). Nếu kết hợp, người bệnh sẽ rơi vào tình trạng dễ chảy máu, chỉ cần một va đập nhẹ thôi máu cũng rất khó đông và khả năng tự phục hồi cũng giảm.
4. Quế
(Ảnh: rawf8/Shutterstock)
Trong 1 muỗng canh bột quế chứa 19 calo, 4 gam chất xơ, 68% mangan, 8% canxi, 4% sắt, 3% vitamin K, không đường, không chất béo. Coumarin trong quế là một chất hóa học có tác dụng chống đông máu rất mạnh.*
Khi được tiêu hóa trong quế, coumarin có thể làm giảm huyết áp và giảm viêm gây ra do viêm khớp và các tình trạng viêm khác. Quế rất tốt nhưng bạn không nên ăn nhiều vì chúng có thể gây đau miệng, kích ứng, mẩn đỏ. Những người có vấn đề về gan, bệnh nhân tiểu đường, phụ nữ mang thai và cho con bú không nên dùng quế.
Do chứa nhiều salicylate nên ớt cayenne cũng có tác dụng làm loãng máu. Tuy nhiên, ăn quá nhiều ớt cayenne trong một lần có thể khiến bạn bị đau bụng và buồn nôn.*
Bí quyết dưỡng sinh của cụ bà bị ung thư nhưng thọ hơn 100 tuổi: Phơi nắng
6. Quả dứa
(Ảnh: Anna Shvets / Pexels)
Trong dứa chứa 86% nước, 13% carb và có rất ít hoặc chất béo, protein. Hàm lượng carbohydrate trong dứa tương đối lớn, chất xơ chủ yếu dưới dạng không hòa tan như cellulose, pectin, hemicellulose.*
Dứa là loại trái cây chứa nhiều vitamin và khoáng chất thiết yếu có lợi cho sức khỏe con người. Dứa còn là thực phẩm duy nhất có chứa hợp chất thực vật bromelain cực kỳ có lợi cho sức khỏe.*
Bromelain trong dứa có tác dụng làm loãng máu, giảm sự hình thành của cục máu đông. Kali trong dứa có tác dụng làm giãn mạch tự nhiên, thúc đẩy quá trình lưu thông máu đến các bộ phận khác nhau trong cơ thể. Khi các mạch máu thư giãn, huyết áp sẽ giảm xuống và lưu lượng máu sẽ bị hạn chế. Vì vậy tiêu thụ dứa thường xuyên có thể ngăn ngừa tình trạng đột quỵ và xơ vữa động mạch.
7. Dầu ô liu
(Ảnh: Pixabay)
Dầu oliu extra virgin chứa một lượng vừa phải vitamin E, vitamin K, nhiều axit béo có lợi. Một muỗng canh (13,5 gram) dầu ô liu có 14% chất béo bão hòa,* 73% (chủ yếu là axit oleic) chất béo không bão hòa đơn, 13% giá trị hàng ngày (DV) vitamin E, 7% của DV vitamin K.*
Các bệnh tim mạch như bệnh tim và đột quỵ là một trong những nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất trên thế giới. Dầu oliu extra virgin bảo vệ chúng ta chống lại bệnh tim thông qua nhiều cơ chế, trong đó có khả năng giúp quản lý đông máu. Một số nghiên cứu cho thấy, dầu ô liu có thể giúp ngăn ngừa đông máu không mong muốn – một tính năng chính của các cơn đau tim và đột quỵ.
7 loại hạt trái cây bạn nên dùng để chăm sóc sức khỏe thay vì vứt đi
Trái cây vừa ngon miệng vừa mang đến nhiều lợi ích sức khỏe. Không có gì bất ngờ khi trái cây là một phần không thể thiếu trong mọi chế độ ăn uống lành mạnh. Vì thịt quả có tác dụng như một lớp bảo vệ cho hạt, nên ăn hạt một số loại trái cây cũng mang đến lợi ích cho sức khỏe của chúng ta.
