|
Nói với con về ngày 17-2-1979 - cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ
02-18-2011
|
#1
|
|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 110
|
Con gái yêu của Ba!
Tháng 2-2009: Con gái yêu của Ba tròn 8 tuổi và đã học đến lớp 2. Con chỉ biết, những ngày này là qua Tết Nguyên đán Kỷ Sửu và mới phải đi học nhưng con vẫn dậy sớm đến trường và thánh thót khoe với Ba mẹ những điểm 9-10 sau mỗi ngày tới trường từ sáng đến tối. Xung quanh con lúc này, chỉ có những bài học; những phút vui cùng bạn bè, cô giáo ở ngôi trường giữa lòng Hà Nội xanh ngắt cây lá và ngập tràn sắc màu xanh đỏ của những bé con má đỏ, môi hồng...; xung quanh con là đầy đủ, no ấm và con chỉ phụng phịu mỗi khi Ba mẹ tắt ti vi trong giờ ăn, không để con dán mắt vào màn hình chiếu Clip quảng cáo, hay phim dành cho thiếu nhi, nhan nhản trên truyền hình cáp...
Viết cho 2 con gái Mai Trần Tường Linh, Mai Trần Thục Linh
----------------------------
Địa đầu Lũng Cú, Hà Giang
Tháng 2-1979: Ba cũng tròn 8 tuổi và cũng học lớp 2 như con bây giờ. Hồi ấy, ông nội của con mới phục viên sau hơn 10 năm chiến đấu trong binh chủng tên lửa của Quân đội nhân dân Việt Nam (1965-1978) và cũng theo chân những đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn trong năm 1975. Ký ức của Ba về ông nội là chiếc ba lô to đùng đằng sau lưng, trên đó có 1 chiếc khung xe đạp (sau này được lắp thành chiếc xe đạp để ông đi khắp nơi "buôn" chè, củ ấu... nuôi ba và cô Hương, cô Yến học xong Đại học), 1 con búp bê biết nhắm và mở mắt, 1 chiếc ca bằng đuya ra (còn gọi là hăng gô) của lính Mỹ (sau đó và bây giờ, bà Nội của con vẫn dùng để múc nước ở cái bể nước mưa xinh xinh ngay dưới hàng cau trước cửa nhà ở quê)...
Lính Trung Quốc tấn công, phá hoại thị xã Lạng Sơn (17-2-1979)
Thế nhưng, ký ức mãi không thể quên trong tâm trí của Ba là buổi sáng 18-2-1979 (1 ngày sau khi Trung Quốc cho quân bất ngờ tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc), ông Thành, ông Hòa và mấy ông ở gần nhà (cùng đi bộ đội, cùng phục viên, vẫn cùng tụ tập đến nhà mình uống nước trà mỗi tối) đến thì thầm nói chuyện với ông Nội. Câu chuyện của những cựu binh đó là gì, đến khi lớn rồi ba mới hiểu: Các ông thông báo cho nhau tin Trung Quốc tấn công Việt Nam và cùng nhắc nhau chuẩn bị quân tư trang, chuẩn bị lên đường nếu có Tổng động viên.
Ba vẫn nhớ: Buổi trưa ngày hôm đó, ông Nội hì hục chuẩn bị quần áo, tư trang gọn vào chiếc ba lô bộ đội và gọi bà Nội bế cô Yến (sinh năm 1977) cùng Ba và cô Hương cũng mới 5 tuổi ra và dặn dò công việc ở nhà. Lúc ấy, trí óc non nớt của Ba mới cảm nhận: Giặc là gì? Là kẻ đã kéo người thân của Ba ra khỏi ngôi nhà và làm xáo trộn cuộc sống gia đình yên ấm...
Tháng 2 và 3 năm 1979, rút cục ông Nội cũng chỉ lên Huyện đội tập trung, huấn luyện sau thời gian ngắn và vẫn ở lại cùng gia đình. Mỗi tuần, chỉ phải trực tự vệ cùng cơ quan. Tuy nhiên, cuộc sống thời chiến thì không chỉ đơn giản trong việc mỗi tuần, ông phải ở cơ quan 2 đêm, thi thoảng lại về nhà muộn, mệt nhoài vì đào hầm hào, huấn luyện... mà cuộc sống thời chiến còn tác động trực tiếp đến Ba và gia đình bé nhỏ của nhà mình.
