|
Truy tìm hạm đội Mỹ- những điệp vụ bất thành
01-17-2011
|
#1
|
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Dec 2008
Posts: 44,699
Thanks: 262
Thanked 591 Times in 456 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1 Post(s)
Rep Power: 61
|
Truy tìm hạm đội Mỹ- những điệp vụ bất thành
Trong hai năm 1944 và 1945, hải quân Nhật đã liên tiếp lên các kế hoạch tấn công các hạm đội của Mỹ. Phải thừa nhận rằng, Nhật đã đổ rất nhiều công sức và chuẩn bị khá bài bản cho các kế hoạch tấn công này. Song thật trớ trêu là hầu hết các kế hoạch này đều bị phá sản, khi thì do vị chỉ huy bất ngờ tử nạn, khi thì thời tiết không ủng hộ, khi thì các máy bay tham chiến gặp sự cố ở động cơ... Có trận tấn công tưởng chừng như chắc thắng nhưng rốt cục, hạm đội của Mỹ chỉ bị thiệt hại không đáng kể.
Kỳ 1: “Quá tam bốn bận”... hoãn
Tháng 2/1944, Bộ tham mưu của hải quân Nhật (NGS) bắt đầu xây dựng kế hoạch tấn công đêm vào vị trí neo đậu của Hạm đội 5 của Mỹ ở đảo Majuro thuộc quần đảo Marshall. Kế hoạch, mang mật danh Yu-Go Sakusen, liên quan đến việc phái lực lượng cơ động thứ nhất của hải quân Nhật Bản từ biển Inland Sea mang theo hơn 500 máy bay cất cánh từ tàu sân bay và khoảng 300 máy bay cất cánh từ mặt đất tấn công đảo Majuro.
Một chiếc Ginga trước khi lên đường thực hiện sứ mệnh cảm tử.
|
5 tàu ngầm sẽ đưa 10 xe lội nước hạng nhẹ được trang bị ngư lôi tấn công vào các tàu sân bay đang neo đậu ở đó. 2 tàu ngầm khác sẽ làm nhiệm vụ đưa lực lượng đổ bộ đặc biệt của hải quân đến để tấn công vào các cơ sở quân sự của Mỹ ở trên bờ.
Tháng 3/1944, kế hoạch Yu-Go đã được Đô đốc Shimada Shigetaro (nguyên thuyền trưởng tàu tuần dương HIEI), Tổng tham mưu trưởng hải quân Nhật và Đô đốc Koga Mineichi (nguyên thuyền trưởng tàu tuần dương ISE) thông qua. Nhưng cuối tháng đó, khi đang thực hiện cuộc hành trình từ đảo Palau đến Davao, chiếc thủy phi cơ của Đô đốc Koga bị rơi do thời tiết xấu khiến ông này tử nạn. Và cũng chính vì lý do đó mà kế hoạch Yu-Go buộc phải hoãn lại.
Cùng vào thời điểm đó, trung tá Fuchida Mitsuo, người chỉ huy trận đánh Trân Châu Cảng, đã đề xuất một kế hoạch tấn công đảo Majuro với quy mô nhỏ hơn. Kế hoạch này được đặt tên là Chiến dịch Tan 1. Sau chuyến đi trinh sát đảo Truk trở về, Fuchida sẽ chỉ huy một cuộc tấn công vào các tàu sân bay của Mỹ ở đảo Majuro bằng cách sử dụng 27 máy bay phóng ngư lôi với sự hỗ trợ của trung tá Egusa Takashige, người chỉ huy 27 máy bay bổ nhào. Ngày 9/6/1944, trung tá Chihaya tiến hành chuyến bay trinh sát cuối cùng từ Truk đi Majuro và sau đó quay trở lại Nauru và Truk, tuy nhiên anh ta không nhìn thấy bóng dáng con tàu nào ở vị trí neo đậu ở đảo Majuro. Đó là lý do khiến Chiến dịch Tan 1 không được triển khai.