Bài viết này chỉ dành cho mục đích cung cấp thông tin tham khảo. Bạn cần nghe tư vấn từ bác sĩ trước khi dùng các loại hạt dưới đây nhằm ngăn ngừa các rủi ro có thể gặp phải.
1. Hạt dưa hấu dưỡng da
(Ảnh: Karolina Grabowska / Pexels)
Khi ăn dưa hấu, nhiều người có thói quen bỏ hạt đi, tuy nhiên hạt dưa hấu chứa nhiều vitamin C và chất chống oxy hóa thường được sử dụng để điều trị mụn trứng cá, giúp da sáng đẹp hơn.
Cách ăn: Bạn có thể rang hạt dưa hấu với dầu ô liu và một chút muối. Tuy nhiên, nhai hạt luôn khi bạn ăn dưa hấu cũng không gây hại gì vì chúng rất dễ tiêu hóa.
2. Hạt đu đủ cho hệ tiêu hóa khỏe mạnh
(Ảnh: Shutterstock)
Đu đủ là một loại trái cây bổ dưỡng và lợi ích của nó đều được mọi người biết đến. Bên cạnh đó, hạt đu đủ rất giàu enzyme papain có khả năng tăng cường tiêu hóa và tốt cho sức khỏe tổng thể của bạn.
Cách ăn: Bạn có thể trực tiếp ăn hạt đu đủ với thịt quả (không nên ăn quá nhiều). Hoặc bạn hãy thêm chúng vào món salad.
3. Hạt lựu để giảm cân
(Ảnh: Shutterstock)
Loại quả thanh mát này chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Theo các chuyên gia về giảm cân, hạt lựu là một liều thuốc bổ cho sức khỏe và có thể giúp bạn giảm cân.
Cách ăn: Bạn hãy nghiền hạt thành bột để rắc vào các bữa ăn giảm cân hoặc ép thành nước để uống như bình thường.
4. Hạt bơ tốt cho sức khỏe tim mạch
(Ảnh: Shutterstock)
Bơ là một trong những loại trái cây vô cùng tốt cho sức khỏe. Ngoài ra, một số nghiên cứu đã chứng minh rằng hạt bơ cực kỳ có lợi cho sức khỏe tim và mạch máu.
Cách ăn: Bạn bỏ phần vỏ nâu bọc quanh hạt rồi đợi cho hạt khô, sau đó cho hạt vào máy xay sinh tố để xay thành bột. Bạn hãy dùng loại bột này để làm sinh tố hoặc pha trà.
5. Hạt cam tăng cường năng lượng
(Ảnh: Any Lane / Pexels)
Chúng ta luôn vứt hạt cam đi vì chúng quá đắng. Thực tế, loại hạt này có tác dụng rất tốt trong việc đẩy nhanh mức năng lượng trong cơ thể.
Cách ăn: Nếu chịu được vị đắng, bạn có thể ăn hạt trực tiếp với múi cam ngon ngọt. Hoặc nghiền hạt ra để cho vào thức ăn và đồ uống tăng cường năng lượng.
6. Hạt lê châu Phi cho răng khỏe mạnh
Ăn nhiều lê giúp bổ sung các chất dinh dưỡng trong cơ thể, cũng như có thể bồi bổ dạ dày, có lợi cho ruột, loại bỏ mùi hôi miệng. (Ảnh: Shutterstock)
Lê Châu Phi hay còn gọi là Dacryodes edulis, là một loại trái cây sở hữu nhiều đặc tính y học, dược lý và sinh học rất có lợi cho sức khỏe con người. Mặt khác, hạt lê chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, ví dụ như canxi góp phần vào sự phát triển và duy trì răng khỏe mạnh.
Cách ăn: Nếu bạn không thích ăn lê mà chỉ muốn thử ăn hạt, chúng có sẵn trong các cửa hàng bán thực phẩm tốt cho sức khỏe. Bạn còn có thể sử dụng dầu chiết xuất từ hạt như một loại chất bổ sung tự nhiên.
