Ông Dương Đăng Huệ, vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế (Bộ Tư pháp)  cho rằng việc ghi nhận chế định ly thân trong Luật hôn nhân mang nhiều ý  nghĩa tích cực, trong đó có một ý nghĩa rất quan trọng là bảo vệ quyền  lợi của người phụ nữ.
Ông Huệ lấy một ví dụ: Trước đây người phụ nữ mặc dù sống “ly thân” với  chồng nhưng vì pháp luật chưa công nhận ly thân nên người chồng vẫn có  quyền yêu cầu vợ của mình thực hiện “nghĩa vụ” của vợ chồng, lâu lâu vẫn  có thể đòi hỏi “chuyện ấy”, dù sống ly thân nhưng vẫn là vợ nên người  phụ nữ không có cách nào để bảo vệ mình. Khi chế định ly thân được pháp  luật công nhận, kèm theo đó là những điều kiện, quy định về quyền và  nghĩa vụ của vợ và chồng khi ly thân, thì quyền lợi của người phụ nữ sẽ  được đảm bảo hơn. Chẳng hạn trong thời gian ly thân người vợ có quyền từ  chối quan hệ với chồng của mình.
Ảnh minh họa
Chia sẻ về vấn đề này, bà Trịnh Thị Lê Trâm, ủy viên Ban chấp hành Trung  ương, Hội luật gia Việt Nam cho biết: Thực tế nhiều trường hợp không  muốn ly hôn nhưng không còn ở cùng nhau nữa. Pháp luật nên ghi nhận chế  định ly thân để tạo điều kiện cho những trường hợp này. Nhiều người đã  có tuổi, nếu ly hôn thì ngại, ảnh hưởng đến cuộc sống của con cháu. Do  đó họ chọn cách ly thân, mặc dù vẫn là vợ chồng nhưng mỗi người có cuộc  sống riêng, khi quy định về ly thân cũng cần chú ý đến các quy định về  tài sản, trách nhiệm với con cái.
Tại buổi tọa đàm sáng nay (27/6), vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh  tế, Bộ Tư pháp Dương Đăng Huệ cho biết thêm trong thực tiễn lập pháp, ly  thân không phải là vấn đề mới ở Việt Nam. Chế định này đã được quy định  trong pháp luật ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc và ở miền Nam (Luật Gia  đình năm 1959, Sắc luật 15/64 năm 1964 và Bộ dân luật Sài Gòn 1972).  Hơn nữa, trong bối cảnh Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không quy  định về ly thân, nhưng xuất phát từ thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa  vợ và chồng, TANDTC đã đưa ra một số hướng dẫn cho các cấp Tòa án thực  hiện về vấn đề này.
Đối với hậu quả pháp lý của ly thân, nhiều ý kiến cho rằng về nguyên  tắc, ly thân chỉ giải quyết việc không sống chung của vợ chồng và giải  quyết các vấn đề về tài sản và con, mà không làm chấm dứt quan hệ hôn  nhân. Luật cần quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời  kỳ ly thân, tránh tình trạng hiểu lầm là khi ly thân, vợ chồng tạm thời  chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Về chế độ tài sản của vợ chồng, việc ly thân sẽ làm chấm dứt chế độ tài  sản chung mà trước đó vợ chồng đã lựa chọn áp dụng và họ sẽ tuân theo  một chế độ tách riêng tài sản.
| Điều 99b. Giải quyết yêu cầu ly thân của vợ chồng 
 Phương án 1:
 1. Vợ chồng hoặc vợ, chồng có quyền yêu cầu ly thân.
 2. Các quy định về giải quyết yêu cầu ly hôn từ khoản 2 Điều 85 đến  Điều 91 của Luật này được áp dụng trong giải quyết yêu cầu ly thân.
 Trong trường hợp một bên có yêu cầu ly hôn và bên kia có yêu cầu ly  thân thì Tòa án thụ lý giải quyết cả yêu cầu về ly thân và ly hôn. Sau  khi xem xét quan hệ hôn nhân giữa các bên, lợi ích của gia đình, đặc  biệt lợi ích của các con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực  hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi  mình, Tòa án quyết định ly hôn hoặc ly thân.
 3. Việc ly thân có hiệu lực kể từ ngày việc thuận tình ly  thân được cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác nhận hoặc từ ngày  quyết định, bản án cho ly thân của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Việc ly  thân phải được ghi chú vào Số bộ hộ tịch theo quy định của pháp luật về  hộ tịch”.
 
 Phương án 2:
 “1. Vợ chồng có quyền yêu cầu ly thân theo thỏa thuận.
 2. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết thuận tình ly thân theo quy định tại Điều 90 của Luật này.
 3. Việc ly thân có hiệu lực kể từ ngày việc thuận tình ly  thân được cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác nhận hoặc từ ngày  quyết định, bản án cho ly thân của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Việc ly  thân phải được ghi chú vào Số bộ hộ tịch theo quy định của pháp luật về  hộ tịch.
 
 Điều 99c. Hiệu lực của ly thân
 1. Ly thân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng, nhưng vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ sống chung.
 2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con trong thời kỳ ly thân  được áp dụng theo quy định tại các điều 92, 92a, 93 và 94 của Luật này.
 3. Kể từ ngày việc ly thân có hiệu lực, vợ, chồng có  quyền sở hữu riêng đối với những tài sản mà mỗi bên có được và chịu  trách nhiệm riêng về những nghĩa vụ mà mình xác lập, thực hiện.
 Trong trường hợp vợ chồng yêu cầu về chia tài sản chung có trước  ngày việc ly thân có hiệu lực thì tòa án giải quyết theo các nguyên tắc  chia tài sản khi ly hôn.
 4. Việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly thân theo quy định tại Điều 60 của Luật này.
 5. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết, người kia có quyền  thừa kế tài sản của người chết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
 6. Quyền, nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba phát sinh trước thời  điểm ly thân vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận  khác.
 
 Điều 99d. Chấm dứt ly thân
 1. Ly thân chấm dứt theo thỏa thuận của vợ và chồng.
 2. Khi ly thân chấm dứt, chế độ tài sản trong ly thân vẫn có hiệu lực, trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác.
 (Dự thảo luật)
 
 | 
Băng Tâm
Nguoiduatin