“Cư trần lạc đạo”, có nghĩa là sống giữa đời mà vẫn tu hành, không cần phải xuất gia mới đạt đạo. Đây là một tư tưởng rất riêng biệt của Thiền phái Trúc Lâm.
Trong bối cảnh Đạo Phật trên thế giới có rất nhiều tông phái khác nhau, thì Việt Nam có một tông phái thuần Việt, với nhiều điểm riêng biệt, độc đáo và giàu bản sắc dân tộc, đó là Thiền phái Trúc Lâm Yên tử, do vị vua thứ 3 triều Trần là Trần Nhân Tông, sáng lập vào cuối thế kỷ XIII.
Mặc dù vua Trần Nhân Tông là người sáng lập dòng thiền này, nhưng hạt mầm Phật giáo trong hoàng cung đã được gieo bắt đầu từ vua Trần Thái Tông. Theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ, là người phục hưng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào thế kỷ 20, có công lớn trong nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng nhiều thiền viện theo hệ phái này, góp phần khôi phục dòng thiền truyền thống của Việt Nam, trong cuốn "Tiểu sử Trần Thái Tông - Ông vua Thiền sư (1218-1277)", thì khi tại vị, đức vua Trần Thái Tông đã là một cư sĩ mộ đạo của Phật giáo. Sau khi nhường ngôi vua cho con là Trần Thánh Tông, Trần Thái Tông có nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu, giảng dạy Thiền tông. Ông đã dựng chùa Phổ Minh tại Thiên Trường (Nam Định) và am Thái Vi tại hành cung Vũ Lâm (Hoa Lư, Ninh Bình) để tu tập. Ông còn viết thêm nhiều sách dạy Phật học, trong đó có Khóa hư lục (Tập bài giảng về lẽ hư vô), Lục thì sám hối khoa nghi (Nghi thức sám hối vào sáu thời khắc trong một ngày), Kim Cương Tam Muội Chú Giải (Chú giải kinh Kim Cương Tam Muội, ngày nay đã thất lạc...

Đến đời Vua Trần Thánh Tông, lên ngôi không lâu sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ thắng lợi năm 1258. Trong thời gian tại vị, ông đã có những chính sách bảo trợ Phật giáo. Theo “Thánh đăng ngữ lục” cũng của hòa thượng Thích Thanh Từ, Thượng hoàng Trần Thánh Tông về cuối đời đã đi tu tại chùa Tư Phúc, dưới sự hướng dẫn của Quốc sư Trúc Lâm Đại Đăng. Ông lấy đạo hiệu Vô Nhị Thượng Nhân và dành nhiều thời gian cho việc viết sách và đàm đạo với các nhà Thiền học.
Theo Tiểu sử Phật hoàng Trần Nhân Tông của Viện Trần Nhân Tông, ĐHQGHN, đức vua Trần Nhân Tông tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Ông là đích trưởng tử của vua Trần Thánh Tông. Năm 16 tuổi, khi được lập làm Hoàng thái tử, ông đã gắng từ chối nhưng không được. Trần Nhân Tông thánh tính thông minh, tinh thông các sách nội ngoại điển. Ông mời nhiều Thiền khách đến để luận bàn Thiền học, đặc biệt là tham vấn và đắc pháp từ Thượng sĩ Tuệ Trung.
Ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần (1278), ông kế vị Thánh Tông, tự xưng là Hiếu Hoàng, đặt niên hiệu Thiệu Bảo, đến năm 1285 đổi thành Trùng Hưng. Ông từng hai lần chỉ huy quân dân nhà Trần đánh thắng hai lần xâm lược của quân Nguyên vào năm 1285 và 1288. Sau khi đánh lui ngoại xâm, ông xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chúng an cư lạc nghiệp.
Năm 41 tuổi (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. Năm 1299, Ngài lên núi Yên Tử – Quảng Ninh quyết chí tu hành, tham thiền nhập định, lấy tên là “Hương Vân Đại Đầu Đà” và độ Đồng Kiên Cương làm đệ tử và ban pháp hiệu là Pháp Loa. Tiếp đó, Ngài trở về chùa Phổ Minh phủ Thiên Trường giảng kinh, thuyết pháp, mở Hội đại thí vô lượng cho nhân dân.
Trở lại dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, đây là sự dung hợp sáng tạo của ba dòng thiền đã truyền vào Đại Việt trước đó là Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Thiền Vô Ngôn Thông, và Thiền Thảo Đường. Thiền phái Trúc Lâm kế thừa tinh hoa của ba dòng này, kết hợp với yếu tố bản địa, hình thành một hệ tư tưởng và phương pháp hành trì mới, phù hợp với hoàn cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam.
Trần Nhân Tông chủ trương: “Cư trần lạc đạo”, có nghĩa là sống giữa đời mà vẫn tu hành, không cần phải xuất gia mới đạt đạo. Đây là một tư tưởng rất riêng biệt của Thiền phái Trúc Lâm.
“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.”
Tu hành không tách biệt cuộc sống, mà dùng đời để tu, sống đơn giản, an nhiên giữa thế gian. Thiền Trúc Lâm là thiền sống, thiền nhập thế, không nhất thiết phải vào rừng, lên núi hay rút khỏi cuộc sống đời thường. Thiền có thể thực hành ngay trong mọi hành vi thường ngày như ăn, nói, làm, ngủ, đi đứng, đó là thiền của chánh niệm, tỉnh giác, soi sáng bản tâm.
Trúc Lâm không chỉ là một thiền phái tôn giáo, mà còn là một tư tưởng trị quốc an dân. Sau khi xuất gia, Phật hoàng Trần Nhân Tông đi khắp nơi để giảng đạo, cảm hóa nhân tâm, hòa giải các tranh chấp trong dân gian, giúp xã hội ổn định. Đây là một mô hình hành đạo nhập thế rất đặc sắc, không chỉ lo giải thoát cá nhân mà còn giúp đời, giúp dân.
Thiền trong Thiền phái Trúc Lâm Yên tử gắn liền với trí tuệ, không chấp vào hình tướng, không nhấn mạnh hình thức tu hành, mà đặt trọng tâm vào tu tâm – tĩnh thức – phá chấp. Pháp tu thiền dựa trên chánh niệm, tỉnh giác, nhận lại bản tâm sáng suốt, không chạy theo vọng tưởng.
Trúc Lâm chủ trương không phân biệt tăng, tục, ai cũng có thể tu thiền. Dù trọng thiền sống, Trúc Lâm vẫn duy trì thiền tọa. Phương pháp hành thiền tọa không dùng thần chú, không hình dung, không tưởng tượng, chỉ theo dõi tâm, khi vọng tưởng khởi thì biết, không chạy theo nó.
Đức Trần Nhân Tông dạy: "Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền", tức là khi tâm không dính mắc, không chạy theo cảnh, thì đó là thiền. Không cần tụng niệm nhiều, không nương tựa vào nghi lễ phức tạp, không chấp công phu, không mong chứng đắc, thiền là để trở về với tâm chân thật. Trúc Lâm nhấn mạnh thiền không chỉ để giải thoát cá nhân, mà còn để: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Hành giả là người sống tỉnh thức, hiền lương, biết trách nhiệm với bản thân và xã hội.
Nếu từ quan đến dân, hiểu và hành thiền với tư tưởng như của đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, lo gì dân không hiền lương, gia đình không hạnh phúc, quốc gia không hùng cường.
Vietbf @ Sưu tầm