Lên chốt giữ đất
Hồi ấy và sau này này nữa, Ba say mê đọc những cuốn truyện tranh kể về chiến công của những anh bộ đội - dân quân - du kích chiến đấu với giặc Trung Quốc ở nơi biên giới, những thủ đoạn thâm độc của những kẻ đội mũ vải, đeo "tiết đỏ" và mặc áo 4 túi chỉ muốn chiếm đất của Tổ quốc mình.. Hồi ấy, Ba cùng các bạn trong lớp cũng phải cùng các anh chị, thầy cô trong trường cấp 1 đào giao thông hào ngay trong sân trường (Bây giờ, đoạn giao thông hào ấy đã bị lấp. Nhưng có dịp, Ba đưa con về quê mình, trèo lên núi Voi gần nhà bà Nội, con vẫn thấy những đoạn giao thông hào bị cỏ che kín mà Ba và các anh chị, thầy cô đã đào thời đó). Hồi ấy, mọi nhà đề phải đào hầm, nhà Nội mình cũng đắp 1 chiếc hầm kèo ngay giếng nước. Lúc mới đào xong, Ba và cô Hương - cô Yến cứ rúc rích chui ra, chui vào chơi trốn tìm. Cạnh nhà mình, có nhà bà Dung, kinh tế khá giả nên đào hầm ngầm: Vách trát xi măng, nắp làm bằng bê tông, bậc lên xuống cũng xây gạch, thế nhưng cứ sau mỗi trận mưa, nước lại tràn vào... lưng hầm và rắn rết, ễnh ương - chão chàng bơi lằng nhoằng, đẻ trứng đầy trong đó...
Tổng động viên 1979 bảo vệ biên giới phía Bắc
Cứ như vậy đó, Ba lớn lên với những câu chuyện kể ở trường, những trang truyện tranh đọc "ké" ngoài hiệu sách phố huyện, những câu chuyện - lời bàn tán của ông Nội cùng những người bạn bên bàn nước vàng ệch màu đèn dầu và cả những tiếng nói bập bõm, ngang ngang giọng người nước ngoài nói tiếng Việt Nam chìm trong tiếng sôi sè xè phát ra từ chiếc đài chạy pin bé tí mà ông vặn nhỏ hết cỡ, ghé tai vào nghe để biết "tình hình chiến sự"... Tất cả đã dần hình thành trong tâm tưởng Ba về một nỗi ám ảnh, nguy hiểm và đe dọa thường trực được gọi là Trung Quốc.
Thác Bản Giốc, Cao Bằng
Tháng 3-2008: Con tròn 7 tuổi và học lớp 1. Buổi sáng Ba ra xe đón lên Nội Bài, bay vào Nha Trang để ra công tác quần đảo Trường Sa, con đứng ngoài đầu ngõ vẫy tay: "Ba về sớm và mua quà cho con nhé!" và lại tất tưởi ngồi sau xe để mẹ chở đến trường, cùng líu lo hát "Em vui vào trường Thành Công B, lấp lánh ban mai chim ca. Em vui vào trường Thành Công B, lá biếc hoa thơm ngọt ngào. Em luôn được thầy cô yêu thương với trái tim của mẹ hiền. Lấp lánh cho con bay cao, giữa trời xanh chim tung cánh bay..." với má đỏ môi hồng cùng lớp. Con có biết, những ngày sau đó, Ba đã cùng hơn 100 người con đất Việt, kề vai nhau trên con tàu HQ 996 của Vùng 4, Hải quân đè sóng biển Đông, xuất phát từ quân cảng Cam Ranh, Khánh Hòa ra với dải đất Trường Sa thân thương đang ưỡn lưng bảo vệ vòng cung hình chữ S
Nửa tháng ra với bộ đội, ở với bộ đội, hóa thân thành bộ đội, cảm nhận - chia sẻ cùng bộ đội và vui - buồn - căm hờn cùng bộ đội, Ba càng thêm yêu Tổ quốc của mình và đau cùng Tổ quốc của mình. Buổi trưa trước khi làm lễ tưởng niệm cho gần 100 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã hy sinh vì lưỡi lê, báng súng, dao găm và đạn AK bắn gần, pháo hạm của lính Trung Quốc khi làm nhiệm vụ giữ đảo trên vùng biển Cô Lin - Gạc Ma xanh ngăn ngắt, lặng lẽ sóng, Ba đã bật khóc ngay trên mũi tàu HQ996. Khóc thật sự và nước mắt thật sự uất ức, chảy tràn trên má, làm ướt mềm quai mũ cứng gắn quân hiệu sao vàng con ạ!. Con có biết không? Những người lính đang nằm dưới biển sâu kia còn rất trẻ. Ba đã vào phòng Truyền thống của Vùng 4 Hải Quân và nhìn lại gương mặt những người đã ngã xuống qua những tấm ảnh hiếm hoi. Họ trẻ trung và trong sáng như thể còn ở tuổi học sinh Trung học. Ngay cả những người thuyền trưởng chỉ huy mới mang hàm cấp úy cũng còn trẻ trung, điệu đàng (nhưng đã quyết chiến dùng mọi hỏa lực sẵn có trên những chiếc tàu chỉ có chở đất, đá, bê tông ra xây đảo để bắn trả mãnh liệt vào tàu xâm lược và cho tàu phóng thẳng lên bãi cạn để đánh dấu chủ quyền)...
