Những con số kiều hối lên đến 11 tỷ đôla thật to lớn, Việt Nam lọt top 10 nước có kiều hối lớn nhất thế giới. Nhưng thật ít ai ngờ chính những người Nam Việt Nam trước 75 lại là người đứng đầu bảng gửi kiều hối cho dân Việt trong nước. Cùng vietbf.com khám phá ngọn ngành của sự việc.
Chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc sau 40 năm còn ngổn ngang trăm mối tơ vò lại rối ren thêm vào dịp Tết qua phát ngôn thiếu xây dựng và không đúng sự thật của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc và báo Quân đội Nhân dân.
Trước hết hãy bàn về Bài viết “Suy ngẫm đầu Xuân” của ông Sang đăng trên Tạp chí Quê Hương Online, Cơ quan ngôn luận của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, phổ biến đúng ngày Mồng một Tết (19/02/2015).
Ông viết: “Trong thời kỳ Đổi mới, đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vận động nhiều nước gỡ bỏ hàng rào cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam; nhiều kiều bào trở thành cầu nối gắn kết, dẫn dắt các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Với tấm lòng đau đáu vì sự phát triển của nước nhà, nhiều kiều bào trực tiếp về nước làm chuyên gia tư vấn, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đầu tư công sức và tiền của để sản xuất kinh doanh, thành lập các công ty xuất nhập khẩu hàng hóa...”
Hoàn toàn sai với trường hợp của Mỹ. Hàng rào cấm vận Việt Nam từ 1975 đến 1994 do Hoa Kỳ chủ động và lãnh đạo nhằm cấm các nước có quan hệ với Mỹ giúp Việt Nam. Các Tổ chức quốc tế chịu ảnh hưởng lớn của Hoa Thịnh Đốn, tiêu biểu như Quỹ tiền tệ Quốc tế (International Money Fund, IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank) cũng bị chi phối.
Lệnh cấm vận của Mỹ nhằm 2 mục đích chính: trừng phạt Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã xé bỏ Hiệp định Paris 1973, dùng võ lực đánh chiếm Việt Nam Cộng hòa, đồng minh của Mỹ. Thứ hai là chống cuộc xâm lăng chiếm đóng Campuchia 1978 -1992 của quân đội CSVN.
Theo tài liệu chính thức, đến năm 1993, Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm các nước khác cho Việt Nam vay tiền trả nợ cho các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai quốc gia. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Như vậy, điều mà ông Chủ tịch Trương Tấn Sang bảo là “đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vận động nhiều nước gỡ bỏ hàng rào cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam”, trong trường hợp nước Mỹ là không có cơ sở. Bởi vì vào thời gian từ 1975 đến 1995, hoạt động của nhóm thiểu số được gọi là “người Việt yêu nước” thân Hà Nội ở Hoa Kỳ chỉ đếm trên đầu ngón tay và không có bất cứ khả năng vận động nào với Chính quyền Mỹ về chuyện bỏ cấm vận.
Có chăng là cuộc vận động tích cực của một số các Nhà lập pháp Mỹ cựu chiến binh Việt Nam, trong số có hai Nghị sĩ John McCain và John Kerry để đổi lấy hợp tác của Chính phủ Việt Nam trong công tác tìm kiếm quân nhân Mỹ còn mất tích tại 3 chiến trường Việt Nam, Lào và Campuchia.
Ông Sang khoe “nhiều kiều bào trực tiếp về nước làm chuyên gia tư vấn, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học”, nhưng số này không quá 200 người đi về qua nhiều giai đoạn từ khi có Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Phần lớn người về giúp Việt Nam thuộc các tổ chức viện trợ Quốc tế hay giáo dục của các trường Đại học.
Ông Sang còn biểu dương: “Kiều hối không ngừng tăng, trở thành một trong những nguồn ngoại lực quan trọng đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Có thể khẳng định, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã thực sự góp phần không nhỏ vào thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự vươn lên bắt nhịp mạnh mẽ của Việt Nam với khu vực và thế giới những năm qua.”
Sở dĩ người Việt ở nước ngoài gửi nhiều tiền về Việt Nam vì Nhà nước không đánh thuế trên khoản tiền này, đồng thời giúp thân nhân có thể đầu tư vào ba ngành: dịch vụ, địa ốc và du lịch, hoặc gửi vào ngân hàng để lấy lời.
