Mang danh "Cá Kình biển Đông", nữ tướng Lê Chân không chỉ là một trong những người đầu tiên dựng cờ khởi nghĩa cùng Hai Bà Trưng mà còn là biểu tượng của trí dũng, kiên trung và lòng yêu nước sắt đá. Từ một thiếu nữ bị ép làm tì thiếp, bà hóa thân thành ngọn sóng dữ, làm khiếp vía quân Hán, để lại dấu ấn bất diệt trong sử Việt và lòng dân đất Cảng.
Dựng cờ khời nghĩa
Theo bản thần tích hiện còn lưu giữ ở Đền Nghè (thuộc quận Lê Chân, TP.Hải Phòng), Lê Chân là con ông Lê Đạo và bà Trần Thị Châu, ở làng An Biên (tên nôm là làng Vẻn) huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc, tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó, bà Trần Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi ông bà tuổi đã cao mà chưa có con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện rất linh ứng, ông bà tìm đến cầu tự. Quả nhiên bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh Thìn (20) bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng.

Tượng thờ bà Lê Chân tại đền Nghè (Hải Phòng) nguồn:Internet.
Vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất bắt đầu từ năm 111 trước Tây lịch - năm vua Vũ đế nhà Hán sai quân sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt rồi đổi thành Giao Chỉ bộ và chia làm 9 quận. Năm 34, vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định là kẻ tàn bạo, tham lam “thấy tiền là giương mắt lên” đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về sắc đẹp của nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Trước thái độ ngang nhiên, hống hách của Tô Định, Lê Chân đã bỏ chốn, tức tối Tô Định hèn hạ tìm cách hãm hại ông bà Lê Đạo.
Căm giận quân cướp nước, Lê Chân mang nặng tâm tư thù nhà, nợ nước, tìm thầy học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chung chí hướng và khi võ nghệ đã tinh thông, bà giong thuyền đến vùng đất An Dương cạnh cửa Sông Cấm (Hải Phòng ngày nay). Thấy nơi này đất đai màu mỡ, sông ngòi chằng chịt, địa thế hiểm trở, thuận tiện cho việc lập căn cứ chống giặc bà đã quyết định ở lại.
Bà là người trước nhất nhìn thấy nơi này có vị trí quan trọng trong việc xây dựng căn cứ quân sự cũng như tăng gia sản xuất, có thể đảm bảo cho được công tác hậu cần nếu tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Vì thế, bà cho người tìm về quê cũ đón gia quyến và người thân tới đây để xây dựng trang ấp mới. Nhớ quê cũ bà đặt tên cho quê mới là An Biên. Nghe tin, nhiều nam thanh nữ tú vùng Đông Triều, Kinh Môn, Thủy Nguyên… đã tìm đến hội tụ dưới cờ nghĩa của bà.
Dăm năm sau, vùng đất hoang vu này trở thành nơi sầm uất, khách thập phương nườm nượp tìm đến giao thương, buôn bán. Không những thế bà Lê Chân còn ngầm liên kết với các hào kiệt xa gần để tạo nên một thế lực vững mạnh, những dân quân dưới quyền của bà họ được huấn luyện thông thạo về thủy chiến, để tùy lúc có thể phối hợp với bộ binh đánh tan những âm mưu của giặc. Sự lớn mạnh của vùng đất này, không thể lọt ra khỏi tầm mắt của Tô Định và Tô Định đã sai quân đến bao vây, nhưng do cảnh giác nên nghĩa quân đã phát hiện và chủ động đánh trả. Quân giặc Hán khiếp sợ tài cầm quân của nữ tướng Lê Chân nên gọi là “Cá Kình biển Đông”.
Anh hùng tụ nghĩa
Mùa xuân năm 40, khi nghe tin Hai Bà Trưng “phất cờ nương tử”, dấy binh đánh quân xâm lược, bà Lê Chân đã đưa toàn bộ nghĩa quân gia nhập vào đại quân của Hai Bà Trưng. Trong cuộc khởi nghĩa này, ngoài bà Lê Chân còn có sự giúp sức của các anh hùng hào kiệt bốn phương, các nữ tướng như Thánh Thiên, Thiều Hoa, Bát Nạn, Nàng Nội, Ả Là, Lê Ngọc Trinh…
Đại quân của Hai Bà Trưng quy tụ ở Mê Linh, khởi sự đánh chiếm đô úy trị của Thái thú Tô Định đóng tại đây. Sau đó từ Mê Linh kéo quân đánh huyện Tây Vu, tức thành Cổ Loa. Rồi từ Cổ Loa vượt qua sông Đuống xuôi dòng sông Dâu đánh phá quận trị quận Giao Chỉ, bấy giờ đóng ở thành Luy Lâu.Trong cuộc khởi nghĩa này, bà Lê Chân cùng bà Thánh Thiên được cử làm tướng tiên phong.
Các quan lại, Thứ sử, Thái Thú, quân sĩ nhà Hán hoảng sợ, không dám chống cự, bỏ chạy thoát thân Thái Thú Tô Định trốn chạy về quận Nam Hải. Các lạc tướng ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nghe tin quân Hán thất bại, cũng đều nổi dậy cùng đại quân của Hai Bà Trưng đánh chiếm các quận, huyện, đập tan chính quyền đô hộ của nhà Hán ở các nơi.
Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng nghĩa quân đã chiếm lại được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Hán, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (lấy hiệu là Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh quyền coi giữ vùng hải tần (duyên hải Đông Bắc).

Tượng đài nữ tướng Lê Chân tại Thành phố Hải Phòng (nguồn: Internet).
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thắng lợi, giành được độc lập cho đất nước. Sau 3 năm, quân xâm lược nhà Đông Hán lại kéo sang xâm lược nước ta. Bà Lê Chân cùng với Hai Bà Trưng và cùng nhiều tướng lĩnh khác đã tham gia những trận đánh ác liệt ở vùng hồ Lãng Bạc, trận đánh phá vây ở Cẩm Khê. Do lực lượng ta không đủ mạnh nên cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị bẻ gãy. Để bảo toàn khí tiết, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết ở dòng sông Hát Môn. Nữ tướng Lê Chân mang quân rút về vùng núi Lạt Sơn để chờ dịp phản công diệt giặc.
Đến căn cứ Lạt Sơn nằm bên dòng sông Đáy chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, nữ tướng Lê Chân đã chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn để làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam, trước mặt phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Cùng với việc xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân còn chiêu mộ thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội.
Song thế giặc mạnh, lực lượng kháng chiến của ta ngày một yếu, Bà đã hy sinh ở chiến trường Lạt Sơn (nay thuộc xã Thanh Sơn, huyện Kinh Môn, Hải Dương) trong một trận chiến không ngang sức với quân giặc vào ngày 25 tháng chạp năm 43. Theo thần tích, lúc ấy thi hài của bà hóa thành một phiến đá nổi, trôi về tận cửa sông Cấm, dân xã An Biên rước phiến đá về lập đền Nghè thờ phụng, trải qua các triều bà được phong thượng đẳng phúc thần. Hiện nay tại đền Nghè còn lưu giữ được các câu đối nêu cao công đức của bà.
Vâng mệnh vương, dẹp xâm lăng tiếng lừng nữ tướng;
Ra oai trời, trấn bãi biển ơn giúp nhân dân.
VietBF@ sưu tập