7. Hạt chanh dây tốt cho sức khỏe tinh thần
(Ảnh: Shutterstock)
Theo một đánh giá có hệ thống, hạt chanh dây đã được chứng minh là chứa rất nhiều magiê, có khả năng giúp con người kiểm soát mức độ lo lắng.*
Cách ăn: Thật dễ dàng để thưởng thức hạt chanh dây vì bạn chỉ cần múc một thìa là có thể trực tiếp ăn tất cả. Một cách thưởng thức khác là lấy thịt quả và cả hạt ra để làm nước ép hoặc sinh tố.*
7 loại trái cây quen thuộc giúp giảm cân nhanh chóng, an toàn
Nỗi lo về mỡ bụng không phải là khái niệm xa lạ với các chị em phụ nữ. Để giữ dáng, không ít người sử dụng những cách tiêu cực như nhịn ăn, uống những loại thuốc/trà giảm cân thần tốc.
Sự thật là cái gì nhanh quá cũng không tốt, thậm chí còn ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của bản thân. Rất nhiều trường hợp giảm cân được một chút nhưng lại mắc bệnh về dạ dày, tiêu hóa. Thật sự các chị em không nên làm đẹp tiêu cực như vậy.
Giảm cân khỏe đẹp cần một quá trình lâu dài với chế độ ăn uống, luyện tập nghiêm chỉnh, bạn không thể đi đường tắt được. Vậy nên để hỗ trợ cho thời gian kiêng khem này, các bạn có thể ăn các loại hoa quả có lượng calo thấp và giàu vitamin sau.
1. Bơ
Bơ chứa hàm lượng lớn các axit béo omega 9 – chất béo không bão hòa đơn rất tốt cho cơ thể. Bơ còn giúp gia tăng mức độ chuyển hóa mỡ thành năng lượng, giúp cải thiện hệ thống trao đổi chất.
(Ảnh: Pixabay)
2. Táo
Táo chứa nhiều chất xơ và ít hàm lượng calo, giàu vitamin B và C, chất chống oxy hóa và các khoáng chất.
Quả táo có chứa chất xơ hòa tan trong nước cùng dấm táo và quế đều có tác dụng kiểm soát đường huyết. (Ảnh: Maxpixel)
3. Nho
Trong nho chứa 1 hàm lượng nước rất cao giúp tẩy sạch toàn bộ hệ thống bên trong của cơ thể, lại có enzyme đốt cháy mỡ, nhưng vẫn giúp bạn giữ nước và có cảm giác no.
(Ảnh: Pixabay)
4. Dừa
Dừa là 1 món ăn ngọt, tạo cảm giác no và dừa cũng giúp quá trình trao đổi chất mạnh lên 30%.
(Ảnh: Pixabay)
5. Dưa hấu
Dưa hấu rất giàu vitamin A, B và C. Ngoài ra dưa hấu còn chứa ly-cô-pen giúp ngăn chặn ung thư và các bệnh về tim mạch và là loại quả đắc lực giúp hạ huyết áp.
(Ảnh: Pixabay)
6. Ổi
Giàu vitamin C, protein, chất khoáng, chất xơ, lượng cacbonhydrate phân giải nhanh. So với táo, cam, nho thì ổi giúp kích thích quá trình chuyển hóa năng lượng nhanh hơn vượt trội.
(Ảnh: Pixabay)
7. Bưởi
Trong bưởi có chứa pectin, loại chất xơ tiêu hóa được và thấm choresterol trong đường ruột. Nhờ đó bưởi giúp giảm lượng choresterol trong máu và làm chậm quá trình hấp thụ đường glucose vào cơ thể. Với cơ chế này, gan sẽ bớt phải làm việc nặng hơn.