Nhưng nếu ông Sang cho rằng: “Những đóng góp đáng trân trọng và đầy tự hào đó của kiều bào ta đối với Tổ quốc xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn của mỗi người dân đất Việt, kết tinh trong truyền thống quý báu hàng ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam từ thuở Vua Hùng lập nước” thì đó là một ngộ nhận không phản ảnh trung thực mục đích giúp gia đình có cuộc sống khá hơn là chính.
Bởi vì “yêu nước” hay hướng về quê cha đất tổ luôn luôn là định hướng không bao giờ phai nhạt, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Nhưng nếu coi hành động mỗi năm có hàng ngàn người Việt về thăm quê hương, dòng tộc, thăm mồ mả tổ tiên cũng đồng nghĩa với “yêu xã hội chủ nghĩa” hay chấp nhận đảng CSVN là một ý nghĩ cường điệu và sai lầm.
Đầu tư và kiếu hối
Theo thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, hiện có 51/63 tỉnh, thành phố trong nước có các dự án đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài, với hơn 3,600 doanh nghiệp kiều bào với tổng số vốn đầu tư lên tới 8,6 tỉ USD.
Con số 8,6 tỉ USD không nhỏ, gần bằng một nửa nguồn vốn doanh nghiệp FDI (Foreign Direct Invesment, Đầu tư trực tiếp từ Nước Ngoài) vào Việt Nam năm 2014. (theo báo Giáo Dục Việt Nam, 19/02/2015).
Trong khi đó, số Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%/năm, Năm 2009 là 6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là 9 tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD. (theo Đài Tiếng nói Việt Nam, VOV ngày 20/09/2014).
Theo báo Giáo dục Việt Nam thì khoản Kiếu hối lớn lao này đã “bù đắp được 92% chênh lệch cán cân thương mại. Trong năm 2012, dù tình hình kinh tế thế giới lẫn trong nước nhiều khó khăn nhưng lượng kiều hối vẫn có sự bứt phá, chạm mốc 11 tỷ USD. Hiện Việt Nam nằm trong số 10 nước nhận kiều hối hàng đầu thế giới.”
Các chuyên gia tài chính ở Việt Nam ước tính từ năm 1991 đến năm 2014, tổng số tiền 90 tỷ USD đã được người Việt ở nước ngoài gửi về Việt Nam, chiếm 1/3 tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Phần lớn số tiền này do khối người Việt từ miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) ra đi từ năm 1975 đang định cư ở các quốc gia có nền công nghệ và giáo dục cao như Mỹ, Châu Âu, Canada và Úc Đại Lợi. Số còn lại là của khoảng 500,000 lao động Việt Nam được Nhà nước gửi ra nước ngoài làm việc, nhiều nhất tại Nam Hàn và Đài Loan.
Nhưng ở Việt Nam doanh nhân Việt kiều không có các dự án kinh tế lớn, đáp ứng nhu cầu tốt, mang lại lợi nhuận cao vì nhiều địa phương đã dành các địa bàn thuận lợi, lưu thông tốt, gần thành phố, các ngành dễ kiếm tiền cho các doanh nghiệp trong nước và của nhà nước.
Vì vậy nhiều doanh nhân Việt kiều không muốn “mang tiền đi đổ sông Ngô” vì nhà nước CSVN vẫn dành nhiều ưu đãi cho các nhóm lợi ích trong đảng.
Ngoài ra thủ tục hành chính rườm rà lại hay thay đổi, áp dụng tùy tiện, cán bộ coi Việt kiều như những con mòng béo mập nên làm gì cũng phái nạp tiền “bôi trơn” hay “phong bì” thì mới xong khiến doanh nhân nản chí.
Báo Giáo dục Việt Nam, GDVN (19/02/2015) phản ảnh: “Ông Phạm Văn Thắng - một Việt kiều Đức trở về đầu tư trong nước 12 năm cho rằng Việt Nam có nhiều lợi thế thu hút đầu tư vào lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là dịch vụ, du lịch. Các cơ chế đầu tư ở Việt Nam khá thông thoáng, chi phí sinh hoạt rẻ, công nhân Việt Nam khéo tay, có năng suất lao động cao, với những người được đào tạo, không kém các nước khác.
