Người liệt sĩ ấy đă được ghi danh trên bia tưởng  niệm Tổ quốc ghi công và có mộ phần bên cạnh hàng trăm liệt sĩ khác  suốt 40 năm nay. Khi chỉ c̣n 23 ngày nữa là đến cái giỗ thứ 40 của ông  th́ ông bất ngờ trở về…  
    Quên hết mọi thứ, trừ chiến tranh
  
 Tôi t́m về thôn Tự  Tiên, xă Tiên Minh - một xă giàu truyền thống cách mạng nhưng thuộc diện  “nghèo có số” của huyện Tiên Lăng, Hải Phòng - vào một buổi trưa muộn  của tháng 6 vụ gặt. Câu chuyện về liệt sĩ Phan Hữu Được trở về sau 40  năm được làm giỗ xôn xao ngôi làng nhỏ. Có người bảo may mắn quá,  hạnh phúc quá, ông ấy vẫn c̣n sống để mà trở về với quê hương! Có người  lại lắc đầu chua chát: về mà lúc tỉnh lúc điên, về mà không c̣n cha mẹ,  anh em ruột thịt, về mà chẳng có lấy một đồng nuôi thân, một mảnh đất cố  cắm…
  
 Câu chuyện xưa về việc  đổi họ, “trả vợ”, ăn vạ nhà xă đội để được đi bộ đội của ông Được vẫn  c̣n được các cụ già trong làng kể suốt đến ngày nay. 
  
 

Ông Được bên di ảnh của chính mình, vẫn được thờ trên ban thờ suốt 40 năm nay
 Hồi đó, Phan Hữu Được  là con út trong một gia đ́nh có hai anh em trai, bố là liệt sĩ chống  Pháp; anh trai đang tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường miền  Nam. Chàng thanh niên Được nằm trong diện miễn nghĩa vụ quân sự đặc  biệt của địa phương. Mặc dù lúc đó đă có một người vợ sắp cưới rất  xinh đẹp tên Lý ở huyện bên, nhưng với mong muốn được cống hiến cho  cuộc chiến bảo vệ dân tộc, chàng trai ấy đă mang lễ tạ tội với Lư rồi  làm đơn t́nh nguyện nhập ngũ. Tất nhiên đơn của Được không được lănh  đạo huyện đội Tiên Lăng chấp nhận.
  
 Được nghĩ ra cách  đổi tên họ, năm sinh từ Phan Hữu Được (1949) thành Phạm Văn Được  (1952) để tráo hồ sơ. Được còn dẫn theo người cháu 10 tuổi đến ở ĺ  nhà ông Hồng, xă đội trưởng bấy giờ, làm đủ các việc từ xay lúa, giă  gạo… chỉ để ông Hồng có thời gian nghe Được tŕnh bày nguyện vọng và  kư đơn, thuận cho đi chiến đấu.
  
 Người cháu 10 tuổi ấy là anh Phan Hữu Lợi - cháu gọi ông Được bằng chú ruột. Chúng tôi đến nhà anh Lợi để t́m gặp  người  “liệt sĩ” trở về. Thấy người lạ, ông cụ gần 70 tuổi, gầy đen, đứng  dậy nhưng không nh́n cũng không cười, tập tễnh bước đi. Ông Được chỉ kể  về chiến tranh, bắt đầu từ thời điểm nhập ngũ. Những câu chuyện rời rạc,  ngắt quăng, cùng với sự hỗ trợ ghép nối thông tin tích cực của người  thân, chúng tôi mới h́nh dung được phần nào câu chuyện.
  
 Theo đó, năm 1967 ông  đi thanh niên xung phong, tháng 12/1970 nhập ngũ vào Đại đội 4 Tiểu  đoàn 3, Trung đoàn 5, Sư đoàn 350 đóng quân ở huyện Thủy Nguyên (Hải  Pḥng). Sau đó ông tham gia đường dây 559 (vận chuyển lương thực, vũ khí  vào miền Nam theo đường Hồ Chí Minh). Có thể từ năm 1972, ông chuyển  sang một đơn vị có phiên hiệu 360 với nhiệm vụ lái tàu chở vũ khí từ  phía Campuchia vào Nam theo đường sông Mê Kông. 
  
 

Giọt nước mắt sau 40 năm trở lại quê hương
 Ông Được kể: “Chúng tôi  bị oánh liên tục, nhiều lần bị thương nhưng sau đó ai sống sót lại nhận  nhiệm vụ tiếp. Nhưng đến mùa khô năm 1973, khi tôi điều khiển tàu số  047 chạy qua tỉnh Công Pông Chàm của Campuchia thì bị địch dội bom.  Tàu ch́m. 3 người chúng tôi bị hất xuống sông sâu”. Sau đó ông trôi dạt  vào bờ, được một Việt kiều tên Hiệu cứu sống. Nhưng với hàng chục vết  thương từ đầu tới chân, ông bắt đầu một cuộc sống khác, cuộc sống lang  thang trong vô thức.
  
