CHỦ NGHĨA BE - BỜ (CONTAINMENT DOCTRINE ) VÀ CHIẾN TUYẾN VN !
I. CĂN BẢN CỦA CHỦ NGHĨA BE-BỜ
Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine][1] là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự và ảnh hưởng kinh tế để “
ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng sản trên thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine][2] ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo.
Chính sách này nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh “hiệu ứng Domino” [“domino effect”][3] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt.
Chủ nghĩa Be-bờ do nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan[4] khơi thuật từ năm 1947 5] và đă ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng Thống Harry S Truman.[6]
President Dwight D. Eisenhower welcomes President Ngo Dinh Diem to the United States in May 1957.
During his visit Pressident Diem addressed a joint session of Congress and got a ticker tape parade in New York City.
Eisenhower called President Diem the "miracle man of Asia."
Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định sau: [7]
- Xôviết cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản
- Xôviết cộng sản t́m mọi cách kết tác với thành phần cảm t́nh viên trong thế giới tự do
Hiện tượng xâm lược của Xôviết cộng sản bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô
Cơ cấu của XôViết cộng sản cắt đứt với thực tế nội bộ và ngoại tại.
Chủ Nghĩa Be-bờ đă hội nhập thành Chủ Nghĩa Truman [Truman Doctrine][8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc “Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].[9]
Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm lực đe doạ Xôviết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp hỗ trợ như :
- Kế hoạch Marshall [Marshall Plan][10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2
song song với việc thành lập :
- Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quư Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund]
- Cảnh pḥng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới h́nh thức liên minh quân sự Bắc Âu [NATO, North Atlantic Treaty Organization] với khẩu hiệu : [b]
- “ Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”][11]
Thu thập tin tức cẩn mật từ quốc ngoại qua Cơ Quan Trung ương T́nh Báo [Central Intelligence Agency/CIA] dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh quốc Gia [National Security Council].[12]
Về mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới h́nh thức :
- “ Ngăn chặn, đề pḥng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, th́ áp dụng sách lược:
- “ Chiến tranh hạn chế ” [“limited war” policy].
Điển h́nh, tuy đă cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đă chủ động “quyết thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ,
mà về mặt quân sự, MacArthur [ chê là một giải pháp nh́ nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win policy”].[13]
KHAI MỞ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM
Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa kỳ tại Việt Nam, trong nhiều giai đoạn.
TT Truman năm 1952 cấp viện trợ 60 triệu Mỹ Kim cho Pháp [đồng minh NATO] trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông Dương.
TT Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đă nhấn mạnh vào “hiệu ứng domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để phe cộng sản chiếm cứ Việt Nam th́ Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ như quân bài domino và rơi vào khối cộng sản.[14]
Do đó, Chính phủ Eisenhower t́m cách giúp đỡ[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Đông Dương với 3 điều kiện:
- Tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều
- Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập cho các quốc gia Đông Dương
Trước tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3, nên cũng đă từ chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên Phủ.
Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đă chấm dứt, và với Hội Nghị Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp tục cuộc chiến ư thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng sản ở Miền Bắc.
TT JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm học giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia.
Sau khi Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion][16] và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam Việt Nam là thí-điểm -để-thực-hiện chiến lược Be-bờ tại Đông Nam Á và nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản địa chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương.
[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia
Đó là tiền đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.
Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam :
Từ năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược “chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa Kỳ, với ư định rút quân khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng tốt.
****
[1] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State
[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau called for a cordon sanitaire, or ring of non-communist states, to isolate the Russians. Translating this phrase, U.S. President Woodrow Wilson called for a “quarantine.” Both phrases analogize communism to a contagious disease.
[3] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.
[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department of State
[5] Kennan responded on February 22, 1946 by sending a lengthy 5,500-word telegram (sometimes cited as being over 8,000 words) from Moscow to Secretary of State James Byrnes outlining a new strategy on how to handle diplomatic relations with the Soviet Union. At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.
Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand… Today they cannot dispense with it. It is fig leaf of their moral and intellectual respectability.”
[6] Frazier, Robert. “Acheson and the Formulation of the Truman Doctrine” Journal of Modern Greek Studies 1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727
[7] At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”. Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the outside world, for the dictatorship without which they did not know how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for sacrifice they felt bound to demand…
[8] Gaddis, John Lewis. “Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?” Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402
[9] Kort, Michael (2001). The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press
[10] Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall Plan, and the Triumph of Democracy. (1993). Gimbel, John, The origins of the Marshall plan (Stanford University Press, 1976).
[11] Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International perspectives
[12] Amy B. Zegart, Flawed by Design, The Evolution of the CIA, JCS, and NSC
[13] MacArthur, North Korea. Truman’s No-win policy
[14] Referring to communism in Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during an April 7, 1954 news conference: “Finally, you have broader considerations that might follow what you would call the “falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over the first one, and what will happen to the last one is the certainty that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a disintegration that would have the most profound influences.”