Bia ghi tên những liệt sĩ Hải quân hy sinh trong khi bảo vệ Trường Sa
Vậy mà họ đã nằm xuống vĩnh viễn dưới lòng biển. Họ nằm xuống trong khi ngăn chặn lính Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo với trang bị đến tận răng. Họ nằm xuống bởi họ là lính công binh Hải quân chỉ có quần đùi, mũ mềm và... tay không ra xây dựng đảo. Họ nằm xuống bởi họ được "lệnh" từ 1 nơi bí ẩn, nghiêm mật giữa đô thị đầy ánh sáng và no đủ: "Chỉ được ngăn chặn bằng biện pháp mềm dẻo, không được kháng cự, đánh trả"... Dĩ nhiên, da thịt của họ chẳng phải là sắt thép, để chịu đựng những nhát đâm điên cuồng bằng dao găm, lưỡi lê. Gân cốt họ cũng chẳng phải titan để chống lại đạn nhọn của đám lính Trung Quốc điên cuồng xiết cò súng AK để sẵn ở nấc bắn liên thanh... Họ lần lượt nằm xuống, cùng nhau nằm xuống, như vẫn cùng nhau chia ngọt sẻ bùi trong những tháng ngày quân ngũ ít ỏi. Không nằm xuống sao được khi phải căng mắt nhìn lũ ăn cướp thản nhiên, thoải mái giết đồng đội mình và chính bản thân mình?..
Mộ Liệt sĩ hy sinh trong khi bảo vệ biên giới Phong Thổ, Lai Châu (17-2-1979)
Tháng 3-2008 ở Trường Sa, sau khi đã làm lễ truy điệu những cán bộ - chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang nằm dưới vùng biển Gạc Ma - Cô Lin, Ba và những đồng đội của Ba đã tràn ra hết mũi tàu, 2 bên boong tàu lặng nhìn xuống biển xanh nhớ thương những người con đất Mẹ và không ai bảo ai, tất cả đều quay mặt nhìn về tòa nhà cao vài tầng sừng sững của lính Trung Quốc chiếm đóng trên đảo chìm đã chiếm của ta. Lúc ấy, ánh mắt của ai cũng rất lạ, từ Trung tướng Trưởng đoàn công tác cho đến cô Hạ sĩ đoàn văn công Quân khu 4. Ai cũng ráo hoảnh, chong mắt nhìn tàu địch - công sự của địch chứ không rưng rưng nước mắt khi những bó hương dành cho liệt sĩ cháy bùng lên, cuộn khói bay vòng tròn như những dấu hỏi...
Tháng 3-1988: Lúc ấy Ba đã học lớp 11. Cái buổi chiều đông ngày hôm ấy, Ba cùng ông Nội đã sững sờ khi nghe cô phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam đọc chậm danh sách những cán bộ - chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh và mất tích trong khi bảo vệ chủ quyền Tổ quốc tại vùng biển Cô Lin - Gạc Ma. Không thể diễn tả cảm xúc lúc ấy, chỉ biết rằng, đến bây giờ hình như vẫn còn nguyên trong Ba: Uất ức - bức bối như thể có tảng đá đang đè trên ngực (Cảm giác này càng nhân lên gấp bội và thành ám ảnh khi Ba ra với Trường Sa).
Ngay sáng ngày hôm sau, cái lớp 11B3 của Ba ngày ấy đã không thể học được và hết thảy, những thằng con trai trong lớp đã làm đơn tình nguyện đi bộ đội, cùng con trai các lớp khác kéo đến đứng đen đặc, câm lặng trước phòng thầy Hiệu phó cũng đang đỏ hoe mắt vì có con trai đang đóng quân trên quần đảo Trường Sa.
Con có biết không? Ở gần nhà bà Nội mình có 1 dãy núi, gọi là núi Xuân Sơn, cạnh núi có 1 đoàn 679 của Quân chủng Hải quân đóng và trong dãy núi đó có rất nhiều hầm để bộ đội chứa tên lửa đất đối hải. Thi thoảng, những chiếc xe hàng vài chục bánh lại phun khói chở những ống tên lửa khổng lồ đi đâu đó. Hồi ấy, Ba và các bạn rất muốn vào bộ đội tên lửa Hải quân để điều khiển những quả tên lửa bắn nát tàu Trung Quốc...
Ngày 17-2-2011 này: Tròn 32 năm ngày Trung Quốc cho quân bất ngờ tấn công dọc tuyến biên giới nước ta; gần tròn 23 năm Trung Quốc cho quân đánh chiếm một số đảo chìm, bãi cạn của Tổ quốc ta trên quần đảo Trường Sa.
