Lịch sử đã ghi nhận rằng, phần lớn những nhân vật đấu tranh giải phóng, từ cổ chí kim trên thế giới, đều có xuất xứ từ những lớp người bị chế độ cầm quyền bạc đãi, ngược đãi, những công thần bị thất sủng, những người thân và thuộc hạ thân tín của một vị vua chúa hoặc quan chức, chúng dân trung tín của nhà nước trước đó đã từng bị triều đại hay chế độ hiện thời lật đổ.
Cũng có nét giống như vậy, số người đứng lên cất tiếng nói đấu tranh chống Độc tài Cộng Sản hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là những người dân oan khiếu kiện lâu ngày, những cán bộ nhà nước bị trù dập, bị đối xử bất công, các trí thức có tài năng không được trọng dụng, và một bộ phận là những người dân trung thành với chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ (ở hải ngoại thì lực lượng này gần như chiếm 100%). Nói chung đội ngũ đấu tranh hiện nay đang bao gồm phần lớn là những người có ân oán hoặc bất mãn với chế độ, chỉ có một số rất ít là những người muốn tự khẳng định tư tưởng chính trị của mình.

Hình ảnh một số nhà đấu tranh quốc nội
Có những người lúc đầu tham gia đấu tranh đơn giản chỉ vì những ân oán hay bức xúc cá nhân. Họ muốn làm một cái gì đó để đáp trả chế độ, hòng đòi lại sự công bằng. Và trong quá trình đấu tranh, được học hỏi, tìm hiểu, người ta mới hiểu rõ căn nguyên của sự bất công xuất phát từ sự thối nát của hệ thống chính trị cầm quyền. Người ta nhận thức được rằng yêu nước, không chỉ là sẵn sàng cầm súng giữ nước, mà còn cần phải biết bảo vệ quyền lợi của quốc gia, song song với quyền lợi của mỗi người, bằng quyền lực chính trị của toàn dân.
Yêu nước nghĩa là phải biết đấu tranh loại bỏ cái xấu, cái bất công của chế độ. Vì quyền lợi của mỗi người dân luôn gắn liền với quyền lợi của tổ quốc, cho nên yêu nước chính là biết tìm cách xóa bỏ bất công, bảo vệ quyền lợi của mình và cộng đồng, mới mong đưa đất nước phát triển hưng thịnh. Người ta hay nói “nước nhà” hay “nợ nước thù nhà” để khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa nhân dân và đất nước. Ai đó hay nhắc đến chuyện đấu tranh vì lý tưởng cao quý này kia, chẳng qua chỉ là sách vở. Người ta đấu tranh vì quyền lợi của bản thân và đất nước. Nếu ta cứ bắt các nhà đấu tranh phải vì những lý tưởng cao quý nhưng xa vời mãi tận đâu đâu, thì ta lại đang vô tình đi theo lối mòn sáo rỗng của Chủ nghĩa Cộng Sản…
Những người dám cất lên tiếng nói đấu tranh ôn hòa trong nước đều có nhận định việc làm của mình là đúng lương tâm, trong phạm vi quyền con người và không vi phạm pháp luật Việt Nam. Bởi vậy họ khá tự tin trong việc công khai quan điểm chính trị Đa nguyên Đa đảng và chống Độc Tài. Nhưng ngược với những kiến thức về pháp luật mà những người đấu tranh có được, họ lại bị lực lương công an và hệ thống pháp luật của chế độ coi là những thành phần phản động, chống đối nhà nước, họ bị khoác lên đầu các tội trạng xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XI Bộ luật hình sự) mà họ không hề có như “tội tuyên truyền chống nhà nước” hay “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.
Khi bị công an khủng bố, bắt bớ, giam giữ, những người đấu tranh đa phần đã bị hụt hẫng, mất thăng bằng. Họ không thể ngờ được một chế độ xưng là có dân chủ pháp trị mà lại đi hành xử với nhân dân một cách vô cùng phi pháp. Phần lớn họ rơi vào trạng thái phẫn uất và hết sức hoang mang. Đồng thời, một bộ phận không nhỏ trong số này vì quá tự tin vào chân lý đúng của mình, họ đã không hề chuẩn bị trước tinh thần để đối phó với những đòn cân não, chia rẽ tình cảm, và nhất là những thủ đoạn bức cung của bộ máy công an trị.
Đơn độc trong chốn lao tù, đối mặt với những nguy hiểm trước mắt, những người đấu tranh chưa có kinh nghiệm thường chọn giải pháp nhận tội với công an điều tra, để tránh những áp lực nhất thời. Dù sao, nếu một người đã bị chế độ cho vào tầm ngắm, thì bằng cách này hay cách khác, trước sau gì họ sẽ bị công an gán cho những tội danh không có thật, bằng những luận cứ mơ hồ và thậm chí là chứng cứ giả. Vì vậy giải pháp nhận tội cho xong, chịu tạm lùi để chọn đối sách tiếp theo cho bản thân là điều có thể chấp nhận được. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy trình tố tụng của pháp luật: “Nhận tội không có nghĩa là có tội”, và chỉ có “thành khẩn khai báo mới là yếu tố giảm nhẹ hình phat” mà thôi. Nhận tội và thành khẩn khai báo là hai việc hoàn toàn khác nhau. Tương tự như vậy, nhận tội không có nghĩa là đầu hàng hay bỏ cuộc.