Những loại thực phẩm ăn trước khi ngủ giúp giảm cân
Đôi khi cơn đói mà bạn cảm thấy không thực sự là đói, mà do các tế bào cơ thể của bạn thiếu nước, làm bộ não bị chỉ dẫn sai, cho ra tín hiệu sai. Sau đây xin giới thiệu 11 loại thực phẩm dùng trước khi đi ngủ để không bị cảm giác đói và cũng không gây béo phì!
Đôi khi cơn đói mà bạn cảm thấy không thực sự là đói, mà do các tế bào cơ thể của bạn thiếu nước, làm bộ não bị chỉ dẫn sai, cho ra tín hiệu sai. Sau đây xin giới thiệu 11 loại thực phẩm dùng trước khi đi ngủ để không bị cảm giác đói và cũng không gây béo phì!
Uống một ly nước ép trái cây và rau xanh trước khi đi ngủ để giúp thần kinh thư giãn, hỗ trợ đi vào giấc ngủ dễ dàng hơn (Ảnh minh họa từ Adobe Stock).
1. Nước ép trái cây cùng rau xanh
Uống một ly nước ép hỗn hợp trái cây cùng rau xanh trước khi đi ngủ không chỉ giúp bổ sung nước kịp thời mà còn có thể xua tan cảm giác đói, cũng giải phóng đường hoa quả (fructose) giúp thư giãn thần kinh, hỗ trợ giấc ngủ.
2. Sữa bò
Sữa bò có chứa tryptophan, có thể ổn định tâm trạng.
Uống sữa trước khi ngủ không gây tăng cân, điều quan trọng là phải biết rằng chất lượng giấc ngủ liên quan rất nhiều đến lượng mỡ cơ thể. Uống sữa ấm trước khi đi ngủ mỗi đêm giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ để hoạt động trao đổi chất thải độc trong khi ngủ diễn ra bình thường, có ích cho việc giảm cân.
3. Cháo bí ngô
Nghiên cứu dinh dưỡng hiện đại đã phát hiện ra bí ngô có lượng calo thấp nhất, và ăn bí ngô trước khi đi ngủ sẽ không gây tăng cân. Bí ngô giàu chất xơ và pectin, không chỉ mang lại cảm giác no bụng mà còn hấp thu chất thải chuyển hóa và chất gây ung thư trong đường ruột, giúp thải độc đường ruột trong khi ngủ.
4. Chuối tiêu
Ăn chuối tiêu giúp ổn định chất dẫn truyền thần kinh serotonin và loại bỏ hắc tố melanin, trong chuối tiêu chứa ma-giê, là loại chất giúp thư giãn cơ bắp, khiến giấc ngủ thoải mái hơn. Chuối tiêu cũng chứa rất nhiều cellulose, ăn nhiều hơn có thể giúp làm sạch đường ruột, giải độc, để cơ thể loại bỏ độc tố dễ dàng.
5. Ổi cùng sữa chua Hy Lạp
Công thức: 2/3 ly sữa chua Hy Lạp, 1/4 quả ổi.
Cách làm: Trộn đều để dùng.
Ổi luôn là loại trái cây có hàm lượng calo rất thấp và chứa nhiều chất xơ, dễ tạo cảm giác no bụng. Đồng thời ổi cũng có thể giúp loại bỏ một lượng lớn chất béo tích tụ trong cơ thể để thúc đẩy sự trao đổi chất của cơ thể, là thực phẩm hàng đầu trong chế độ ăn uống giảm cân. Còn sữa chua rất tốt trong chức năng giải độc làm sạch đường ruột, vì thế trong chế độ ăn giảm cân thì sự kết hợp của cả hai loại thực phẩm này là khá lý tưởng.