Biên giới Mèo Vạc, Hà Giang
Ngày Tình yêu 14-2. Ba không đưa con đi mua quà tặng cho mẹ Hằng mà ngồi từ trưa đến tối để đọc những dòng của các ông - các bác cựu binh viết về sự kiện tháng 2-1979 và tháng 3-1988. Đọc xong để viết những dòng này cho con và mẹ Hằng cùng những bạn bè của Ba đang ấm cúng bên vợ - người yêu - người tình bên nến hồng, rượu vang.
Giấy báo tử Liệt sĩ Phạm Hữu Tạo, hy sinh trong khi chiến đấu bảo vệ biên cương tại chiến trường Vị Xuyên, Hà Giang
Viết để nhớ một thời bao người đã đổ máu, góp xương cho mỗi tấc đất biên cương nơi xa hút. Sau này, con có đi Lạng Sơn thăm động Tam Thanh, thắp hương bùi ngùi trước nàng Tô Thị, lên Trùng Khánh - Cao Bằng ăn hạt dẻ, ngắm thác Bản Giốc, ngược Hà Giang tắm nước nóng Thanh Thủy, lên Lào Cai đắm mình trong se lạnh Sa Pa, trèo núi đá đến Lai Châu tắm thuốc người Dao, ngắm ruộng bậc thang, xem hoa Ban đầu xuân, ra Trường Sa câu cá chuồn đêm trăng... Con hãy nhẹ chân và nhớ vào các nghĩa trang Liệt sĩ nằm câm lặng dọc ven đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ thắp hương cho các ông, các bác, các chú đã nằm xuống trong những năm tháng chống giặc xâm lược Trung Quốc, trên những vùng đất yên thương của TỔ QUỐC chúng mình, con gái yêu nhé!..
Nghĩa trang Liệt sĩ hy sinh trong khi bảo vệ biên giới phía Bắc (Hà Giang)
http://vn.360plus.yahoo.com/thanhhai...ticle?mid=7310
|
|
|
02-18-2011
|
#2
|
|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 110
|
Lào Cai, ngày 17 tháng 2...
SGTT.VN - Trưa ngày 17.2.2011, tôi ngồi ở đầu cầu Cốc Lếu (thành phố Lào Cai) nhìn sang phía Trung Quốc. Những đoàn khách du lịch đang thảnh thơi đi dạo trên cây cầu sắt đã sắp thành dĩ vãng. 32 năm trước, cây cầu này bị phá sập trong một cuộc chiến tranh mà bây giờ dường như ai cũng muốn quên. 32 năm sau, một cây cầu mới bằng bêtông to hơn, đẹp hơn, cứng vững hơn đang dần thành hình cạnh cây cầu cũ.

Cầu Hà Kiều 2 bắc qua sông Nậm Thi, bên kia là Trung Quốc. Ảnh: Binh Nguyên
| Anh bán nước chè ngay đầu cầu Cốc Lếu kể, ngày ấy khu này là vùng trắng, không có dân, chỉ có bộ đội và súng đạn, mìn bẫy. Cầu Cốc Lếu bị phá sập mãi năm 1993 mới xây dựng lại. Còn dân quanh khu vực chạy hết về Văn Chấn (Yên Bái), mấy tháng sau mới lục tục về. Chị chủ nhà nghỉ kiêm hàng ăn phố Sơn Tùng thì bảo, về đến nơi ngôi nhà chị ở đã không còn, thay vào đó là một đống gạch vụn. Vất vả mãi mấy chục năm mới xây lại được “cái nhà cỏ” này – chị vừa nói vừa cười. “Nhà cỏ” mà chị nói là căn nhà bốn tầng mà chị đang kinh doanh nhà nghỉ.
Phía cửa khẩu Cốc Lếu giờ lô nhô nhà cao vài chục tầng, tất cả đều do các doanh nghiệp xây dựng, không phải do nhà nước. Cửa khẩu (biên giới Việt – Trung) đã được xây lại từ lâu, đàng hoàng, to đẹp. Ngay bên kia sông là đường sắt liên vận Việt – Trung, ngày nào cũng có tàu qua lại. Suốt dọc tuyến bờ sông biên giới, đất đang được bốc lên nham nhở để xây kè bờ, làm đường đi dạo, chỉnh trang đô thị Lào Cai cho to hơn, đẹp hơn.