 Lang thang kiếm sống trong những giấc mơ quá khứ nhá nhem
  
 Sau giải phóng, ông Hiệu đă gửi ông Được về lại miền Nam Việt Nam để hy vọng có người giúp ông t́m lại gia đ́nh. 
 Nhưng oái ăm thay ông  chẳng nhớ ǵ ngoài những ngày tháng sống ở nhà ông Hiệu bên nước bạn.  Ông thành kẻ lang thang nhưng chưa bao giờ ông đi xin hay đi cướp. Với  cơ thể không c̣n lành lặn, bước đi cao thấp giữa đô thành, ông trở thành  kẻ cô đơn lang thang khắp ngơ chợ ở tuổi 26. Bất cứ ai có việc ông đều  xin làm, làm không lấy tiền, chỉ để xin một bữa cơm no. Ông cứ đi  trong vô định rồi dạt măi xuống tận nông trường cao su Samat thuộc tỉnh  Tây Ninh. 
  
 Tại đây ông được  người dân chợ Tân Biên cho làm công việc quét rác hàng ngày. Đây là  quăng thời gian ông thường xuyên được ăn. Nhưng sau đó vết thương ở chân  tái phát, không thể lê đi nổi nữa, ông Được lại phải trở về với những  ngày đói khổ, lang thang, lay lắt.
  
 

Ông Được bên 2 người cháu trai
 Trong một đêm mưa rét,  bắt gặp ông co ro nơi vệ đường, ông Đào, một công nhân của nông trường  cao su Samat nhân từ đă đón về nhà thuốc thang và nhận làm em kết nghĩa.  Đó là năm 2000, ông Được bước sang tuổi 51.
  
 Từ đó cứ đến mùa lấy mủ  cao su, ông Được theo Tài - con trai ông Đào - sang Campuchia làm công  nhân. Công việc của một công nhân thời vụ trên đất người đă vắt cạn sức  lực người lính già. Rồi trong những ngày dài đau ốm triền miên, ông nói  lặp đi lặp lại trong cơn mê: “Tôi là em ông Cầu ở Tiên Lăng, Hải Pḥng”.  Từ câu nói ấy, anh Tài đă thông qua nhiều người quen liên lạc được với  anh Phan Xuân Biên ở Bộ Tư lệnh Hải quân, quê Tiên Lăng, nhờ t́m kiếm  người thân của ông chú kết nghĩa bất hạnh.
  
 Ngày 9/3/2013, anh  Phan Hữu Lợi đang dự một đám cưới thì nghe ông Cứ (bố anh Biên)  gọi: “Lợi ơi về giết lợn ăn mừng đi, ông chú liệt sĩ của mày vẫn c̣n  sống!”.
  
 
 Ông Được bên phần mộ của chính mình
  
 Anh Lợi kể: “Ngay lập  tức tôi t́m cách liên lạc với Biên và Tài. Đêm ấy, từ rừng cao su ngút  gió bên đất bạn, anh Lợi chỉ nhận được câu nói thờ ơ: “Tôi tên Được,  em ông Cầu ở Tiên Lăng. Thôi nhé, tôi đi ngủ, mai nói tiếp”. Cả đêm đấy  anh Lợi cùng em trai là Phan Hữu Lộc thức trắng. Những nén nhang hai anh  em thay nhau đốt liên tục lên bàn thờ, nơi có di ảnh của người chú duy  nhất đă nhận báo tử từ 40 năm trước. Đúng 6 giờ sáng hôm sau, anh Lợi  lại gọi cho Tài để gặp ông Được. Anh b́nh tĩnh gợi lại những h́nh ảnh  xưa trong kư ức gia đ́nh. Đến lúc anh gần như đă tuyệt vọng th́ bỗng đầu  dây bên kia ông Được thốt lên: “Tôi có 2 đứa cháu gái tên là Sưu và  Ước. Chúng có mái tóc dài xinh lắm”. Vỡ ̣a trong sung sướng bởi hai  người ông vừa nhắc đó chính 2 chị ruột của anh, một thời nổi tiếng khắp  vùng v́ có mái tóc dài như suối. 
  
 Anh Lợi vội chạy đi vay  tạm ít tiền nhảy xe vào Nam. Ở bên kia đất nước Campuchia, anh Tài cũng  thu xếp gửi ông Được về lại bến xe An Sương, thành phố Hồ Chí Minh. Một  cháu ruột từ Bắc vào Nam đi t́m lại ông chú với biết bao kính trọng,  thương nhớ. Một già từ bên kia sông Mê Kông trở lại mà chẳng hiểu đi  đâu, gặp ai và để làm ǵ…
  
 (Còn tiếp)