|
R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Người dân Cuba biết Fidel Castro đã nhường vị trí Chủ tịch nước cho Raul. Ngày 22/3, họ nhận ra ông cũng đã giao nhiệm vụ lãnh đạo Đảng Cộng sản cho Raul. Như vậy, Raul Castro có thể áp đặt chủ nghĩa thực dụng kinh tế vào Đại hội VI của Đảng Cộng sản Cuba (PCC) diễn ra trong tháng 4 này.
“Mối đe doạ chính đặt ra với chúng ta không phải những họng súng Mỹ, mà là những hạt đậu – thứ mà người Cuba không ăn”. Đó là phát biểu năm 1994 và là dịp hiếm hoi Bộ trưởng Quốc phòng Raul Castro bộc lộ rõ bất đồng với người anh cả. Fidel phản đối việc tự do hoá thị trường nông nghiệp để có thể khuyến khích sản xuất lương thực. Trong khi đó, sau khi Liên Xô sụp đổ, Cuba phải sống chật vật trong “thời kỳ đặc biệt”: GDP sút giảm 35%, chịu bao vây cấm vận tăng cường của Mỹ, người dân sống trong cảnh thiếu lương thực trầm trọng. Tướng Raul Castro phải nói thẳng vấn đề: “Nếu chúng ta không chịu thay đổi, tôi sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc bước ra khỏi xe tăng”. Cuối năm, các thị trường nông nghiệp được phép hoạt động tự do.
16 năm sau, Raul Castro thế chỗ người anh cả trở thành Chủ tịch nước và theo ông, “hòn đảo vẫn chưa thoát khỏi ‘thời kỳ đặc biệt’”. Năm 2008, 3 cơn bão lớn liên tiếp tàn phá cơ sở hạ tầng Cuba: hậu quả thiệt hại 10 tỉ USD, tức 20% GDP. Cơn bão thứ 4, chính là khủng hoảng tài chính toàn cầu, cũng tàn phá các khu vực năng động nhất của nền kinh tế (đặc biệt là du lịch, sản xuất kền). Cuba buộc phải đóng băng tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài và nới lỏng nhập khẩu, khiến hoạt động kinh tế càng chậm chạp. Một lần nữa, “những hạt đậu” lại là mối đe doạ: năm 2009, sản lượng nông ngiệp giảm 7,3%. Trong thời gian 2004-2010, tỉ trọng lương thực có nguồn gốc nước ngoài nhảy từ 50% lên 80%.
Ngày 18/12/2010. Raul Castro không còn nhắc đến người anh mà hướng tới người dân. Đề cập trước Quốc hội mục tiêu của Đại hội VI diễn ra sau Đại hội V 14 năm, ông khẳng định: “Hoặc chúng ta phải thay đổi tình thế, hoặc chúng ta không còn thời gian thoát khỏi vực thẳm ngay phía trước”. Nhưng thay đổi đến đâu?
Trần lốm đốm đen vì ngấm nước, tường ngang dọc thạch sùng đậu, đồ đạc bên trong tuềnh toàng: Phòng khách mà Chủ tịch Quốc hội Ricardo Alarcon không toát lên được vẻ quyền lực. Vậy mà cách đây 5 năm, có tin đồn Alarcon là một trong hai ứng cử viên chính kế nhiệm Fidel Castro. Thế nhưng dường như “số phận” đã quyết theo cách khác. Và đây có thể là lý do cho câu nói tự phát của Alarcon: “Đúng thế, hẳn sẽ có mở cửa thị trường, mở cửa cho chủ nghĩa tư bản”.
Có một số ý kiến cho rằng “xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước” không phải chuyện đơn giản, nhất là khi thị trường trong nước hạn hẹp. Có phải đó là sự đoạn tuyệt ở đất nước cách mạng? Chủ tịch Quốc hội Cuba không tán thành ý kiến trên: “Chúng tôi muốn làm tất cả để bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Không có ‘chủ nghĩa xã hội hoàn hảo’ mà mọi người mơ ước. Chủ nghĩa xã hội là có thể ở Cuba, trong những điều kiện của chúng tôi. Và như các bạn đã biết, trong xã hội Cuba đã tồn tại các cơ chế thị trường”.