Xuôi một chút xuống phía dưới là đền thờ đức thánh Trần Hưng Đạo trên đồi Hoả Hiệu, còn được gọi là đền Thượng. May mắn cho tôi, hôm nay là ngày khai hội đền Thượng, từng đoàn khách thập phương, cư dân bản địa kính cẩn xếp hàng lên đền thắp hương ngưỡng vọng vị anh hùng dân tộc thế kỷ 13 đã hai lần đánh bại đoàn quân xâm lược mạnh nhất thế giới thời ấy. Trong đoàn khách tham dự lễ hội đền Thượng, có không ít khách đến từ bên kia biên giới. Tôi cũng như họ, đều kính cẩn thắp hương cầu khấn cho mưa thuận gió hoà, làm ăn được thuận lợi, hanh thông.

Hàng hoá tấp nập qua cửa khẩu quốc tế Lào Cai.
| Không có nhiều ký ức về ngày này 32 năm trước tại thành phố Lào Cai. Tôi đi rạc chân quanh thành phố, hỏi thăm khắp lượt, mọi người tôi hỏi đều lắc đầu không biết quanh thành phố Lào Cai có tấm bia kỷ niệm nào về cuộc chiến tàn khốc trong 16 ngày của 32 năm trước. Những cao điểm vùng chiến sự quanh thị xã xưa kia, giờ là nhà cao tầng, kho bãi đầy ắp hàng hoá Trung Quốc. Chợ Lào Cai nhan nhản rượu ngâm, hàng điện tử, điện thoại, điện máy Trung Quốc. Hàng Việt trong chợ may ra chỉ có bia, nước ngọt và... rau. Hỏi chuyện về cuộc chiến, người nhớ người quên, nhưng ai cũng cười kể chuyện chiến tranh vui như được xem táo quân cuối năm. Câu hỏi của tôi về ký ức chiến tranh tan nhanh như khói loãng vào câu chuyện tỷ giá nhân dân tệ và đồng Việt Nam hôm nay. Anh chàng người Hoa ngồi cạnh bàn bập bẹ câu tiếng Việt nói rằng, bố anh cũng là một người lính phía bên kia đã tham gia cuộc chiến này, nhưng giờ ông cũng quên rồi. Con dâu của ông là người Việt. Và giờ thì ngày ngày ông từ bên kia biên giới sang bế đứa cháu nội, để con trai và con dâu yên tâm buôn bán tại cửa hàng ngay nhà bên đất Lào Cai. Người ở Lào Cai giờ không để quá nhiều đầu óc vào cuộc chiến năm xưa, đó là thực tế mà tôi cảm nhận được. Hôm nay là ngày 17.2, tôi ngồi chờ chị bán táo cân cho mấy cân táo Trung Quốc đem thắp hương trên đền Thượng. Chiều tối tôi lên tàu về nhà, với một túi đồ chơi Trung Quốc để làm quà...
Quốc Dũng
|
|
|
02-18-2011
|
#3
|
|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 110
|
Anh trai tôi và cuộc chiến tranh biên giới
Chiều tối nay về nhà ông anh cả để ăn cúng rằm tháng giêng, có lúc ngồi lai rai lại nói đến cuộc chiến tranh biên giới. Ông anh tôi không tham gia cuộc chiến này ngay từ đầu tháng 2.1979 mà mãi đến năm 1981 mới đủ tuổi vào lính nhưng những gì ông anh tôi trải nghiệm cũng khá buồn.
Khi anh tôi vào lính, tôi mới có 6 tuổi. Nhưng quả thật, tôi có một trí nhớ rất tốt, kể từ khi còn bé nên đến giờ còn nhớ được rất nhiều chuyện xảy ra hồi đó. Với lại, sau này lớn lên, ông anh cũng hay kể lại, kể mãi thì tôi lại càng nhớ, ăn sâu vào đầu óc. Hơn nữa, óc trẻ con còn chưa có gì mấy nên nhớ sâu cũng phải. Nhưng nhớ lại, đến giờ tôi vẫn cảm thấy, cuộc chiến tranh này cũng khá dai dẳng, khốc liệt chứ không phải ngắn ngày, chỉ 1 tháng-trong tháng 2.1979 như nhiều người nói.