Những khó khăn của doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài khi đầu tư vào trong nước chủ yếu liên quan đến chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục hành chính, chính sách cần có định hướng lâu dài bền vững... Chính vì gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong vấn đề thủ tục hành chính, những công nghệ ông Thắng đưa về Việt Nam không được lắng nghe áp dụng vì vậy doanh nhân này đang tính đường quay trở lại Đức để kinh doanh.”
Trong một bài viết đăng trên báo GDVN ngày 24/02/2015, ông Thắng thổ lộ: “Cách đây 12 năm khi trở về Việt Nam đầu tư, tôi ấp ủ nhiều dự định triển khai các công trình về công nghệ. Trong đó có công nghệ gia cố đất làm đường bằng phụ gia của Đức, công nghệ làm sạch, công nghệ làm vật liệu không nung của Đức... nhưng tất cả đều thất bại.
Thất bại vì nhiều lý do, trước hết phải khẳng định chính sách của Đảng và Nhà nước rất khuyến khích, rất mở. Tuy nhiên cơ chế tổ chức vận hành của toàn bộ cơ sở hạ tầng này vẫn ì ạch, trì trệ, không đáp ứng được với những yêu cầu của những doanh nhân Việt kiều. Chúng tôi quen cách làm việc hiện đại thông thoáng của những nước tiên tiến...
“...Cũng là kinh doanh nhưng bên kia không phải động tác phong bì... còn bên mình thì doanh nghiệp phải lo quá nhiều cái, mà không thế không được... Về đầu tư, văn bản pháp luật, chính sách thay đổi liên tục doanh nghiệp khó chạy theo, muốn làm cũng khó.”
Tuy nhiên khi khoe khoang quá lố công lao của đảng trong công tác Việt kiều, ông Sang đã sai lầm khi nói rằng: “Để có được những thành công đó, chúng ta tự hào có Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn quan tâm tới bộ phận máu thịt không thể tách rời là 4,5 triệu người con Việt Nam ở bốn phương trên khắp địa cầu. Vai trò và vị trí của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn được ưu tiên trong chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài đã được cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương tích cực triển khai nhằm mục đích tạo thuận lợi nhiều nhất cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.”
“Ưu tiên”, “quan tâm” và “tạo thuận lợi” cho Kiều bào ra sao thì ông Sang hãy đọc những lời trăn trở để rút khỏi Việt Nam của thương gia Phạm Văn Thắng.
Ông Sang cũng cần nhìn ra sự thất bại của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, sau 10 năm thi hành Nghị quyết 36, đã không sao lôi kéo được thế hệ Việt kiều thứ hai ra đi sau 1975 mà cả với thế hệ thứ ba và thứ bốn sinh ra ở nước ngoài cũng không ai muốn về nước sống chung với chế độ Cộng sản còn tiếp tục tước đoạt các quyền tự do cơ bản của người dân.
Do đó, ông Chủ tịch nước cũng không nên hờn giỗi nói rằng: “Mỗi dịp Xuân về, người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về quê hương, thắp nén hương cho ông bà tổ tiên, thăm lại nơi chôn rau cắt rốn. Đó là truyền thống, đạo lý quý báu của ông cha ta truyền lại qua ngàn đời, được cả dân tộc gìn giữ và nâng niu. Nhưng chúng ta không khỏi chạnh lòng khi hàng chục triệu lượt kiều bào đã trở về thăm Tổ quốc, thì vẫn còn một bộ phận nhỏ chưa một lần về lại quê cha đất Tổ kể từ khi cất bước ra đi. Họ vẫn còn định kiến, mặc cảm của quá khứ. Họ có hiểu chăng đất mẹ luôn mở rộng vòng tay nhân ái cho mọi người con trở về trong đùm bọc và yêu thương. Tôi mong rằng sẽ sớm có một ngày 4,5 triệu người Việt Nam nước ngoài đồng lòng như một, hướng về Tổ quốc, chung tay góp sức làm rạng rỡ cho non sông gấm vóc Việt Nam.”