Đồng USD trở nên quen thuộc như đồng nội tệ
Trung tâm thành phố La Habana là khu Vedado. Tay mang một chiếc túi nhỏ, Miriam rời nhà cuốc bộ trên con đường ven biển. Bên kia biển, với khoảng cách chừng 150km, là Key West và Florida, đầu bên kia của thế giới. Vượt qua đường tới gần một ngã tư, Miriam không trông thấy những đứa trẻ ăn mặc rách rưới, mặt mũi đen nhẻm, đang chào bán bật lửa, kẹo gói hoặc vé số cho các lái xe gặp trên đường. Ở các phố, không có bất cứ biển quảng cáo nào mời du khách khám phá cái cảm giác mát vô tận của thứ đồ uống cso ga hay cảm giác mềm mại mãnh liệt của một loại sữa tắm “cách mạng”. Là một ngoại lệ của khu vực, Cuba chưa từng biết đến chuyện trẻ con đi ăn mày. Là ngoại lệ của thế giới, hòn đảo này không cho phép trương biển quảng cáo sản phẩm.
Nhưng Miriam không hề quan tâm đến điều đó. Tương tự 70% dân số Cuba, bà sinh sau năm 1959, ngày “thắng lợi của cách mạng”. Môi trường này là của bà, là môi trường duy nhất. Ngược lại, bà không quên đòi hỏi “những chính phục xã hội” mà ở đây người dân được hưởng. Tất cả những gì Nhà nước sắp đặt theo thẩm quyền, miễn phí, và đối với bà là một quyền lợi: giáo dục, y tế, thể thao, văn hoá, việc làm và thực phẩm, đều thông qua libreta (số lương thực, loại sổ ghi tiêu chuẩn thực phẩm mỗi người được hưởng, sẽ kỷ niệm 50 năm ngày ra đời vào năm tới).
Đến bodega (cửa hàng), Miriam chìa ra quyển sổ quý báu gồm các bảng được chia làm 9 cột thẳng đứng. Bên trái là danh sách các sản phẩm liberta cho phép được mua: 1,20 livrơ (mỗi livrơ bằng nửa kg) đậu hạt giá 0,8 pêxô; nửa lít dầu ăn 0,20; 1 kg sữa váng 2; 3 livrơ đường 0,15; 400 gam bột mì 0,90; 115 gam cà phê 5 pêxô… Bên phải, mỗi cột là tiêu chuẩn một tuần trong tổng số 8 tuần của mỗi trang giấy.
“Bà muốn gì? – Gạo.” Miriam giơ chiếc túi về phía người bán hàng. Cũng giống mọi người dân Cuba khác, bà có quyền mua 5 livrơ gạo với giá 5 pêxô theo tiêu chuẩn và mua thêm 2 livrơ giá 0,90 pêxô.
Miriam làm việc trong một cơ quan bộ với lương tháng ở mức trung bình – 450 pêxô. “Khoảng hai chục CUC”. CUC là gì? Là đơn vị tiền tệ có thể quy đổi được, tương ứng 24 pêxô truyền thống. Loại tiền tệ này xuất hiện vào năm 2004 để thay thế đồng USD mà sự nhượng bộ “chủ nghĩa hiện thực kinh tế” đã dẫn đến việc các nhà lãnh đạo Cuba cho phép sử dụng từ năm 1993.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Chính quyền Cuba tưởng có thể cải cách khu vực kinh tế đối ngoại mà không cần tiến hành những thay đổi cơ bản ở trong nước. Nhưng “thị trường” đã bị xâm nhập qua mọi kẽ hở. Lĩnh vực riêng biệt mở cửa cho đầu tư và du lịch để cung cấp ngoại tệ cần thiết cho việc duy trì cấu trúc xã hội của đất nước đã khiến thị trường tràn ngập đồng USD. Tiền phong bao, việc trả một phần lương bằng ngoại tệ, rồi tiền từ nước ngoài gửi về, và nhất là chợ đen: chân dung George Washington nhanh chóng trở nên quen thuộc như những hình ảnh in trên đồng tiền nội địa.