Trước và trong thời gian anh tôi đi lính, tôi nhớ mình luôn cảm thấy chiến tranh ở đâu đó rất gần. Nhà tôi ở ven một cánh đồng ngay ngã 3 cầu chui Gia Lâm (nay gọi là Long Biên). Ngày xưa, thời điểm chiến tranh xảy ra, tôi hay cùng bọn trẻ hàng xóm đứng ở bờ mương trông ra đường sắt từ Hải Phòng chạy qua cầu Chui và những con tàu chạy từ ga Gia Lâm lên Lạng Sơn để đếm xem mỗi ngày, mỗi chuyến tàu, đoàn tàu vận tải đó chở bao nhiêu xe tăng, pháo...Thường thì xe tăng, pháo hạng nặng hay được phủ bạt nhưng nhiều khi, chẳng phủ gì, có thể thấy có những khâu pháo nhỏ thôi nhưng cũng có những khẩu rất lớn, nòng dài ngoẵng. Có những khẩu pháo ngắn 4 nòng,8 nòng, 16 nòng...mà bọn tôi cứ cá với nhau đó có phải là pháo cachiusa do Liên Xô viện trợ hay không, nó có thể ghép với nhau thành môt khẩu 40 nòng ấy chứ... Nhưng trông thật hùng tráng. Có rất nhiều xe tăng, thậm chí còn mới không biết được chuyển từ đâu tới. Nhưng cũng nhiều khi pháo, xe tăng được chuyển theo đường bộ. Những xung đột ở biên giới thời điểm nào nóng, lạnh có thể căn cứ vào số xe, pháo đó mà đoán. Nhưng bọn tôi, mỗi khi trông những đoàn tàu ấy chở pháo , chở xe tăng đi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp là quân ta có rất nhiều vũ khí hiện đại, đang thắng đến nơi.
Nhà tôi, tính theo đường chim bay, cũng chỉ cách sân bay quân sự Gia Lâm độ 500-700 m là cùng. Dạo ấy, rất nhiều ngày, người ta luyện tập máy bay lên xuống. Từng cặp Mic 21 trắng xoá cứ đuổi nhau, quần thảo trên bầu trời, gầm rú đinh tai nhức óc. Nhưng bọn trẻ chúng tôi lại thấy rất vui. Có những chiếc máy bay rất lớn, sơn màu loang lổ, có lẽ lấy được từ thời Mỹ Nguỵ để lại, chở quân ra Bắc. Trên cánh đồng trước mặt nhà tôi, hồi chiến tranh chống Mỹ, máy bay Mỹ ném bom (sân bay) bị trượt, rớt xuống cánh đồng rất nhiều, tạo lên nhiều hố bom lớn. Ngay trên các con mương, hồi đó vẫn còn những hầm trú ẩn bằng tre, đất. Cho nên, sống trong khung cảnh ấy, mới lớn lên đúng vào những năm tháng xảy ra cuộc chiến với Trung Quốc, tuy còn bé nhưng cảm giác của tôi rất rõ rệt. Có lúc thì thấy thích thú nhưng nhiều lúc thấy sợ hãi. Mỗi khi thấy những người thương binh khập khênh chân có chân không về làng, mà trước đó họ còn nguyên chân tay, khoẻ mạnh lúc ra đi thì trong lòng cảm thấy rất hoang mang.
Ông anh tôi thì có một sự cố trong cuộc chiến ấy. Vào lính năm 1981, ông được đưa ngay lên Lạng Sơn, ở đó cũng mất độ hơn 1 năm. Thỉnh thoảng anh tôi có về, kể việc tham gia chiến đấu thì về cơ bản, thời điểm đó ở Lạng Sơn, đánh nhau chủ yếu mang tính khiêu khích, cầm cự. Lúc thì quân Tàu đem di dời cột mốc sang bên ta, ta lại phải ủi lại. Rồi cũng thỉnh thoảng có những trận đánh làm một số người chết, bị thương. Quân Tàu thì theo anh tôi, bắn pháo rất giỏi. Khi quân mình bắn pháo, nó rất nhanh xác định vị trí, phản pháo lại, bắn toác nòng pháo của quân ta ngay. Quân ta thì bắn súng, nhất là bắn tỉa giỏi hơn, lính thiện chiễn hơn. Tuy nhiên, cũng có những vụ nghe anh tôi kể, buồn cười chết. Ví dụ như là quân 2 bên đều đào hầm, hào cầm cự với nhau. Đôi khi lính 2 bên gần nhau đến nỗi còn trêu nhau, ném bánh kẹo, thuốc lá cho nhau ăn, hút. Vì cũng toàn thanh niên trạc tuổi nhau, tự nhiên bị bắt đi lính chứ vốn chẳng thích giết chóc nhau gì. Nhưng cũng có khi nghịch ngợm, đem nhau ra làm bia bắn chơi cho vui. Rồi thấy đồng đội có ai chết, bị thương thì điên lên, lại xả súng bắn nhau tơi bời. Có lần, có ông cùng trung đội anh tôi đang ăn cơm trưa. Chú này hay thò đầu ra cửa hầm ngắm trời, ngắm đất. Có hôm, chú mới nhô đầu ra, mấy thằng lính tàu thách đố nhau, một thằng lấy súng ra nhắm bắn, đúng lúc anh lính Việt Nam há mồm nhai cơm, bắn đòm một phát xuyên từ má nọ sang má kia, làm anh này bị gẫy mất mấy cái răng mà không đụng lưỡi. Bọn lính tàu cười ré lên. Mấy anh lính Việt Nam vội vàng bê bạn vào hầm cấp cứu. Sau chú này về, có một kỷ niệm chiến tranh mãi không quên là 2 vết sẹo rất cân xứng ơ 2 bên má và một hàm răng lưa thưa.
