| 
			
			 R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư 
			
			
			
				
			
			
				 
				Join Date: Dec 2008 
				
				
				
					Posts: 44,699
				 
				 
	Thanks: 262 
	
		
			
				Thanked 591 Times in 456 Posts
			
		
	 
	Mentioned: 0 Post(s) 
	Tagged: 0 Thread(s) 
	Quoted: 1 Post(s) 
				
				
  
    Rep Power:  61
  
  
  
				
				     
			 
	 | 
	
	
	
		
		
		
		 
			
			“Đó là một trong những con đường xưa nhất của  Sài Gòn, của thành Gia Định. Lịch sử thành phố đã cuộn qua nó rất sôi  động, rất khốc liệt. Con đường này cũng không mấy thay đổi qua nhiều  biến động, nhiều thời kỳ”, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu gật đầu tâm  đắc khi nghe hỏi về trục đường Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh. 
 
  
 Kỳ vọng Thiên Lý 
 
 
 Trong tấm bản đồ Sài Gòn năm 1815 so sánh với những con  đường hiện tại, hiện rõ mồn một đường Nguyễn Thị Minh Khai ở hai phía  của thành Gia Định hình bát giác (còn gọi là thành Quy) là trục đường đi  về phía bắc và phía tây. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài  Đức chép: “Năm Mậu Thìn Thế Tông thứ 11 (1748), quan điều khiển Nguyễn  Phúc Doãn cho chăng dây mà mở thẳng đường này, gặp ngòi suối thì bắc  cầu, chỗ bùn lầy xếp xây đắp đất. Từ cửa Cấn Chỉ của thành đến bến đò  Bình Đồng dài 17 dặm...  
 Năm Ất Hợi Gia Long 14 (1815), tổng trấn thành Gia Định  đo từ cửa Đoài Duyệt phía tây thành đắp đường đi đến tận nước Cao Miên  (Campuchia ngày nay), dài 439 dặm... Gọi là đường Thiên Lý, mặt đường  rộng 6 tầm, thực là đường bình an cho người, ngựa”. 
   
 Như vậy, tuổi của con đường này chỉ ít hơn thành Gia  Định có vài chục năm, “lối xưa xe ngựa” đến nay vẫn ngày càng nườm nượp.  Người xưa khi đắp đường, định chức năng quan lộ, gọi tên Thiên Lý chắc  cũng đã nuôi những kỳ vọng cho trăm năm.  
 Thời tiết, điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên  phong phú, nhân lực dồi dào, Gia Định - Sài Gòn đã nhanh chóng trở thành  nơi tập trung giao thương lớn nhất miền Nam. Chợ Thị Nghè là một trong  những khu chợ hình thành sớm nhất thời bấy giờ. Ngày ấy rạch Thị Nghè  rộng, nước trong xanh “hây hây như tờ quyến trải” thông suốt ra dòng Bến  Nghé. Nhiều cụ bà người Sài Gòn hôm nay vẫn còn nhớ câu thơ cũ của Ngô  Nhân Tịnh: Phủ Gia Định, phủ Gia Định, nhà đủ người no chốn chốn/ Xứ Sài  Gòn, xứ Sài Gòn, ở ăn vui thú nơi nơi. 
 Câu thơ cũ dường như viết chính về con đường Thiên Lý này vậy. 
 Lần lại lịch sử hình thành và phát triển của thành phố,  nhiều người Sài Gòn, kể cả nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng phải gật  đầu thú vị với những phát hiện về con đường này. Không chỉ có chợ, trên  đường còn có những nơi vui chơi giải trí, những tụ điểm văn hóa giáo  dục đầu tiên của Sài Gòn. Trước nhất là Sở thú được khởi công đầu tiên  từ tháng 3-1864.  
 Với diện tích trên 20ha, nhà thực vật học người Pháp  J.B. Louis Pierre đã sưu tập về đây hàng ngàn loài thực vật, chim thú  quý hiếm. Trải qua hàng trăm năm, bao nhiêu biến động của thời cuộc,  những cây gỗ quý trong Thảo cầm viên vẫn nấn từng vòng nhựa một để lớn  lên, chim thú từ khắp thế giới vẫn tụ về phục vụ nhu cầu của người dân  thành phố. Thật thú vị khi trong cuốn Việc từng ngày hai mươi năm qua  ghi chép từ năm 1945-1964, giữa những biến động lịch sử ngồn ngộn, tác  giả Đoàn Thêm vẫn cẩn trọng ghi: “Ngày 3-1-1962, từ giờ vào Sở thú phải  mua vé 2 đồng/người. Ngày 23-7-1963, cọp ở Thảo cầm viên sinh ba cọp  con”. 
 Đến năm 1869, đường Thiên Lý có tên là Chasseloup  Laubat và có thêm vườn Maurice Long (tên toàn quyền Đông Dương bấy giờ,  hiện là công viên Tao Đàn) được tách ra khỏi dinh toàn quyền, người dân  gọi là vườn Ông Thượng. Lập tức, vườn Ông Thượng trở thành một điểm hẹn  văn hóa của người dân thành phố, nơi cuộc đấu xảo đầu tiên diễn ra, năm  nào lễ giỗ Tổ Hùng Vương cũng được trang trọng tổ chức để những người di  dân xứ Bắc hướng về cội nguồn. Và vườn Ông Thượng sẽ còn là nơi lịch sử  thành phố ghi nhiều dấu son đáng nhớ. 
 Năm 1874, Trường Chasseloup Laubat (nay là THPT Lê Quý  Đôn), trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, nổi trống khai trường.  Ngoài con em của các quan Pháp, những học sinh xuất sắc nhất của đất Nam  kỳ cũng được tuyển chọn theo học. Sau mỗi kỳ thi, kết quả học tập của  từng người còn được đăng trên Gia Định Báo. Có lẽ chính vậy mà học sinh  VN nào cũng gắng để được nhận xét “Học tốt lắm”. Từ đây, nhiều học sinh  của trường sẽ ghi tên mình vào lịch sử trên nhiều lĩnh vực, kể cả làm  cách mạng chống chế độ thực dân, điều mà trường Tây không hề dạy họ:  Trần Văn Giàu, Phan Văn Hùm, Vương Hồng Sển... 
 Trăm năm đã đi qua, những cuộc dời đổi cũng đã đi qua,  nhưng Thảo cầm viên, công viên Tao Đàn, Trường THPT Lê Quý Đôn thì vẫn  đó, vẫn miệt mài làm chức năng từ ngày khai sinh của mình cho cả trăm  năm. 
 