Ulithi được hải quân Mỹ sử dụng là căn cứ hải quân “bí mật” lớn trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ 2.
|
Tháng 9/1944, sau khi chiếm được Marianas và Peleliu, Ulithi trở thành nơi neo đậu của Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Vị trí neo đậu này có sức chứa trên 1.000 tàu, lớn hơn cả Majuro và Trân Châu Cảng. Bộ Tham mưu hải quân và Hạm đội liên hợp của Nhật đã vạch ra một kế hoạch tấn công vào Ulithi, mang tên Chiến dịch Tan 2. Mục đích chính của chiến dịch này là tấn công hạm đội của Mỹ khi đang neo đậu ở Ulithi. Phó Đô đốc Ugaki Matome (nguyên thuyền trưởng tàu tuần dương HYUGA) đã hăng hái thông qua Chiến dịch Tan 2. Theo đó, hải quân Nhật sẽ sử dụng 24 máy bay ném bom 2 động cơ, 5 thuỷ phi cơ và 4 máy bay xuất phát từ trên bờ làm nhiệm vụ trinh thám. Tuy nhiên, chiến dịch này chưa kịp khởi động thì đã bị hoãn lại không rõ lý do...
Vào đầu tháng 2/1945, đơn vị không quân của hải quân số 141 ở đảo Kisarazu trong Vịnh Tôkyô được lệnh đưa một biên đội gồm 7 máy bay C6N Saiun và 3 tàu ngầm đến Truk để chuẩn bị tấn công Ulithi. Trong đó, đáng chú ý là có tàu ngầm vận tải I-366 tải trọng 1.779 tấn, mang theo 60 tấn hàng hoá, bao gồm 33 tấn nhiên liệu xăng máy bay, do đại uý Tokioka chỉ huy. Tuy nhiên, chuyến đi của Tokioka đã gặp phải vô số các sự cố kể từ lúc bắt đầu khởi hành như: ăng ten sóng ngắn của con tàu gặp sự cố nghiêm trọng, I-366 phải vật lộn với những con sóng cao đến hơn 9 m, khiến nhiều hàng hoá trên tàu bị trôi xuống biển- điều này báo hiệu điềm chẳng lành cho chiến dịch này.
Máy bay trinh sát tầm xa Saiun của Nhật.
|
Sáng sớm ngày 13/2, chiếc máy bay C6N Saiun của Nhật tiến hành một chuyến bay trinh sát trên vùng trời Ulithi. Khi bay đến vị trí neo đậu của hạm đội, người phi công làm nhiệm vụ quan sát đã không thấy có bất cứ một tàu sân bay nào của Mỹ ở căn cứ này. Anh ta chụp một vài bức ảnh bằng máy ảnh cầm tay của mình. Sau này, các chuyên gia phân tích ảnh của hải quân Nhật Bản phát hiện thấy ở lối vào vị trí neo đậu ở căn cứ Ulithi đã được bảo vệ bằng các lưới chống tàu ngầm.
Sau khi hạ cánh xuống Truk, viên phi công đã báo cáo kết quả chuyến bay trực tiếp lên Phó Đô đốc Hara Chuichi (nguyên thuyền trưởng tàu tuần dương TATSUTA), chỉ huy trưởng hạm đội số 4. Hara gửi một báo cáo mật về Bộ Tham mưu, Hạm đội liên hợp ở Hiyoshi. Sau khi nhận được bức điện của Hara, Đô đốc Toyoda Soemu, Chỉ huy trưởng Hạm đội liên hợp, quyết định hoãn chiến dịch này.
còn tiếp...
Đình Vũ (Tổng hợp)
TTOL
|
|
|
01-17-2011
|
#2
|
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Dec 2008
Posts: 44,699
Thanks: 262
Thanked 591 Times in 456 Posts
Mentioned: 0 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1 Post(s)
Rep Power: 61
|
Truy tìm hạm đội Mỹ- những điệp vụ bất thành
Kỳ 2: Cuộc tấn công vào Ulithi
Ngày 5/3/1945, một máy bay C6N Saiun của Nhật chụp được bức ảnh 16 tàu sân bay neo đậu ở Ulithi. Ngày 9/3, một máy bay C6N do đại uý Miki Takuma điều khiển cùng với chuẩn uý Ito Kunio (ngồi ở vị trí hoa tiêu) và hạ sĩ Hataya Shigeru (làm nhiệm vụ liên lạc) đã chụp được bức ảnh về 6 tàu sân bay và 9 tàu hộ tống thuộc Lực lượng đặc nhiệm 58 của Mỹ ở Ulithi. Ito cũng phát hiện thấy một nhóm 4 tàu sân bay đang tiến vào căn cứ từ hướng đông bắc.