Cũng có lần anh tôi kể cả đơn vị quây bắt một em thám báo người tàu. Cô này mặc quần áo đen, mặt mũi (bị rớt khăn Ninja bịt mặt), rất xinh đẹp nhưng cực kỳ giỏi võ, đánh gục hết chàng lính việt Nam này đến chàng khác. Anh tôi cũng bị một cước xưng vù mặt mũi, được đơn vị cho về nghỉ phép 2 tuần dưỡng thương. Nhưng quây bắt một lúc, có một anh lính đơn vị khác nghe tin, chạy đến, lao vào đánh nhau với nữ thám báo. Anh này cũng giỏi võ, chỉ vài đòn, đánh gục cô kia. Cô này bị văng mất con dao găm 2 lưỡi, anh tôi nhặt được. Sau này về, ông chơi chán chê rồi cho tôi. Con dao này rất là đẹp, nhọn, sắc, có rãnh thoát máu, 2 lưỡi rất sắc, gọt bút chì cứ gọi là thôi rồi. Sau tôi đi chơi trên chùa Trầm. Mang con dao vào hầm để khắc tên lên vách đá, bị bọn bảo vệ thu bố mất. Tiếc hùi hụi mấy năm trời. Đó cũng là một kỷ niệm chiến tranh của anh tôi mà tôi may mắn được sờ mó một thời gian.
Cũng có lần, sau này anh tôi kể, quân mình có những đơn vị lính đặc công rất giỏi. Có anh ở làng bên vào sâu trong đất Tàu, cài mìn ở một loạt các kho chứa vũ khí, quân trang,quân dụng rât lớn của họ ở khu vực gần biên giới trở về mà không bị phát hiện. Nhưng cấp chỉ huy cao hơn sau đó lại thay đổi quan điểm, không muốn vì những vụ nổ mìn ấy mà làm cho cuộc chiến dữ dội hơn nên yêu cầu đặc công quay lại gỡ mìn. Gỡ hết xong lại về, ra vào như chỗ không người.
Rồi có lần anh tôi kể, có lần, quân Trung Quốc đánh nhau lớn với quân ta, tràn quân qua sông,suối nào đó, bên ta dòng dây điện xuống, lính Tàu đang qua sông chết đông đặc cả lại như đàn nhái cho vào nồi nấu cám lợn...Anh lính nghĩ ra mưu ấy được thưởng huân chương.
Ấy là những câu chuyện hồi nhỏ chúng tôi thấy hết sức thú vị. Có những chuyện kinh khủng hơn, không muốn cho trẻ con nghe thì anh tôi hay kể riêng với anh trai kế của tôi, lúc đó cũng đã 15-16 tuổi về những chuyện 2 bên bắt được tù binh thì xử lý thế nào, chuyện lính tàu dùng dao quắm chém dân thế nào...Tôi thường cứ nắm giả vờ ngủ nhưng nghe được hết. Tôi nghĩ là anh tôi không kể sai vì ông ấy hầu như không biết bịa chuyện. Tính nết ông ấy thật thà như một khúc gỗ. Trong cách nói của anh tôi thì có vẻ như quân đội Việt Nam bị bất ngờ một thời gian đầu nên có những bất lợi nhưng sau này, phía Trung Quốc, lính bên đó to ra phải chờn, sợ vì qua những trận đánh lớn, nhỏ, lính Việt Nam thể hiện tính kỷ luật, chiến đấu cao hơn hẳn, máu chiến hơn, tác chiến linh hoạt và vũ khí cũng không tệ. Trung Quốc thời đó ngoài giỏi bắn pháo còn thì các thứ khác đều dở, hành quân chậm chạp, vẫn quen với kiểu chiến thuật biển người...Đánh nhau có khi vẫn hay dùng dao quắm.