Chính quyền đã không đấu tranh. Họ mở các cửa hiệu mua bán bằng ngoại tệ – các shopping – để hướng các dòng chảy USD vào két sắt của Nhà nước. Một thị trường kép được thiết lập làm tổn hại đến chủ quyền tiền tệ của đất nước và đe doạ nguyên tắc bình quân mong manh của cách mạng: Chỉ có 2/3 người dân Cuba có được sự tiếp cận hợp pháp đồng USD (và đồng CUC). Chênh lệch giữa những người ăn lương, từ 1 đến 4 năm 1987, đã tăng lên mức 1 đến 25 sau đó 10 năm.
Và thế là tất cả mọi người dân đều có thể đổi đồng pêxô thành đồng CUC: Các ưu đãi bị xoá bỏ. Chỉ còn những ưu đãi của thực tế. “Nhà nước tiếp tục trả tôi bằng đồng pêxô. Ông đã nhìn bảng giá trong shopping chưa?” – Miriam vừa nói vừa nhìn cân hàng. Lon Coca-Cola (nhập từ Mêhicô): 1 CUC (bằng 24 pêxô); bánh xà phòng (chất lượng xoàng đối với một người châu Âu): 1,5 CUC (36 pêxô); máy nghe hi-fi: khoảng 400 CUC (9.600 pêxô); máy tính cá nhân: khoảng 500 CUC (12.000 pêxô).
Túi xách của Miriam giờ đã đầy, nhưng không quá nặng. Libreta liệu có cho bà đủ sống? “Có, trong khoảng 10 đến 15 ngày. Đấy là chưa tính phải chi cho những thứ khác.” Rau cỏ, đi lại, điện nước, và rồi cả quần áo. Ngay cả khi không theo mốt thì việc ăn mặc cũng phải cân nhắc. Một chiếc quần dài ư? Khoảng 130 pêxô. Một chiếc váy ngắn? Mất 90 pêxô. Một chiếc quần cộc (không nhất thiết phải thời trang)? 10 pêxô.
Landi, thợ sửa chữa ôtô ở Matanzas, kiếm 350 pêxô mỗi tháng; Jose, lái xe tải ở Santa Clara, khoảng 250; Marilyn, nhà báo ở Cienfuegos, 380 pêxô. Các viên chức cấp cao thì thế nào? Theo Fernando Ravssberg, một phóng viên BBC sống ở La Habana, là “khoảng 800 pêxô”. Nếu lương trung bình tăng từ 188 lên 427 pêxô trong thời gian từ 1989 đến 2009, thì giá trị thực của nó – có nghĩa là mức đã điều chỉnh có tính đến lạm phát – lại giảm từ 188 xuống … 48 pêxô.
Châu chấu được dành cho khách du lịch
Từ bodega đến tiệm vải, kể cả chưa đi qua shopping, trong đầu du khách sẽ nhanh chóng có những phép tính. Và tất yếu sẽ đặt câu hỏi: Và tất yếu sẽ đặt câu hỏi: Không hiểu người Cuba làm gì để sống? Cũng tất yếu, người ta sẽ trả lời: “Phải giải quyết thôi”. – Câu hỏi mà người dân Cuba thường sử dụng trong hoàn cảnh một vấn đề cần giải quyết được mọi người biết đến.
Một khách du lịch gọi chai bia ngoài sân một khách sạn lớn: 3 CUC. Không phải lúc nào người phục vụ cũng lấy bia từ tủ của khách sạn, mà có khi từ ngăn tủ của anh ta được che đậy ngay bên cạnh. Mua 1 bán 3, những chai bia này mang lại cho anh ta một món tiền nhiều gấp mấy lần lương cơ bản để có thẻ lo lót cấp trên.