Tàu sân bay USS RANDOLPH đang được sửa chữa sau vụ tấn công của Nhật
|
Hạ sĩ Hataya sau đó đã gửi một bức điện thông báo về những gì họ đã quan sát cho Phó Đô đốc Hara và Đô đốc Toyoda. Trên đường trở về căn cứ, chiếc C6N đã thoát khỏi sự truy đuổi của ba máy bay “Tia sét” P-38 của Mỹ. Sau khi hạ cánh xuống Truk, bộ phận tình báo của Hải quân Nhật đã xác định được các tàu sân bay trong các bức ảnh mà Ito chụp được gồm 1 tàu sân bay loại Saratoga, 4 tàu loại ESSEX, 3 tàu loại Independance, 7 tàu hộ tống và 4 tàu không xác định được.
Khi Đô đốc Toyoda nhận được thông tin này, ông ta đã quyết định ngày 11/3 sẽ tiến hành cuộc tấn công vào căn cứ Ulithi của Mỹ. Vào ngày 11/3, thời tiết ở sân bay Kanoya trên đảo Kyushu rất lý tưởng, nhưng việc xuất phát của những chiếc thuỷ phi cơ H8K Emily làm nhiệm vụ trinh sát thời tiết của biên đội 801 từ Kagoshima đã bị trì hoãn. Chúng cuối cùng cũng bay được lên trên không trung chỉ hai giờ trước khi đơn vị tấn công đặc biệt cất cánh. Những máy bay H8K Emily này được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm 3 chiếc thuỷ phi cơ làm nhiệm vụ trinh sát thời tiết, và nhóm thứ hai gồm hai chiếc có nhiệm vụ dẫn đường cho các máy bay P1Y Ginga đến Minami-Daito Jima và sau đó dẫn họ trở về.
Đảo Mog Mog mà chiếc Yokosuka P1Y Ginga thứ hai nhầm tưởng là tàu sân bay
|
Việc cất cánh của bộ phận thứ nhất bị hoãn lại 20 phút bởi sự cố động cơ. Đúng 9 giờ, 24 máy bay ném bom Yokosuka P1Y Ginga bắt đầu xuất kích, nhằm hướng căn cứ Ulithi. Mỗi máy bay Yokosuka P1Y Ginga mang một quả bom nặng 793 kg. Lúc 9 giờ 20, những chiếc máy bay Ginga cất cánh từ mũi Sata nhằm hướng nam thẳng tiến, chậm hơn so với kế hoạch 20 phút.
Sau 4 giờ, biệt đội tấn công cảm tử bay qua tàu ngầm HA-106 ở ngoài khơi đảo Minami-Daito Jima. Nhưng trong quá trình bay, 5 chiếc Yokosuka P1Y Ginga buộc phải quay trở lại bởi vì các sự cố ở động cơ và sau đó phải hạ cánh xuống Minami-Daito Jima. Ba chiếc Yokosuka P1Y Ginga đã bị rơi. Một trong những máy bay dẫn đường H8K2 Emily cũng biến mất. 6 máy bay ném bom P1Y Ginga phải quay trở lại Kanoya.
Những cơn mưa bất ngờ xuất hiện ở khu vực gần Okino-Torishima buộc phi đội máy bay tấn công phải bay trên các đám mây, do đó không quan sát được các vật chuẩn. Thời tiết cũng buộc biên đội máy bay Yokosuka P1Y Ginga phải bay vòng tránh nhiều đám mây. Việc bay vòng này khiến quãng đường bay tăng lên và lượng nhiên liệu quý giá bị mất thêm.
