Tin buồn từ một đời làm báo
Nhà báo Peter Arnett – tác giả hồi ký “Live from the Battlefield: From Vietnam to Baghdad, 35 Years in the World's War Zones” và cũng là người từng đoạt giải Pulitzer với các phóng sự về chiến tranh Việt Nam – vừa từ trần ở tuổi 91, tại Newport Beach, vào thứ tư 17/12/2025. Ông ra đi, nhưng dấu chân của ông vẫn còn nằm lại trong những trang báo mùi khói súng, nơi sự thật luôn đắt giá và lòng can đảm phải trả bằng cả tuổi trẻ.
Từ New Zealand đến những vùng lửa đạn
Peter Arnett (tên thật Peter Gregg Arnett) sinh ngày 13/11/1934 tại New Zealand. Ông bắt đầu nghề báo bằng việc điều hành một tờ báo tiếng Anh ở Lào năm 1960, rồi trở thành phóng viên của Associated Press (AP) tại Việt Nam từ 1962.
Trong 13 năm tác nghiệp ở Việt Nam, Arnett viết nhiều loạt bài về cuộc chiến và được trao Pulitzer năm 1966 vì những phóng sự có giá trị. Ông là kiểu phóng viên “đi đến tận nơi”, không tường thuật bằng lời đồn, mà bằng đôi giày lấm bùn và đôi mắt nhìn thẳng vào sự thật.
30/4/1975: ở lại để chứng kiến khoảnh khắc kết thúc
Peter Arnett có mặt tại Sài Gòn ngày 30/4/1975 và được xem là một trong số rất ít phóng viên nước ngoài viết được bài phóng sự cuối cùng về chiến tranh Việt Nam. Với nhiều người, đó là ngày rời đi. Với ông, đó là ngày phải ở lại: để chứng kiến, để ghi lại, để làm đúng bổn phận của một người cầm bút – không tô vẽ, không né tránh.
“Không đánh đổi độc lập để lấy nguồn tin”
Trong lời tiễn biệt đầy xúc động của một người bạn (từng làm trong giới tình báo), có một chi tiết rất đắt: thời ở Việt Nam, Arnett cố ý giữ khoảng cách với CIA. Ông hiểu những “món quà thông tin” thường đi kèm sợi dây ràng buộc, và ngay cả khi nó đúng, nó vẫn cần được kiểm chứng độc lập. Nhiều người sẵn sàng nhận “tin nóng” khó kiểm tra chỉ để có lợi thế, để làm đẹp dòng byline. Arnett thì không. Ông không mua sự thuận tiện bằng cái giá của tính chính trực.
Bạn ông kể lại một lần ở Bangkok sau khi Sài Gòn thất thủ: dù biết Arnett nổi tiếng lạnh và kín, người bạn vẫn thử tiếp cận như một “nguồn tin”. Arnett nhìn bằng vẻ hơi bối rối nhưng điềm tĩnh, rồi chỉ nhẹ nhàng bảo: hãy đọc bài điện mới nhất của ông. Một câu từ chối không gay gắt, nhưng đủ cho thấy ông muốn được nhớ đến như một nhà báo – không phải một mắt xích trong bất kỳ guồng máy nào.
Hồi ký “Live from the Battlefield”: những trang giấy còn mùi mưa Sài Gòn
Năm 1994, ông xuất bản hồi ký “Live from the Battlefield: From Vietnam to Baghdad, 35 Years in the World's War Zones”, kể lại đời làm báo của mình – từ Việt Nam sang nhiều chiến trường khác.
Ngày Saigon thất thủ (Fall of Saigon)
“Saigon trong những ngày cuối cùng thật ẩm ướt. Mùa mưa đến với những cơn mưa nặng hạt. Từ trên nóc tòa nhà Eden, tôi nhìn bóng dáng mờ mờ của những chiếc trực thăng lẩn khuất vào màn đêm. Bên dưới, trong ánh sáng của những ngọn đèn đường, một số người đang ngẩng nhìn lên bầu trời và vẫy vẫy với chiếc túi du lịch nhỏ trong tay. Nhưng giờ đây đã quá trễ để ra đi trên những chuyến bay. Khi đêm đã khuya, những chiếc trực thăng đã bay đi hết và sẽ không còn trở lại nữa.

Thế là tôi đi xuống văn phòng hãng tin AP ở tầng 4, nơi ông Hương, người phiên dịch của chúng tôi, và những người thân trong gia đình ông đang nằm dài trên sàn nhà… Tôi đi xuống cầu thang tối om, băng qua công trường Lam Sơn ẩm ướt để về khách sạn Caravelle. Tôi chợp mắt chưa được bao lâu thì đã bị đánh thức bởi tiếng kêu lớn dưới đường bên ngoài cửa sổ. Tôi kéo màn cửa sổ ra và bị chói mắt bởi ánh nắng trong vài giây. Tôi có thể nghe thấy sự xáo động dưới công trường: nhiều người đang giành giật một chiếc giường cỡ lớn. Tôi tưởng mình đang nằm mơ nhưng mọi chuyện đều đã là sự thật. Việc hôi của đã bắt đầu.
Tôi cạo râu và tắm dưới vòi nước lạnh rồi chọn một chiếc áo cũ kỹ màu xám cho tương thích với những chủ nhân mới của thành phố. Tôi bước lên phòng ăn và tưởng rằng sẽ không có ai phục vụ bữa điểm tâm, nhưng tôi đã lầm: các nhân viên phục vụ mặc đồng phục vẫn làm việc như thường lệ.
Dưới đường không khí rất náo nhiệt, xe cộ chạy về phía bờ sông, nơi những chiếc tàu chở hàng và tàu của hải quân đang neo đậu. Biển là đường thoát duy nhất còn lại. Tôi thấy những đám người đứng chờ trên nóc 5 cao ốc ở trung tâm thành phố, mắt dõi nhìn lên bầu trời. Tôi tự hỏi không biết họ có hiểu rằng mọi chuyện đã kết thúc, nhưng rồi tiếng động cơ quen thuộc của một chiếc trực thăng của Thủy quân lục chiến Mỹ lại vang lên khi nó lượn quanh hai ngọn tháp của nhà thờ Đức Bà gần công trường Kennedy rồi đậu trên nóc Đại sứ quán Mỹ.