Một nhân viên khách sạn bị đau răng. Bác sĩ nha khoa nói anh ta muốn “giải quyết” thì phải đợi 2 tuần: “Anh có thể đến vào tối nay, với 5 CUC.” Thường thôi! Đến lượt anh nhân viên này gợi trí tưởng tượng: “Chữa cho tôi ngay đi, rồi tối nay tôi sẽ cho anh và cả nhà vào dùng tiệc đứng ở khách sạn tôi đang làm việc”.
Việc mua bán căn hộ đều bị cấm. Tuy nhiên, một số gia đình cứ rộng dần ra trong khi số khác co hẹp lại. Những người làm môi giới sẽ giới thiệu nhà đất để hưởng hoa hồng trung bình căn cứ vào giao dịch được thực hiện trên cơ sở “giá thị trường”. Môi giới một căn nhà một phòng ở khu Vedano lịch sự? “Khoảng 15.000 CUC.” Một ngôi nhà 5 phòng nằm cách xa trung tâm thành phố một chút? “Khoảng 80.000 CUC.”
Ở đất nước của “chủ nghĩa xã hội hay là chết”, châu chấu được dành cho du lịch hoặc xuất khẩu. Các ngư dân có thể mua bán sản phẩm qua chợ đen. Trong khi đó, sinh viên đại học có thể thuê Internet vào buổi tối, sau giờ học; giáo viên dạy thêm tại gia; y tá nhận chăm sóc sức khoẻ tận nhà; lái xe tải hoặc xe buýt nhận chở khí đốt. Đối với nhiều người, làm việc cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tạo khả năng… cải thiện chợ đen: bút, ghế tựa, dụng cụ, vật liệu xây dựng.
Nhà ở, tiền nong, lương thực đều chịu tác động trầm trọng của lệnh cấm vận…. Từ nhiều năm nay, người Cuba phải học cách xoay xở với “các cơ chế thị trường” chi phối cuộc sống hàng ngày của họ. Tất cả âm thầm chịu đựng cho đến khi Raul Castro lên nắm quyền lãnh đạo đất nước. Ngày 26/7/2011, trong bài phát biểu đầu tiên với tư cách (quyền) Chủ tịch, ông nhận định: “Lương không còn đủ để trang trải cho các nhu cầu cơ bản (…), và điều này đang tạo điều kiện cho các hiện tượng vô kỷ luật trong xã hội.”
“Đó là những giá trị làm nên chất lượng sống thực sự, còn hơn cả cơm ăn áo mặc hay nhà cửa”, Fidel Castro từng khẳng định trong bài phát biểu ngày 26/5/2003. Để đương đầu với những khó khăn của đất nước – đặc biệt là nạn tham nhũng -, vài năm trước, Fidel đã phát động “cuộc chiến tư tưởng”. Mục tiêu: Làm thấm đẫm niềm tin cách mạng của người dân Cuba, đặc biệt là giới trẻ, bằng cách tạo cho họ một việc làm. Chẳng hạn, các sinh viên được giao nhiệm vụ theo dõi các trạm phục vụ ôtô. Cuộc chiến tư tưởng phát huy tác dụng một thời gian rồi trệch hướng, khiến nhận thức lại có vấn đề. Báo chí (chính thức) ở Cuba mới đây tiết lộ Bộ Xây dựng đã sử dụng 8.000 công nhân cùng 12.000 bảo vệ chỉ để làm nhiệm vụ chống trộm.
Sau “cuộc tranh luận quốc gia đại sự” phát động năm 2007, Raul Castro nhận định người Cuba đang chờ đợi các cuộc cải cách mang một bản chất khác. Tại sao ông kết luận như vậy? Không ai thực sự biết, bởi chưa có bất cứ báo cáo, tổng kết hay trích đoạn nào liên quan đến “cuộc tranh luận” được công bố. Landi kết luận: “Ở đây, quyết định là Nhà nước chứ không phải nhân dân”.