[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the White House, Mandate for Change (1963)
[16] Lynch, Grayston L. 2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac Books Dulles Virginia
Trong khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam dưới sự lănh đạo của TT Ngô Đ́nh Diệm, th́ chính quyền Kennedy bắt đầu có triệu chứng “thất sủng” TT Ngô Đ́nh Diệm
v́ chính thể của Ông lúc đó hạn chế mức độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng tâm ưu đăi của một thiểu số gồm có gia đ́nh họ Ngô, các cựu quan lại và lực lượng quân, dân, cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky Tô giáo.
Hậu quả là gần 90% dân chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như :
- Đại Việt
- Việt Nam Quốc Dân Đảng
- Dân Xă Đảng v.v., các nhà trí thức độc lập, tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo v.v. đă mất cơ hội tham dự vào Cao trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của Chiến Tuyến này.
Hậu quả của chính sách “biệt đăi/cô lập” dân chủ hoá trên đă tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất đáng tiếc.
Chúng ta đă mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ tự do.
Sau hai cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các cuộc Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đ́nh Diệm và Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu đă bị bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại Tướng Dương Văn Minh và một số tướng lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963.
Nhiều tài liệu lịch sử [mới được “giải mật”] đă xác định biến cố này có hậu thuẫn của :
- CIA Lucien Conein
- Đại sứ Cabot Lodge
- Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,[17] dù lúc xẩy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đă khôn khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở.
Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính và ám hại TT Ngô Đ́nh Diệm và Ô. Ngô Đ́nh Nhu.[18]
18] According to General Maxwell Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff, “there was the memory of Diem to haunt those of us who were aware of the circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were responsible for the plight in which the South Vietnamese found themselves.”
Từ góc nh́n của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT Ngô Đ́nh Diệm và Ô. Ngô Đ́nh Nhu là do :
- [a] t́nh trạng khiếm khuyết dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam,
- [b] ảnh hưởng tai hại của vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu về chính sách tôn giáo, và
- [c] phần nào v́ :
Ông Ngô Đ́nh Nhu “hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT. Ngô Đ́nh Diệm v.v. với ư định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.[19]
[19] Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam: History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.
BIẾN HOÁ CHỦ NGHĨA BE-BỜ TẠI VIỆT NAM
TT Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp tục nhưng biến hoá đường lối đối ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy, bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ Ngô.
Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng hoà Barry Goldwater thách đố TT đương nhiệm :
- “ Tại sao không nghĩ tới chiến thắng?”[20] th́ TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi :
- “ Chỉ vào can thiệp tới mức đó thôi”.
20] Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in 1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”
[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp giới hạn” này vừa tăng, vừa hăm, qua nhiều h́nh thức :
[21] President Johnson, the Democratic nominee, answered that rollback risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine by quoting the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”
— Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin Resolution][22] để lấy cớ trừng phạt vụ các phóng thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS Turney
Mỹ gia tăng cường độ bắt đầu vào ngày 02.03 với chiến dịch “Sấm rền” “Operation Rolling Thunder”
— Quyết định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom các địa phận thuộc lănh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao ṃn địch vận để đưa tới thảo luận ngưng chiến
— Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân lực địa phương của Giải Phóng Miền Nam [GPMN]
Hoa Kỳ đă gia tăng quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy tới con số cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm 1968, thời Lyndon Johnson], với sứ mạng duy nhất là canh pḥng chung quanh các phi trường và các địa điểm “pḥng thủ” trong lănh thổ miền Nam Việt Nam.
Thủy quân lục chiến Mỹ trên đường về vị trí trú quân
TT Lyndon Johnson không rút quân dưới áp lực đ̣i hoà b́nh của phe “Bồ Câu” , nhưng cũng không liều lĩnh tiến quân đánh ra Bắc Việt như các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu” đ̣i hỏi, chỉ v́ “sợ rằng” đó là những hành vi khiêu khích làm các Quốc gia chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng] phản ứng biến thành Đệ Tam Thế chiến Nguyên tử.
Đó là lư do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối không cho Tướng William Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường tiếp liệu của Bắc Việt.
Đó cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung Cộng và Bắc Việt Cộng sản “thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền Nam mà không sợ ai dám phương hại nội tuyến.
Phần lớn các loại vũ khí của quân đội Bắc Việt và mặt trận giải phóng đều do Liên Xô và Trung quốc viện trợ chỉ tính riêng súng bộ binh tổng số lên tới 3 triệu 500 khẩu .
Trung Quốc 2.2 triệu khẩu súng bộ binh các loại , Liên Sô gần 500.000 khẩu , các nước xhcn khác 900.000 khẩu .
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.