Ông Sang bảo chỉ “còn một bộ phận nhỏ” trong số 4.5 triệu Kiều bào không muốn thân thiện với nhà nước và đảng CSVN thì hoặc ông đã bị cấp dưới nịnh hót báo cáo sai, hay ông đã không dám nhìn vào sự thật để thất vọng thấy rằng nếu có một cuộc trưng cầu ý kiến thì sẽ thấy số người Việt ở nước ngoài muốn về Việt Nam sinh sống không có bao nhiêu vì có ai dại để đánh mất tự do bao giờ?
Lý luận Dương Trung Quốc
Bài viết thứ hai cần bàn tới là của Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Ông Dương Trung Quốc, quê quán xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, sinh năm 1947 và lớn lên tại Hà Nội.
Ông không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng được đảng chọn là Đại biểu Quốc hội của Tỉnh Đồng Nai từ các khóa XI, XII và XIII. Ông cũng là một trong số rất hiếm người đã có những phát biểu thẳng thắn trong các kỳ họp quốc hội.
Ông còn là một trong số 2 Đại biểu Quốc hội “không bấm nút chấp thuận bản Hiến pháp sửa đổi 1992 sáng ngày 28/11/2013”, với lý do ông đứng về phía những người dân “có ý kiến khác”, nhất là việc Quốc hội đã “luật hóa” Cương lĩnh của Đảng gọi là “Xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa”.
Với tiêu đề “Hòa hợp dân tộc là quy tụ được nhân tâm” đăng trên báo Lao Động điện tử, Cơ quan của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, ngày 19/02/2015 (Mồng Một Tết), ông Quốc viết: “Hiệp định Genève (20/07/1954) được ký kết tạm thời chia cắt đất nước, nhưng rồi sự tạm thời ấy không thể giải quyết vấn đề thì chúng ta lại phải tiếp tục sự nghiệp chiến đấu, ngay cả khi Mỹ can thiệp vào, chúng ta phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ.”
Thiết nghĩ, là Nhà Sử học thì ông Dương Trung Quốc biết rõ hơn mọi người về sự khác biệt giữa “tiếp tục sự nghiệp chiến đấu” cho chính nghĩa hay “kháng chiến chống Mỹ” như “chống Pháp giành độc lập” trước đây.
Khác với cuộc chiến chống Pháp của toàn dân chứ không của riêng người Cộng sản, chủ trương “xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa” của đảng CSVN ở miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) sau Hiệp định Geneve 1954, là nguyên nhân của cuộc nội chiến nồi da xáo thịt đồng bào kéo dài 20 năm, 1955 -1975.
Ông Dương Trung Quốc đã thần thánh hóa nhóm chữ “sự nghiệp chiến đấu” và“kháng chiến chống Mỹ” để xóa đi tội ác xâm lược miền Nam của đảng CSVN. Từ Chính quyền Quốc gia Việt Nam sau Hiệp định Geneve 1954 (Ngô Đình Diệm) đến các Chính phủ Việt Nam Cộng hòa sau này (1956-1975), chưa khi nào Quân đội của miền Nam đã vượt Vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước để trả đũa các cuộc tấn công của Bộ đội miền Bắc.
Ngược lại chính quyền Cộng sản miền Bắc đã bịa đặt ra chuyện đồng bào ruột thịt nhân dân miền Nam bị kìm kẹp trong gông cùm của Mỹ-Ngụy nên đã xâm nhập người và vũ khí vào Nam để mở ra chiến tranh dưới chiêu bài “giải phóng”!
Miền Bắc cũng đã mời 320,000 quân Trung cộng vào giúp bảo vệ miền Bắc để cho bộ đội rảnh tay mang súng đạn của các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa do Nga Sô lãnh đạo vượt Trường Sơn vào đánh phá VNCH.
Nhưng chắc ông Dương Trung Quốc, Nhà biên sử, làm sao có thể quên câu nói để đời của Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta.”? (theo Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr. 422, phần chú thích).
Như vậy thì chính nghĩa “giải phóng” cho ai và vì ai đã rõ chưa mà Đại biểu Dương Trung Quốc vẫn viết rằng: “Trong sự kiện 30.4.1975, ta dùng chữ “giải phóng” là rất đúng, nhưng giải phóng là hướng tới mục tiêu không chỉ độc lập dân tộc, mà quan trọng nhất, thiêng liêng nhất là thống nhất quốc gia. Ngày nay, rõ ràng chúng ta đang nối tiếp sự nghiệp ấy bằng việc bảo toàn sự toàn vẹn lãnh thổ, kể cả biển đảo. Tôi cho rằng, đương nhiên một cuộc chiến tranh có kẻ thắng người thua, nhưng quan trọng nhất là chúng ta đạt được mục tiêu. Mục tiêu không phải chúng ta chiến thắng đối phương, mà đó chỉ là phương thức để đạt tới mục tiêu thống nhất đất nước.”