Từ nay, vấn đề không còn là sửa chữa những rối loạn về chức năng xã hội không tương thích với sự cứng nhắc của hệ tư tưởng, mà là làm hình thành một chủ nghĩa xã hội đã trút bỏ “những tư tưởng sai lầm và phi hiện thực của chúng ta”. Để làm được như vậy, phải “tranh thủ những kinh nghiệm tích cực của chủ nghĩa tư bản”. Những toan tính, xoay xở đó liệu có làm chuyển biến một bộ phận người Cuba cũng như các doanh nghiệp nhỏ? Chủ tịch nước đương nhiệm đã chọn cách phục quyền cho sáng kiến cá nhân thông qua công việc độc lập.
Trong cuộc sống hàng ngày, việc công bố danh sách 178 nghề được mở cửa cho tư nhân kể từ tháng 9/2010 đã không thực sự làm thay đổi mọi chuyện. Thợ nề, mộc, điện, sửa chữa đồng hồ, sửa chữa bật lửa: về chính thức, những nghề này không tồn tại. Nhưng từ lâu, ai cũng nhờ đến những người thợ này. Tại sao? “Không gì khó hơn việc sửa ống nước rò mà phải chạy đến nhờ xí nghiệp Nhà nước (phụ trách sửa chữa nhà cửa). Mọi người đều có thói quen chạy sang nhờ một người hàng xóm thạo việc”, Ricardo giải thích.
Từ nay, “người hàng xóm” sẽ phải trả thuế: dưới 20 CUC một chút để đăng ký giấy phép, một khoản khác cho doanh thu (25%), một khoản đóng góp cho an sinh xã hội (25% thu nhập) và một khoản thuế đối với những thu nhập từ 5.000 pêxô trở lên mỗi năm (sẽ lên đến 50% đối với những thu nhập từ 50.000 pêxô trở lên). “Thậm chí một lao động độc lập có thể thuê người Cuba khác và trả công tuỳ theo khả năng làm việc của họ”, Ricardo cho biết. Đây là điều trái hiến pháp do là một hình thức bóc lột. Nhưng Sở thuế vụ lại rất thích: Khi đã trở thành “ông chủ”, người hàng xóm sẽ phải nộp một mức thuế bằng 25% lương thu được.
“Nhà nước phải quyết định giá cắt tóc”
Cuộc sống hàng ngày chỉ thay đổi chút ít, trong khi các diễn văn thì ngược lại… Tháng 3/1968, Fidel Castro tố cáo “bộ phận sống ngoài rìa xã hội này đang sống ăn bám những người khác, (…) những kẻ lười biếng có sức khoẻ này đang đứng núp sau một quầy hàng hay bày đặt một công việc nhỏ mọn cốt để kiếm được 50 pêxô mỗi ngày”. Vậy là trong chưa đầy 2 ngày, không chỉ các hoạt động thương mại tư nhân như quán rượu, cửa hàng thực phẩm, xưởng sửa chữa ôtô mà cả các nghê như thợ mộc, thợ nề và sửa chữa ống nước đã gần như biến mất. Tháng 11/2010, diễn văn chính thức đã thay đổi. Những người không sống phụ thuộc? Báo Granma cho đó là “những doanh nghiệp đầy thiện chí, thấm nhuần đạo đức”, mà thành công của họ “sẽ đóng góp một phần đáng kể cho thành công của mục tiêu hiện thực hoá mô hình kinh tế Cuba”.