Hành trình của những chiếc máy bay thực hiện sứ mệnh tấn công căn cứ Ulithi ngày 11/03/1945.
|
Sau 8 tiếng bay, biệt đội này hạ thấp độ cao. Sai sót trong dẫn đường và những cơn gió bất ngờ đã dẫn họ đến gần đảo Yap, cách Ulithi 216 km về phía tây. Mãi tới 18 giờ 52, khi mặt trời đã lặn, biệt đội này mới tìm được mục tiêu. Nhưng trớ trêu, chỉ có hai chiếc Yokosuka P1Y Ginga, thay vì 24 chiếc theo như kế hoạch ban đầu, đến được Ulithi. Lúc này, các máy bay Yokosuka P1Y Ginga tiếp cận Ulithi ở tầm cao. Chúng thả những lá thiếc xuống để gây nhiễu các rađa của quân Mỹ.
Sau đó, chúng hạ thấp độ cao và bay sát mặt biển. Cả hai chiếc Ginga bay đến vị trí neo đậu tàu thuyền ở Ulithi mà không hề bị phát hiện. Chúng lựa chọn mục tiêu tấn công là những chiếc tàu sân bay lớn. Phi công lái chiếc Yokosuka P1Y Ginga đầu tiên thông báo qua rađiô “tấn công thành công” trước khi bổ nhào xuống.
Người ta không nghe thấy bất kỳ hồi chuông báo động nào. Các đảo và tàu đều rực sáng ánh đèn, các thuỷ thủ Mỹ đang trong thời gian nghỉ ngơi và xem phim. Lúc 20giờ 07, một chiếc Yokosuka P1Y Ginga lao xầm xuống mạn phải của tàu USS Randolph, một tàu sân bay lớp ESSEX trọng tải 27.100 tấn, đang thả neo ở gần đảo Sorlen. Chiếc máy bay đâm trúng đuôi tàu, nhưng do không còn nhiều nhiên liệu trong thùng chứa nên nó không bốc cháy.
Quả bom mà nó mang theo phát nổ và phá huỷ các máy bay đang đậu ở trên boong tàu và ở trong hầm chứa máy bay trên boong. Tàu sân bay Randolph bị hư hỏng nặng và 26 người thiệt mạng, 105 người khác bị thương. Chiếc Yokosuka P1Y Ginga thứ hai nhầm tưởng Mog Mog, hòn đảo vui chơi giải trí ở gần đó, là tàu sân bay và đâm xuống một sân bóng chày đang được chiếu sáng.
Vào lúc 23 giờ 30, chiếc thủy phi cơ H8K Emily do chuẩn uý Nagamine điều khiển hạ cánh xuống đảo Meleyon. Trên hòn đảo này không có nhiên liệu máy bay, vì thế chiếc máy bay đã bị đánh đắm bằng cách nã đạn súng máy cho thủng vào ngày hôm sau. Họ phải đợi 57 ngày thì được một con tàu ngầm đến đón. Để có thể tồn tại được trong thời gian đó, các phi công đã phải ăn cả chuột. Hai tháng sau, ngày 10/5/1945, tàu ngầm vận tải I-369 lớp Type D1 đến đảo Meleyon và cứu được những người còn sống sót. Con tàu này khởi hành rời đảo Meleyon vào ngày hôm sau và về đến Yokosuka vào ngày 24/5/1945.
Các đơn vị thông tin của Hải quân Nhật Bản thu nhận được một vài cú điện qua sóng vô tuyến về một trận không kích ở đảo Ulithi. Dựa trên những thông tin này, Đô đốc Toyoda rất lạc quan về các kết quả của chiến dịch tấn công căn cứ Ulithi. Ngày hôm sau, một máy bay C6N Saiun bay từ Truk đi trinh sát và bất ngờ phát hiện thấy tất cả các tàu sân bay của Mỹ vẫn còn ở đó. Các phi công không phát hiện thấy lớp dầu loang nào trên mặt biển. Chỉ đến lúc đó, người Nhật mới biết rằng cuộc tấn công của họ đã thất bại.
Đình Vũ (Tổng hợp)
TTOL
|
|
|
|
|