6. Cháo yến mạch
Yến mạch thúc đẩy giải phóng insulin trong cơ thể, insulin giúp đưa tryptophan đến não, sau đó nó được chuyển hóa thành một amin phức hợp báo cho não bộ là “đã đến thời gian ngủ”. Thứ hai, trong lúc ngủ, yến mạch sẽ giải phóng glucose đều đặn, duy trì cân bằng đường máu, giúp giấc ngủ ngon hơn, không bị ác mộng khi ngủ bởi nghiên cứu đã phát hiện 40% ác mộng có nguyên nhân từ hạ đường máu.
Nguyên liệu: Lượng yến mạch và gạo thích hợp.
Cách làm: Rửa sạch yến mạch và gạo và cho vào nồi, thêm nước trắng, đun lửa lớn đến khi sôi thì giảm lửa liu riu hầm nhừ.
7. Súp đậu đỏ
Nguyên liệu: Lượng đậu đỏ phù hợp và một ít trần bì (vỏ quýt khô để lâu năm).
Cách làm: Đầu tiên ngâm đậu đỏ trong nước sạch trong 30 phút, sau đó rửa sạch và cho vào nồi, thêm nước trắng, sau khi đun sôi trong 30 phút thì cho vỏ quýt khô vào đun sôi và tắt lửa.
Đậu đỏ giàu chất sắt, có thể làm khí sắc hồng hào, bổ máu, thúc đẩy lưu thông máu, tăng cường sức mạnh thể chất, tăng cường sức đề kháng. Theo Đông y thì đậu đỏ giúp lợi tiểu tiêu phù, thanh nhiệt giải độc, kiện tì ngăn tả, cải thiện phù nề chân.
8. Khoai tây
Nếu ban đêm thấy đói, có thể ăn một ít khoai tây lót dạ. Khoai tây có tác dụng loại bỏ axit gây trở ngại cho tryptophan, là chất giúp cơ thể đi vào giấc ngủ. Có thể nướng vài củ khoai tây để ăn trước khi đi ngủ.
9. Bột yến mạch và sữa không béo
Ba muỗng canh bột yến mạch + nửa ly sữa không béo trộn đều.
Trên thị trường có rất nhiều loại bột yến mạch hàm lượng đường cao, vì vậy hãy cẩn thận khi lựa chọn. Chọn sử dụng loại bột yến mạch không đường, ngoài nguồn dinh dưỡng tốt cũng có chất xơ giúp dễ no bụng để không còn muốn ăn thêm các loại thực phẩm khác. Còn sữa không béo có chứa một axit amin gọi là serotonin, có thể giúp não nghỉ ngơi, thư giãn, dễ gợi cảm giác muốn ngủ.
10. Cháo cá
Nhiều người thường nấu cháo cá là cá trắm cỏ hoặc cá lớn, cả hai loại cá này đều là cá có hàm lượng chất béo thấp, và chúng chứa chất béo không bão hòa, cholesterol thấp, tốt cho tim mạch. Ngũ cốc các loại có chứa đường, đường có tác dụng ổn định não bộ, vì vậy uống nước cháo có thể mang lại cảm giác thư giãn, hỗ trợ giấc ngủ.
10. Hạt vỏ cứng
Nhiều chuyên gia dinh dưỡng khuyên ăn hạnh nhân vào ban đêm, không chỉ vì vấn đề thuận tiện, cũng giúp mang lại cảm giác no rõ ràng, và hạnh nhân giúp ngăn chặn cơ thể hấp thu chất béo, qua đó giúp ngăn ngừa tăng cân.
Ngoài ra, hạnh nhân cũng giàu tryptophan giúp ổn định hệ thần kinh và khoáng chất ma-giê giúp thư giãn cơ bắp, cải thiện chất lượng giấc ngủ. Nếu muốn thưởng thức hương vị phong phú hơn, có thể trộn lẫn hạnh nhân với đậu phộng và nho khô để thưởng thức.
Năm 2013, Đại học Tim mạch Mỹ, Hiệp hội Tim mạch, và Hiệp hội Béo phì đã kết hợp tiến hành phân tích tổng hợp 15 chế độ ăn kiêng phổ biến nhất để tìm ra những điểm chung.