Năm 1995, chính quyền đã dập tắt mọi ý định làm giàu, chẳng hạn bằng cách giới hạn các quán ăn đặc biệt ở mức tối đa 12 bàn. 15 năm sau, người ta không còn thực sự lo sợ việc “tích luỹ”. “Chúng ta hãy trung thực: Nếu đã trang trải mọi chi phí, mỗi tháng người lao động độc lập có thu nhập cao hơn mức lương trung bình hiện nay, thì liệu thực sự có điều gì khập khiễng không?”, nhật báo của PCC đặt câu hỏi. Nói cho cùng, “nguồn vốn là nguồn lực được gây dựng bằng lao động, bằng khả năng cải thiện từng ngày chất lượng dịch vụ để có được những nụ cười thu hút khách hàng”. Tháng 1/2011, một tạp chí Công giáo của hòn đảo vui mừng cho rằng từ nay, Cuba đang hướng tới tương lai mà không “sợ giàu có” nữa.
Nhưng các cải cách mà Raul Castro đang tiến hành không chỉ nhằm hợp pháp hoá những gì quá khứ cấm đoán. Theo Alfredo Guevara, một trong những nhà trí thức nổi tiếng nhất Cuba, chúng còn nhằm “phi nhà nước hoá” nền kinh tế bị trị, trong đó các quy định và chế độ kiểm soát đã không còn tính thuyết phục. Ví dụ: Một phần lớn cà chua thu hoạch năm 2009 đã bị thối tại chỗ. Phục tùng lệnh cấm đi xe không, các xe tải của Nhà nước đã không thể đến. Giao cà chua cho nhà máy gần nhất để nghiền? Không thể được: Hình thức này chưa từng được dự tính trong các quy chế của xí nghiệp.
“Có thật sự cần thiết Nhà nước quyết định giá cắt tóc không?”, Jorge Luis Vandes thuộc Hiệp hội các nhà kinh tế và kế toán Cuba đặt câu hỏi. “Trước tháng 4/2010, giá chính thức cho một lần cắt tóc là 80 xu. Nhưng quy định này không cản trở các thợ cắt tóc đòi từ 5 đến 20 pêxô cho cắt tóc nam và 100 pêxô cho cắt tóc nữ. Nhà nước cung cấp điện, nước, điện thoại mà tất cả mọi người đều có thể sử dụng nếu trả 1 pêxô ở phòng khác. Để phục vụ 4 thợ cắt tóc cần tới 2 bảo vệ, một phụ nữ dọn dẹp, một kế toán, một quản lý. Tất cả đều ăn lương Nhà nước”.
Nhưng từ nay, mọi chuyện đã thay đổi. “Các thợ cắt tóc làm độc lập và mỗi người phải nộp 990 pêxô mỗi tháng cho Nhà nước: 330 pêxô thuê địa điểm, 330 cho an sinh xã hội và 330 thuế sức lao động. Sau đó, họ sẽ trả tiền cho những gì họ muốn và cho việc thuê người làm nếu cần: Nói chung, số người làm đã giảm hơn.” Cũng y như thợ cắt tóc và các bảo vệ dư dôi, từ nay đến năm 2020, 40% dân số ở tuổi lao động phải chuyển từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân (hiện nay, có tới 90% dân số ở tuổi lao động làm việc cho Nhà nước). Jorge kết luận: “Giảm chi phí, tăng nguồn thu: đối với Nhà nước, như vậy tất cả đều được hưởng.(…) Tại sao chúng ta phải khác các nước khác? Cần chấm dứt các loại miễn phí mà chúng ta đang áp dụng tại đây”. Các loại miễn phí nào? Là “tất cả những gì Nhà nước phân phát miễn phí cho người dân Cuba, từ khi họ ra đời đến khi chết, để đảm bảo sự bình đẳng.”