 
 Cây cầu tình thương 
 
 
 Câu chuyện về cây cầu Thị Nghè bắt đầu rất thú vị từ  một tính cách rất đặc trưng của người Sài Gòn mà ai gặp rồi cũng sẽ nhớ  mãi. Các sách địa chí văn hóa Sài Gòn đều ghi lại về sự hào sảng của bà  Nguyễn Thị Khánh, con gái quan thống suất Nguyễn Cửu Vân. Từ thế kỷ 18,  thời chúa Nguyễn Phúc Chu, bà lấy chồng và cùng chồng đến sinh sống,  khai khẩn vùng đất ven sông Bình Trị. Chồng bà là một quan nghè làm thư  lại trong thành Gia Định, mỗi ngày đi về bốn lượt đều phải đợi đò để  băng qua con rạch. Thương chồng và thương dân làng vất vả, bà bỏ tiền  huy động dân công bắc cây cầu gỗ qua rạch. Từ ấy, cầu được gọi là cầu  Thị Nghè, con rạch cũng được dân thương mà gọi rạch Thị Nghè. 
 George Finlayson, một nhà ngoại giao, cũng là nhà khoa  học Anh đến Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 19, đã mô tả: “Nhà cửa rộng  lớn, thích hợp với phong thổ. Mái lợp ngói, cột điều mộc, vách thì trét  đất sét bên sườn tre rồi tô hồ lên. Nhiều nhà cao cẳng sàn bằng ván xếp  hàng dọc theo bờ kênh, bờ sông hay dọc theo đường cái quang đãng. Phố xá  ngay hàng thẳng lối hơn là ở nhiều kinh thành châu Âu”.  
 Bài Gia Định phong cảnh vịnh kể quang cảnh chợ Thị Nghè  thời ấy: Dưới sông tàu lửa đậu liền/ Từ đồn Giao Thủy sấp lên Bà Nghè/  Lưu thông các nước bộn bề/ Có tàu Đông Việt, có ghe Bắc kỳ/ Bán buôn vật  nọ hàng kia/ Lao xao thương khách xiết gì là đông/ Chiếc qua chiếc lại  đầy sông/ Mù mù khói tỏa, đùng đùng máy kêu... 
 Những câu chuyện về sự khởi đầu bao giờ cũng vui, nhưng  có chuyện vui ắt có chuyện buồn. Hơn 200 năm khốc liệt nhất của lịch sử  đi qua, con đường này, cây cầu này đã thấm mồ hôi, nước mắt của nhiều  thế hệ. Bắt đầu từ chính cây cầu Thị Nghè được bắc lên từ tình thương  yêu. 
 “Cha tôi, chú tôi đều đã có thời tuổi trẻ hào hùng ở  đây”, ngồi ở cửa hàng bán sáo trúc, đàn tranh của mình, ông Trần Thanh  Trung nhìn ra cây cầu Thị Nghè trước mặt mà nhớ những ngày ác liệt, khi  ông còn chưa ra đời... 
 
 
 PHẠM VŨ 
TTO
		 
		
	
		
		
		
		
		
	 |