Kết quả cho thấy, hầu hết các chế độ ăn kiêng đều đưa ra lời khuyên nên ăn nhiều rau, hạn chế ăn đường và các thực phẩm đóng hộp chế biến sẵn. Tuy nhiên, có một vấn đề quan trọng mà người ta thường quên chính là có một số loại thực phẩm, cho dù hết sức lành mạnh và thanh đạm, nhưng cũng không bao giờ nên ăn trong thời điểm dạ dày của bạn đang trống rỗng.
Bài viết này sẽ lưu ý cho các bạn một số loại thực phẩm không nên ăn khi dạ dày trống rỗng, đặc biệt là vào bữa sáng.
1. Chuối
Mặc dù có một chế độ ăn kiêng khuyến khích chỉ ăn chuối vào buổi sáng thay cho các loại thực phẩm khác, nhưng trên thực tế ăn chuối vào lúc dạ dày trống rỗng không phải là một ý tưởng tốt. Chuối có nhiều chất Kali, chất xơ và Magie, nhưng chúng có cũng cả a-xít và khá nhiều đường. Nạp vào cơ thể một lượng a-xít khi dạ dày trống rỗng có thể khiến bạn gặp các vấn đề về đường ruột, đồng thời nếu bổ sung lượng đường vào buổi sáng có thể khiến bạn buồn ngủ và tiêu hao năng lượng chỉ sau vài giờ đồng hồ. Do đó, thay vì chọn một vài trái chuối cho toàn bộ bữa sáng, sẽ tốt hơn nếu bạn ăn chuối kèm thêm một số thực phẩm khác.
2. Sữa chua
Mặc dù ý tưởng sữa chua kết hợp với trái cây cho bữa ăn sáng khá lành mạnh và giúp giảm cân, nhưng không phải tất cả các loại sữa chua đều là lựa chọn tốt. Các loại sữa chua bán trên thị trường có đủ loại, từ sữa chua có đường cho đến sữa chua tách béo. Với sữa chua tách béo, để bù cho lượng chất béo mất đi, người ta thường sẽ phải bổ sung thêm chất tạo ngọt nhân tạo. Do đó, về cơ bản là không có loại sữa chua nào có đủ protein cho cơ thể. Lựa chọn an toàn nhất chính là mua sữa chua tự nhiên kiểu Hy Lạp và dùng kèm mật ong hoặc trái cây để tăng vị ngọt.
3. Bột yến mạch ăn liền
Bột yến mạch là lựa chọn hết sức lành mạnh cho bữa sáng, vì yến mạch có chứa nhiều chất xơ, vitamin, protein và không chứa Gluten. Tuy nhiên, các gói bột yến mạch ăn liền có thêm vào rất nhiều đường, muối và màu nhân tạo. Nếu bạn thực sự không có thời gian để chuẩn bị yến mạch thông thường, hãy chọn yến mạch ăn liền không đường, đồng thời lưu ý hơn đến các loại chất bảo quản và hàm lượng chất xơ của nó.
4. Rau sống
Mặc dù các loại rau nói chung đều lành mạnh, nhưng ăn chúng vào lúc dạ dày trống rỗng có thể gây kích ứng ở một số người, và thậm chí có thể làm tăng lượng khí dẫn đến đầy bụng hay đau bụng. Một trong những lý do là bởi hầu hết các loại rau xanh đều chứa chất xơ hòa tan, vì thế những ai có vấn đề nhất định về tiêu hóa sẽ dễ gặp vấn đề nếu ăn rau sống vào bữa sáng.
5. Cà chua
Cà chua rất giàu vitamin, ít calo và dinh dưỡng. Tuy nhiên, không nên ăn cà chua khi dạ dày trống rỗng vì chúng có thể sẽ gây đau bụng và khó chịu cho cơ thể. Tương tự như một số loại rau xanh, cà chua có chứa chất astringent gây phản ứng với axit dạ day
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.