
Từ hậu bán thế kỷ thứ 20 cho đến nay, tuổi thọ của con người đã có phần tăng vọt, trung bình bây giờ là trên 80 tuổi. Với tuổi thọ gia tăng, các thứ bệnh như 3 Cao (Cao Mỡ, Cao Máu, Cao Đường loại 2), bệnh Suy Thận Mãn Tính, bệnh Tim Mạch, bệnh Xốp Xương và các bệnh Ung Thư cũng trên đà tăng theo.
Y học tiến bộ đã đem đến các loại thuốc rất công hiệu giúp cho bệnh nhân được sống lâu hơn như loại statin dành cho cao mỡ, thuốc chống angiotensin cho cao máu, thuốc Metformin cho cao đường loại 2, v..v.. Tuy nhiên, các chứngcăn bệnh 3 Cao về lâu về dài vẫn gây ra suy thận mãn tính khiến cho một số lớn bệnh nhân phải cần đến phương pháp giải phẫu ghép thận hay cho lọc máu (dialysis) để có thể sống còn. Bất kể việc điều trị tinh vi và cẩn thận từ các bác sĩ chuyên khoa về thận cao đến đâu, nhiều bệnh nhân vẫn bị bệnh mạch vành tim sau khi đã lọc máu hay ghép thận vài năm mà nguyên nhân vẫn chưa được biết rõ. Trong khi đó, các bà sau tuổi tắt kinh bắt đầu mất dần sinh tố calcium trong người dẩn đến chứng bị xốp xương.
Dùng hoóc môn estrogen có thể làm chậm sự lão hóa ấy nhưng có thể gia tăng nguy cơ bị ung thư vú. Quý bà được bác sĩ khuyên nên uống thêm calcium và sinh tố D để làm chậm sự tiến triển của chứng bị loãng xương. Nhưng nếu uống nhiều calcium lại là một con dao hai lưỡi: ngoài việc gây ra sạn thận, quá nhiều calcium trong người sẽ khiến cho thành mạch máu bị đóng vôi gây ra bệnh tim mạch và tăng mức tử vong, trước đây tưởng chỉ thấy ở giới đàn ông uống calcium, nhưng gần đây cho thấy phụ nữ cũng có bị như vậy.
May thay, trong những năm gần đây các cuộc khảo cứu cho thấy có một loại sinh tố K, gọi là
K2, có thể giúp phòng ngừa và chữa việc calcium đi lộn chỗ, đóng trên thành mạch máu gây ra tắc nghẽn, thay vì đóng lên xương giúp cho xương bớt bị loãng.
Sinh Tố K2 là gì? Có nguồn gốc từ đâu?
Từ lâu, chúng ta đã biết sinh tố K đóng một vai trò quan trọng trong việc cho cầm máu và giúp đông máu. Thật ra có hai loại sinh tố K:
sinh tố K1 (Phylloquinone) chiếm 90% thành phần, là loại cần thiết cho máu được đông lại, có nhiều trong các loại rau xanh như rau dền; 10% còn lại là
sinh tố K2 (Menaquinone) đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển calcium từ máu đến đúng mục tiêu ở xương và răng thay vì cho phân phối bừa bãi khắp nơi gây ra các chứng bệnh được đề cập trong phần dẫn đầu của bài viết này.
Sinh tố K2 cho tổng hợp lại từ vi trùng trong ruột nhưng đa số sẽ đến từ thịt, sữa, lòng đỏ trứng gà, bơ và phó mát. Vì sinh tố K dễ bị hòa tan trong mỡ, sữa và phó mát bị lấy mất mỡ sẽ không còn sinh tố K2 nữa. Hai thực phẩm có nhiều sinh tố K2 nhiều nhất là gan bò và món đậu nành lên men của người Nhật gọi là
Natto.
Sinh tố K2 có
side chain isoprenoid từ MK-4 (chuỗi ngắn) đến MK-14 (chuỗi dài).
Chuỗi trung bình MK-7 là loại thông dụng nhất vì dễ được hấp thụ qua đường ruột.