Lý luận con loăng quăng của Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam chỉ để giảm thiểu tính giả dối của hai chữ “giải phóng” và phủi trách nhiệm lịch sử đối với những người, ở cả hai bờ chiến tuyến, đã nằm xuống.
Trong suốt 20 năm chiến tranh, dù phải đối phó với cuộc xâm lăng tàn bạo của bộ đội Cộng sản miền Bắc và du kích quân Cộng sản trong Nam do miền Bắc chỉ huy, nhân dân miền Nam chưa hề bao giờ bị ai “kìm kẹp, áp bức, bóc lột sức lao động hay thiếu ăn, thiếu mặc và nghèo nàn” như đồng bào miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa.
Nếu ông Quốc bình tĩnh lấy kính hiển vi soi lại mức sống và tình trạng xã hội của miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì ông sẽ thất vọng khi biết đã có những người lính bộ đội bật khóc khi vừa đặt chân đến Sài Gòn hoa lệ của miền Nam, trong ngày được gọi là “giải phóng” vì đến lúc đó họ mới biết đã bị đảng đánh lừa đẩy vào cuốc chiến vô lý.
Câu nói nổi tiếng nhất trong họ là của bà Dương Thu Hương, Nhà văn gốc Bộ đội:“Tôi đã ngồi phệt xuống vỉa hè Sài Gòn khóc, tôi biết miền Nam đã giải phóng miền Bắc chứ không phải ngược lại.”
Bằng chứng lịch sử đã nói nhiều về sự khác biệt giữa hai xã hội Nam-Bắc khi họ bước chân vào Thủ đô Sài Gòn và các thành thị miền Nam mà không cần phải biện giải thêm.
Hơn thế nữa, theo theo 4 định nghĩa của “Đại từ điển tiếng Việt” của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin năm 1998 thì nghĩa của “giải phóng” là:
1.- Làm cho thoát ách áp bức, được tự do: giải phóng đất nước.
2.- Làm cho thoát khỏi những ràng buộc bất hợp lí: giải phóng phụ nữ.
3.- Làm cho hết mọi cản trở để thực hiện mục đích: giải phóng mặt bằng.
4.- Làm cho chất này được thoát khỏi chất khác: Phản ứng hóa học đã giải phóng chất khí.
Như vậy, sự kiện 30.4.1975 không thể gọi là “giải phóng” như ông Dương Trung Quốc đã bẻ cong tiếng Việt cho phù hợp với tư duy chính trị của Đại biểu Quốc hội, thay vì phải trung thực và trong sáng trong quan điểm của nhà viết sử.
Đồng bào miền Nam không cần miền Bắc giải phóng. Đảng và quân đội CSVN đã xâm lược và chiếm đóng Việt Nam Cộng hòa để thống nhất đất nước bằng võ lực để sau đó gây ra thảm trạng ngụy trang “học tập cải tạo” dành cho hàng trăm ngàn quân và dân miền Nam.
Cũng vì hai chữ “giải phóng” lừa bịp mà hàng chục ngàn con dân Việt Nam vô tội khác đã phải bỏ mình ở Biển Đông trên đường vượt biển tìm tự do.
Hai chữ “giải phóng” cũng đã bần cùng hóa nhân dân đô thị miền Nam đang từ no cơm ấm áo xuống hàng nô lệ bần cùng trong chiến dịch đuổi dân đi vùng “kinh tế mới” và “cải tạo tư sản miền Nam” hay “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam”, bắt đầu từ ngày 04/09/1975 chủ động trên giấy tờ bởi chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Sau đó, giai đoạn 2 từ ngày 15/07/1976, làm theo Nghị quyết 254/NQ/TW của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (sau này đổi thành Đảng Cộng sản Việt Nam) quy định “về những công tác trước mắt ở miền Nam, hoàn thành việc xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.”
Còn nữa bên dưới