Chúng ta thử nhìn lại những gì mà hơn 30 năm qua những người đấu tranh đã làm, xem họ có phải là những người hèn nhát hay không? Sau năm 1975 đã có hàng chục tổ chức, đảng phái người Việt cầm súng đứng lên chống lại chế độ, với số lượng hàng ngàn người tham gia. Có thể kể đến như Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam của ông Hoàng Cơ Minh, Đảng Dân Quân Phục Quốc do nhiều người khởi xướng, Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam của các ông Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh, Chính Phủ Cách Mạng Việt Nam Tự Do của ông Nguyễn Hữu Chánh vv… Hoạt động đấu tranh võ trang luôn đối diện giữa sự sống và cái chết, nhưng những người đấu tranh vẫn dám làm, vậy thì họ không phải là những thành phần hèn nhát. Có điều, ngày nay quốc tế không ủng hộ cách đấu tranh dùng bạo lực nữa, nên người đấu tranh chấp nhận hình thức bất bạo động mà thôi…
Có lẽ những người đấu tranh chẳng cần ai biện minh cho họ về hành động nhận tội của họ với công an. Trong một xã hội mà đại đa số người dân dù bị “giẫm cổ đè đầu vẫn chẳng dám ho he một tiếng” (Phan Châu Trinh), thì chỉ riêng hành động dám tham gia vào các đảng phái, tổ chức, hội đoàn, hay độc lập cất tiếng nói đấu tranh chống bạo quyền, đã là một hành động vô cùng dũng cảm. Nhưng thật khó khăn cho họ, chính những người ủng hộ đấu tranh, đôi khi lại là vật cản đường đáng kể đối với các nhà đấu tranh trong nước.
Đầu năm 2010 Linh mục Nguyễn Văn Lý được tạm tha tù để chữa bệnh. Chỉ sau ít ngày và qua vài cuộc phỏng vấn với báo đài, đề tài về Linh mục Nguyễn Văn Lý lại được dịp hâm nóng trong cộng đồng những người ủng hộ dân chủ, nhưng là ở thế bất lợi cho ông. Đối với luật sư Lê Thị Công Nhân thì cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Ban đầu người ta ca ngợi linh mục Lý và luật sư Nhân bao nhiêu thì sau một số cuộc phỏng vấn của hai nhà đấu tranh nổi bật này, họ lại bị người ta hạ bệ không thương tiếc. Đến nỗi người viết bài này buộc phải viết bài “Hãy để cho họ làm những người bình thường”, (xin đọc ở phần phụ lục) trong đó có đoạn: “Đối với linh mục Nguyễn Văn Lý và luật sư Lê Thị Công Nhân, họ cũng là con người bằng xương bằng thịt như bất cứ ai. Họ có thể nên thánh (theo nghĩa thánh thiện). Nhưng họ chẳng bao giờ thành thánh (theo nghĩa thánh thần). Lịch sử đã chứng minh rằng: Đừng nên biến con người thành thần thánh. Làm như vậy là ta đã tước đi quyền làm người bình thường của họ. Hồ Chí Minh chính là một bằng chứng sống về một người chịu nhiều thiệt thòi và đau khổ trong đời sống hạnh phúc cá nhân. Chính vì chuyện thần thánh hóa lãnh tụ mà chế độ Cộng Sản cố tình tô vẽ nên, đã cướp đi cuộc sống bình thường của ông ta”.
Người ta đôi khi quá dễ dãi, nhưng có lúc lại quá khắt khe. Một nhà đấu tranh bị bắt bớ, giam cầm tù tội đã tổn hại sức khỏe, ức chế tinh thần, đáng lẽ cần được những người ủng hộ cảm thông chia xẻ, ngược lại họ lại bị săm soi từng ly từng tí thật rắc rối và phiền hà. Một nhà đấu tranh có tên tuổi là một người của công chúng, nhưng là một người của công chúng đặc biệt. Họ không giống như những tài tử Xi Nê hay cầu thủ bóng đá nổi tiếng. Họ đấu tranh là chấp nhận hy sinh, không phải để hưởng thụ. Vậy có chuyện một nhà đấu tranh nào đó nhận tội với công an, với tòa án, thậm chí họ có quyền từ bỏ con đường đấu tranh cũng là chuyện bình thường.
Bắt một con người bình thường như các nhà đấu tranh trong nước phải trở nên thánh, toàn năng như những vị thánh, là điều không thể. Có những nhà đấu tranh có thừa sự dũng cảm, nhưng lại thiếu bộ óc chiến lược, thiếu khả năng lãnh đạo, đôi khi mất lòng người này người kia chỉ vì tính tình thẳng thắn bộc trực. Người khác thì rất thông minh, học cao hiểu rộng, nhưng bản tính lại quá thận trọng đến mức trở nên rụt rè, và thiếu quyết đoán. Mỗi con người đều có mặt mạnh mặt yếu, các nhà đấu tranh cũng vậy thôi. Vấn đề là công luận cần có cái nhìn khách quan và thực tế dành cho họ. Không thể chỉ lấy một hiện tượng như một phát biểu nhầm lẫn, hay thiếu kín kẽ của một người, hoặc việc nhận tội của họ, để đánh giá bản chất của con người đó.
Như vậy dù là chúng ta yêu hay ghét một cách thái quá đối với những người đấu tranh trong nước đều không nên. Hãy khen vừa đủ sự động viên khích lệ. Hãy chê vừa đủ trong tinh thần góp ý chân tình cầu tiến. Như thế họ mới có thêm sự tự tin để bước tiếp trên con đường dấn thân phục vụ. Những nhà đấu tranh ôn hòa trong nước cần lắm, và mong mỏi lắm, những sự động viên tinh thần đúng mức, đúng lúc. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất cần thiết của đồng bào.
Lê Nguyên Hồng
Cong Dan blog