Một nhân viên phục vụ trao cho tôi một cặp ống dòm và tôi thấy vài người lính thủy quân lục chiến có vũ trang chạy ra thật nhanh từ những lô cốt chất bao cát trên nóc Đại sứ quán và leo lên chiếc trực thăng. Trong vòng không đầy 1 phút, những người Mỹ cuối cùng ở Saigon đã bay đi… (Về sau, Peter Arnett mới biết Bộ Tư lệnh Hải quân Mỹ ở Hawaii đã quên những người lính thủy quân lục chiến Mỹ bảo vệ Đại sứ quán Mỹ và tới giờ chót mới sực nhớ ra, phái một chiếc trực thăng trở lại bốc họ đi).

Chúng tôi lái xe tới Đại sứ quán Mỹ. Đại lộ trước tòa nhà này vương vãi giấy tờ, những tài liệu bị xé nát, những cuốn sổ tay và những tờ báo. Cổng của Đại sứ quán chỉ khép hờ và một người lính Việt Nam tươi cười đang đi đi lại lại trên hành lang, nói lớn bằng tiếng Anh khi nhìn thấy chúng tôi: “Bây giờ chỗ này đã là đại sứ quán của chúng tôi”.

Khi lên nóc của đại sứ quán, chúng tôi thấy vẫn còn khoảng một trăm người Việt đang ngồi chờ ở đó. Họ chờ những chiếc trực thăng quay trở lại đón họ và tôi không có can đảm để nói với họ rằng mọi chuyện đã kết thúc…
Khi George và tôi đi ngang qua công trường Lam Sơn, một trung tá cảnh sát người Việt đến gần George và thì thào với anh một câu tiếng Anh ngắc ngứ: “Thôi hết rồi!” rồi quay người bước đi vài bước, đứng nghiêm chào bức tượng hai người lính rồi giơ khẩu súng Colt 45 ly bắn một phát vào thái dương của mình…
Tôi đang lái xe gần Đại sứ quán Anh thì thấy một chiếc xe jeep màu đen đến gần; trên mui xe có một thanh niên mặc áo sơ mi trắng, quần tây đen, chân mang giày vải. Anh ta cầm một khẩu AK, hét lớn với tôi bằng tiếng Anh: “Mọi người về nhà đi!”; trong xe còn nhiều người nữa mặc áo quần màu đen. Trên xe có gắn lá cờ của Việt cộng. Tôi nhìn đồng hồ: 11 giờ 25 phút trưa.

Vài người lính Việt Nam Cộng hòa đang chạy trên đường Tự Do; đúng hơn là họ đang nhảy lò cò vì vừa chạy vừa cởi đôi giày ống và bộ quân phục. Tôi nghe tiếng kèn chói tai của một chiếc xe tải. Một chiếc xe tải lớn đang chạy về phía bờ sông. Tim tôi như ngừng đập: đó là một chiếc Molotova của Nga đang chở một nhóm binh lính Cộng sản trẻ tuổi trong bộ quân phục màu xanh lá mạ và đội mũ tai bèo. Khuôn mặt họ trông rất nghiêm nghị và họ có vẻ kinh ngạc khi ngẩng nhìn những cao ốc ở trung tâm thành phố Saigon - có lẽ là những cao ốc họ được nhìn thấy lần đầu tiên trong đời. Những thường dân đứng bên đường nhìn họ với vẻ kinh ngạc…

Đó là sự kết thúc của tất cả mọi sự, điều mà cả một thế hệ người Mỹ đã đấu tranh để chống lại và nhiều tổng thống Mỹ đã lập kế hoạch để ngăn chặn. Và kết cuộc đã đến quá nhanh mà chẳng hề có cao trào…”.
Một di sản: sự thật, lòng trắc ẩn và độc lập
Có những nhà báo đi qua chiến tranh như đi qua một đề tài. Còn Peter Arnett đi qua chiến tranh như đi qua đời sống của con người – nơi mỗi con số thương vong đều có một khuôn mặt, mỗi bản tin đều phải chịu trách nhiệm trước lương tâm.
Ông “đã ra đi khỏi chúng ta, nhưng không hề mất đi”: bởi ở bất cứ đâu người ta còn theo đuổi sự thật bằng lòng trắc ẩn và tính độc lập, ở đó vẫn còn bóng dáng Peter Arnett – một nhân chứng, một người kể chuyện của lịch sử, và một chuẩn mực khó thay thế của nghề báo chiến trường.