Trong các xứ kỹ nghệ, lượng sinh tố K2 từ thực phẩm chế biến ngày càng bị giảm thiểu bắt đầu từ thập niên 1950 và cho đến nay hầu như 100% người Mỹ không ăn đủ sinh tố K2 (mức tối thiểu là khoảng 32 mcg mỗi ngày). Những người Nhật có ăn đều đều món
natto là nhóm dân duy nhất không thiếu K2 và họ sống thọ hơn, mạnh khỏe hơn với ít chứng bệnh về lão suy hơn người Âu Mỹ.
Tác dụng của sinh tố K2
Trên xương,
sinh tố K2 gây tác động đến chất osteocalcin từ tế bào tạo ra xương osteoblast giúp điều động calcium kết nối với khoáng hydroxyapatite khiến cho xương thêm chắc và cứng, ngừa được chứng bị loãng xương ở tuổi già. Trong mạch máu,
sinh tố K2 có tác dụng vào chất đạm trên thành mạch máu
Matrix GLA Protein (MGP), chống lại sự kết tụ của chất vôi trong mạch máu gây bệnh xơ cứng làm nghẽn sự tuần hoàn máu, đồng thời chống lại kết tụ calcium trong các mô mềm. Chúng ta có thể ví
sinh tố K2 như cảnh sát lưu thông, giúp vận chuyển calcium trong máu đến đúng chỗ ở xương và răng thay vì đi lạc vào thành mạch máu và các mô mềm. Nhờ vậy mà răng và nướu răng cũng sẽ tốt hơn với
sinh tố K2 này.
Bệnh nhân bị suy thận mãn tính uống
sinh tố K2 bổ sung mỗi ngày dần dần được giảm cả bệnh suy thận lẫn bệnh tim mạch có lẽ do sự tuần hoàn máu đến thận đã có phần tốt hơn. Tác động của
MGP khiến cho máu lưu thông đến da tốt cũng sẽ giúp giảm các biến chứng ngoài da của người mắc bệnh thận. Bệnh nhân về tim mạch khi dùng
sinh tố K2 sau hai năm thì số lượng calcium đóng trong thành mạch máu cũng bị thuyên giảm đáng kể. Ngoài ra,
sinh tố K2 còn có thể giúp chống viêm, chống kháng insulin, và, mặc dù chưa có kết quả lâm sàng, trên lý thuyết có thể giúp ngừa và chữa tiểu đường loại 2.
Gần đây nhất,
sinh tố K2 cũng cho thấy khả năng chống bệnh ung thư, nhất là ung thư gan, một chứng bệnh không hiếm trên người già gốc Việt.
Sinh tố K2 trên lý thuyết có tiềm năng kết hợp với hệ vi sinh vật ở ruột giúp ngăn ngừa các bệnh thoái hóa não bộ như Parkinson và Alzheimer's nữa.
Cách thuận tiện nhất ở Mỹ để bảo đảm có đủ
sinh tố K2 mỗi ngày là uống một viên từ 50mcg (micrograms) đến 100mcg Vitamin K2 MK-7 mỗi ngày, được bán trên thị trường mà không cần đến toa bác sĩ.
Sinh tố K2 cùng với
sinh tố D3 là hai chất phụ gia không thể thiếu để bảo đảm sức khỏe cho tuổi già. Nên bắt đầu uống từ tuổi 50 trở lên (tuổi trung bình của phụ nữ tắt kinh). Các bệnh nhân bị loãng xương, bị bệnh tim mạch hay suy thận mãn tính nên uống
sinh tố K2 ít nhất là 100 mcg mỗi ngày để trị bệnh thay vì chỉ ngừa bệnh.
Sinh tố K2 không làm giảm ảnh hưởng của thuốc chống đông máu trên các cụ đang có bệnh tim hay bị nghẽn mạch máu não. Trong những năm sắp tới, chúng ta sẽ nắm biết nhiều hơn về các lợi ích khác của
sinh tố K2 trong tuổi già.
B/s Phạm Hiếu Liêm