Tham gia chiến đấu ở đó một thời gian, năm 1982, một hôm được anh bạn trên mặt trận Vị Xuyên thông báo: bên mày (anh tôi thuộc quân đoàn 14) sẽ phải chuyển quân lên đây đấy. Anh tôi sợ quá, chuồn một mạch về nhà vì vốn nghe, đó là những cối xay thịt, rất ít người về lành lặn. Ngay hôm sau vệ binh đã tìm đến xã thì anh tôi nghe phong phanh, sợ quá đã lại trở về Lạng Sơn nhưng trốn trong một hang đá nào đó. Sau ông anh tôi kể là trốn trong đó một số tuần, ra ngoài đầu tóc, người ngợm trông như vượn. Ba tôi đã phải bán nguyên một đàn vịt để lên tận Lạng Sơn, dấm dúi, nói với thủ trưởng đơn vị để anh tôi chỉ bị kỷ luật ở mức thấp nhất. Tội của anh tôi thì rõ là đào ngũ rồi. Trong chiến tranh tội này bị xử rất nặng. Cùng đợt đó, đơn vị anh tôi cũng có một số ngườ biết tin phải di chuyển nên cũng trốn chạy. Được biết, sau này người lính báo tin ở Cao Bằng đã phải ra toà án binh, bị giam một thời gian. Sau này ra tù, về nhà bị mắc bệnh gì đó và chết sớm. Anh tôi không có vẻ hối hận gì về vụ đào ngũ ngắn ngày đấy lắm vì nghe đâu, đợt đó, rất những người lính chuyển sang Cao Bằng chiến đấu bị chết, bị thương rất nhiều. Ngay ở xã tôi hồi đó, cũng có mấy anh bị mất một chân, nửa bàn chân khi chiến đấu ở Cao Bằng. Ba tôi có vẻ rất giận dữ về vụ này, có lần anh tôi về, vác gậy chạy đuổi, đánh cùng đường. Bởi ba tôi tinh thần cách mạng cao lắm. Ông là du kích thứ thiệt, làm trưởng đoàn dân công lớn tên mặt trận Pleicu nhiều năm trong kháng chiến chống Pháp. Mẹ tôi cũng chửi anh tôi mấy trận nhưng có vẻ như trong lòng bà hài lòng với quyết định của ông con cả. Bằng chứng là mọi khi, con cái có tội gì bà mắng, chửi, thậm chí đánh rất dữ đòn nhưng với một tội được cho là rất lớn, xấu hổ với bà con xóm làng lúc ấy thì bà chỉ chửi cho có chửi vậy thôi. Ông anh hai tôi thì bênh ông anh cả ra mặt: bảo rằng, dại gì chết ở một cuộc chiến tranh chẳng ra chiến tranh: nó chỉ là dạng xung đột, quân Tàu cốt xông sang, đánh phá, gây thiệt hại cho Việt Nam rồi rút là chính chứ không phải là cuộc xâm lược chiếm đất đai như cuộc chiến với Pháp, Mỹ đâu ?. Ông anh cả tôi thì tất nhiên đồng tình với lập luận này rồi. Bà chị hai của tôi lại càng đồng ý, có bao nhiêu tiền của do bắt cua, mò ốc..dành dụm được, mỗi khi anh tôi về đều dấm dúi mẹ đem cho anh hết. sau này vẫn kể, ông anh xấu tính,suốt ngày về dụ dỗ, lấy hết tiền của em. Nhưng tôi nhớ, ngay cả bà con làng xóm hồi đó cũng chẳng buồn chê bai gì nhà tôi. Tôi có cảm nhận rất rõ là lúc đó, dân tình đã chán ngấy chiến tranh rồi, chỉ muốn bình yên để được. sống, dù lúc đó, phần lớn mọi nhà đều còn rất nghèo khổ, túng bấn. Tôi cũng chẳng thấy việc anh tôi trốn đơn vị có gì xấu lắm vì chỉ có một lúc sợ hãi thế thôi chứ về cơ bản, ông ấy cũng tham gia gần như đầy đủ cuộc chiến trong suốt 3 năm nghĩa vụ của mình. May mà không bị vết thương nào nặng.
Ông anh rể tôi, cũng là một sĩ quan cấp hàm khá trong quân đội, trong buổi nhậu chiều nay cũng có nói là thực chất đó là cuộc chiến tranh phá hoại. Cả 2 phía còn chưa dùng tới những lại vũ khí đặc biệt, có khả năng sát thương ở qui mô lớn...
Thế đấy, chiến tranh biên giới trong ký ức của tôi nó như vậy. Sau này lớn lên, đọc nhiều tài liệu, bài vở về chiến tranh năm 79 thì suy nghĩ cũng có khác đi nhiều nhưng những gì tôi đã cảm thấy, đã nhớ, đã biết về cuộc chiến này đến h vẫn khá đậm nét. Và mỗi khi, có nghe ai đó nói, viết về chiến tranh 79, tự nhiên thấy tò mò, lại đọc, lại nghe...xem điều họ nói, họ viết có khác với gì mình thấy hồi nhỏ không. Quả là chỗ này, chỗ kia nói nó không đúng với như mình thấy hồi những năm còn nhỏ thật.
..Viết đến đây, mỏi quá, chán rôì, tạm nghỉ, lần khác viết tiếp, sửa tiếp...Hê hê.
http://vn.360plus.yahoo.com/quan5791/article?mid=817
|
|
|
|
|