Phiên  họp thứ 16 Ủy ban thường vụ QH, một số đại biểu quốc hội đă chất vấn  Chánh án TAND tối cao về t́nh trạng áp dụng án treo chưa đúng, đặc biệt  là đối với các tội phạm tham nhũng, dẫn đến dư luận bất b́nh.  Nhưng vấn đề đáng bàn không phải là nhiều bị cáo được hưởng án treo mà  điều quan trọng nhất là vấn đề “đáng được nhưng không được, không đáng  lại được” cho hưởng án treo.
    	|  | 
  	| Một phiên ṭa xét xử. Ảnh minh họa | 
  
 Theo quy định tại Điều 60 Bộ Luật h́nh  sự th́ án treo là biện pháp miễn chấp hành h́nh phạt tù có điều kiện.  Tuy nhiên, án treo lại rất được các bị cáo “thích” v́ trong thực tế, án  treo đồng nghĩa với việc không phải ngồi tù, được tự do hoàn toàn. Chính  v́ thế, án treo luôn là mong muốn của các bị cáo phạm tội có mức h́nh  phạt tù từ 3 năm trở xuống. Thậm chí, các bị cáo phạm tội nặng hơn cũng  t́m mọi cách để được giảm nhẹ khung h́nh phạt với hy vọng đủ điều kiện  để được hưởng án treo.
 Theo báo cáo của ngành Ṭa án, năm 2012,  có khoảng gần 21% các bị cáo bị xét xử đă được cấp sơ thẩm cho hưởng án  treo (tương đương gần 26 ngh́n bị cáo không phải ngồi tù). Cấp phúc  thẩm cũng áp dụng biện pháp “án treo” cho nhiều bị cáo có kháng cáo, với  tỷ lệ 13% số bị cáo có kháng cáo phúc thẩm (tương đương  gần 2,200 bị  cáo). Đối với các tội phạm về tham nhũng, tỷ lệ được hưởng án treo  khoảng 30% số bị cáo bị xét xử c̣n đối với các tội phạm về kinh tế th́  tỷ lệ được hưởng án treo là hơn 35%.
 Như vậy, với kết quả xét xử trên, tỷ lệ  các bị cáo được hưởng án treo là khá cao, chiếm gần 1/3 các bị cáo bị  đưa ra xét xử. Việc cho các bị cáo hưởng án treo trong nhiều trường hợp  đă gây sự bất b́nh của dư luận, nhất là các bị cáo phạm tội về tham  nhũng nhưng lại được hưởng án treo với tỷ lệ rất cao. Điều này gây quan  ngại sâu sắc đối với việc đấu tranh pḥng chống tham nhũng v́ việc cho  hưởng án treo khiến cho tính răn đe của h́nh phạt thấp đi.
 Tuy việc cho hưởng án treo như trên đang  bị dư luận quan ngại. Nhưng, theo báo cáo của ngành Ṭa th́ tỷ lệ cải,  sửa những bản án cho bị cáo hưởng án treo này lại không cao. Theo đó,  chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ (1,91%) trong số gần 26 ngh́n bị cáo được hưởng  án treo bị kháng cáo, kháng nghị. Nh́n vào con số này th́ liệu có thể  tạm kết luận rằng việc xét xử như vậy là đúng và việc quan ngại của dư  luận là thừa?.
 Theo Luật sư Nguyễn Văn Tú th́ con số  này chưa nói được nhiều điều về việc cho hưởng án treo đúng hay sai v́  phần lớn các bản án “treo” không bị kháng cáo, kháng nghị. Do đó, tỷ lệ  cải, sửa án thấp là chuyện đương nhiên. Hơn nữa, điểm nóng của việc áp  dụng biện pháp cho hưởng án treo không phải là nhiều hay ít mà có tiêu  cực hay không có tiêu cực trong những bản án mà các bị cáo được hưởng án  treo mới là điều quan trọng.
 Theo Luật sư Trần Văn Toàn, chế định án  treo hiện nay là một trong các chế định dễ phát sinh tiêu cực nhất nên  cần phải được quan tâm theo dơi từ phía các cơ quan kiểm tra, giám sát.  Theo đó, các bản án có bị cáo được hưởng án treo cần được kiểm tra, giám  sát chặt chẽ từ khi xét xử sơ thẩm, quy trách nhiệm rơ ràng cho người  xử không đúng pháp luật để đảm bảo không để lọt các bị cáo không đáng  được hưởng án treo nhưng vẫn được hưởng án treo.
 Một ví dụ về bản án phúc thẩm của Ṭa  Phúc thẩm TAND tối cao về vụ án tham nhũng xảy ra tại Bắc Ninh cách đây  vài năm. Bị cáo bị truy tố về tội tham ô, với mức h́nh phạt trên 7 năm  tù nhưng sau đó đă được cấp phúc thẩm xử phạt dưới khung và cho hưởng án  treo. Bản án đă bị quên lăng v́ đó là án phúc thẩm, hơn nữa lại được  chính đại diện VKS đề nghị mức án “hời” này cho bị cáo. Nh́n vào bản án  này liệu có ai dám chắc là không có tiêu cực? Tuy nhiên, vụ án ch́m vào  quên lăng v́ đă không có ai nhắc đến nữa. Do đó, để tránh tiệu, cần kiểm  tra các bản án phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo.
 Nhưng, việc kiểm tra như trên chỉ phát  hiện một “góc khuất” của án treo, chỉ phát hiện ra trường hợp bị cáo  không đáng được hưởng án treo mà vẫn treo. Đối với trường hợp các bị cáo  đáng được hưởng án treo mà không cho treo th́ sao?.
 Hai mặt của vấn đề này phản ánh t́nh  trạng tùy tiện cho hưởng án treo. Bên cạnh đó, đây c̣n là bằng chứng cho  thấy có khả năng phát sinh tiêu cực khi quyền ban phát án treo thuộc về  thẩm phán, HĐXX. Nói cách khác, án treo đúng là biện pháp miễn chấp  hành h́nh phạt tù có “điều kiện” hiểu theo nghĩa bóng của từ này. Ngay  cả các bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp  luật th́ cũng chưa chắc được hưởng án treo nếu không thỏa măn “điều  kiện” của người ban phát.
 V́ vậy, để án treo không phải là nơi  phát sinh tiêu cực trong xét xử và cũng không làm thiệt tḥi những người  đáng được hưởng lượng khoan hồng, bao dung của pháp luật, cần phải xây  dựng các quy định chặt chẽ hơn về việc áp dụng chế định án treo đối với  các bị cáo.
 Theo đó, để tránh tiêu cực, cần xác định  các tội danh nhất thiết không cho hưởng án treo (như ma túy, tham  nhũng, phạm tội cố ư có dự mưu) và các tội danh cần phải cho hưởng án  treo (như các trường hợp phạm tội do vô ư, khinh xuất hay các tội danh  mà việc phạt tù rơ ràng là không cần thiết). Việc giảm bớt quyền “ban  phát” án treo của người xét xử và quy định rơ ràng hơn về điều kiện áp  dụng án treo trong luật sẽ giảm những trường hợp áp dụng án treo mà điều  kiện lại do người xét xử đưa ra. Có như vậy, dù tỷ lệ áo treo cao hay  thấp đâu phải là điều đáng lo…
  
B́nh Minh