Các miễn phí nêu trên đã bào mòn các động lực và cản trở sự phát triển kinh tế. Đến nay, chủ nghĩa xã hội Cuba hiếm khi nhắc đến bình đẳng mà không bác bỏ sự thiên lệch của “chủ nghĩa bình quân”. Giải pháp? Như Raul Castro đã phát biểu ngày 27/12/2008: Bãi bỏ các loại miễn phí, tạo giá trị thực cho đồng lương. Không có lựa chọn nào khác. Và ngày 27/9/2009, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ramiro Valdes đã truyền đạt đến người dân Cuba rằng “Tất cả đừng chờ đợi ở người mẹ Nhà nước”. Đã không còn cảnh Nhà nước trả tiền bánh cưới và phòng khách sạn cho các tuần trăng mật. Cũng không còn căng tin (miễn phí) của 4 Bộ ở La Habana: Người lao động được nhận tại chỗ 15 pêxô mỗi ngày để tự lo ăn uống (hiện tại, thế là đủ). Và có thể libreta cũng sẽ không còn nữa nếu biết rằng trong văn kiện trình Đại hội VI, có mục 165 đã đề nghị thay thế số lương thực bằng một hình thức “trợ giúp xã hội có mục đích” dành cho “những người có nhu cầu thực sự”, tương tự những gì đang được áp dụng tại một số nơi ở Mỹ Latinh.
Trong khi đó, công đoàn thống nhất chịu trách nhiệm thông báo thôi việc cho 500.000 lao động Nhà nước trong những tháng tới. Những người này sẽ được nhận một tháng lương, sau đó nhận phụ cấp bằng 60% một tháng lương (với những người có thâm niên 19 năm trở xuống), 3 tháng lương (nếu có 26 năm làm việc) và 5 tháng lương (nếu có 30 năm làm việc). Mục tiêu chắc chắn là khích lệ họ sớm tìm việc làm mới ở khu vực tư nhân.
Nhưng liệu một người có thâm niên làm việc cả chục năm trong một bộ có thể biến thành nông dân, thợ cạo hay thợ nề chỉ trong 2 tháng? Khác xa những bài diễn văn mẫu mực, nhà kinh tế Omar Everleny Perez – mà nhiều người coi ông là một trong những người cha tinh thần của cải các hiện thời – nhận xét: “Đúng vậy, sẽ có những người bị thua thiệt trong các cuộc cải cách. Cso những người trở thành thất nghiệp. Đúng là các bất bình đẳng sẽ gia tăng. Nhưng thực tế, những vấn đề nêu trên đều đã tồn tại. Những gì chúng ta biết hiện nay chỉ là một sự bình đẳng giả tạo. Điều cần xác định hiện nay là ai thực sự xứng đáng ở tầng trên”,
Ngày 9/2/2011, các nhân viên của một trạm y tế ở trung tâm thành phố được triệu họp để thảo luận về văn kiện trình Đại hội dày 32 trang với 292 đề xuất, trong đó có một số ý kiến quyết định tương lai của mọi người dân Cuba: Lương theo thực tế, hợp thức hoá “giá thị trường”, xem xét lại các chương trình xã hội. Tất cả nhất trí thông qua trong vài phút. Thực ra, những người tham gia cuộc họp chủ yếu dành thời gian để xem xét sự liên quan của họ với hệ thống y tế và giáo dục. Đồng ý thay đổi, nhưng không phải như vậy. Thư ký cuộc họp, đồng thời là người phụ trách bộ phận công đoàn, cắm cúi ghi biên bản, nhưng ghi cái gì hoặc như thế nào thì không ai thực sự chú ý.
Tuy nhiên, liệu có chuyện cuộc cải cách này sẽ kéo theo các cải cách khác, để cuối cùng chính quyền Cuba xác định việc, “thực tại hoá” các “chinh phục xã hội” của đất nước là không thể tránh khỏi? Ngày 10/1/2011, trên trang nhất báo Granma có in bức vẽ một thanh niên đứng tựa vào cột đèn hỏi một ông già qua đường: “Ông nội, cho xin một ít tiền lẻ?” “Tiền lẻ” theo tiếng Tây Ban Nha là “cambio” – cũng có nghĩa là “thay đổi”. Và “ông nội” trả lời: “Tất nhiên rồi, con trai! Đã đến lúc phải thay đổi và tạo cho cậu làm việc một cách lương thiện!”
Thứ Ba, ngày 19/04/2011
(Le Monde Diplomatique 4/2011)
Basam Blog
|