Kim Thế Tông được đánh giá là vị minh quân nhà Kim, nhà chính trị kiệt xuất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Ông đă nghiên cứu và đúc kết kinh nghiệm cai trị từ nhiều vị vua đời trước làm bài học cho ḿnh.
Kim Thế Tông Hoàn Nhan Ung là một trong những vị hoàng đế vĩ đại bậc nhất của nhà Kim, đồng thời cũng là một nhân vật nổi bật trong lịch sử Trung Quốc thời trung đại. Ông sinh năm 1123 với tên thật là Hoàn Nhan Ô Lộc, c̣n được gọi bằng các tên khác như Hoàn Nhan Ung hay Hoàn Nhan Bao, tự Ngạn Cử. Xuất thân từ hoàng tộc danh giá – là con của hoàng tử Hoàn Nhan Tông Phụ và cháu nội của Kim Thái Tổ A Cốt Đả – Hoàn Nhan Ung ngay từ thuở nhỏ đă được nuôi dưỡng trong môi trường quân sự – chính trị nghiêm ngặt, đồng thời cũng tiếp thu nền giáo dục ưu tú của gia tộc Nữ Chân.
Thuở nhỏ, ông được mẹ là Lư thị – một quư tộc Bột Hải – trực tiếp chăm lo dạy dỗ, rèn cho khả năng đọc sách, viết chữ và hiểu biết về kinh điển. Khi Hoàn Nhan Tông Phụ qua đời, Ung mới 12 tuổi, mẹ ông không chịu tục tái giá theo truyền thống Nữ Chân mà xuất gia tu hành, để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí ông về phẩm cách tiết liệt và sự kiên định. Hoàn Nhan Ung cũng sớm bộc lộ thiên tư vơ nghệ, giỏi cưỡi ngựa, bắn cung, đồng thời được các chú bác như Tông Bật, Tông Xương, Tông Hàn dẫn theo ra chiến trường từ khi c̣n trẻ, giúp ông sớm tích lũy kinh nghiệm quân sự thực tiễn.

Tranh vẽ Kim Thế Tông. Ảnh: Science2vn.
Trấn giữ Đông Kinh, từng bước tham chính rồi lại phải chịu cảnh bị nghi kỵ, Hoàn Nhan Ung trải qua những năm tháng đầy thăng trầm trong triều đ́nh Kim Hi Tông và sau đó là triều Hải Lăng vương Hoàn Nhan Lượng. Kim Hi Tông hoang dâm, tàn sát tông thất; Hoàn Nhan Lượng lại càng bạo ngược, hiếu sắc và đa nghi. Để bảo toàn tính mạng, Hoàn Nhan Ung nhiều lần phải nhún nhường, dâng lễ vật trấn an, thậm chí nh́n vợ ḿnh – Ô Lâm Đáp thị – phải lên đường vào cung theo lệnh Hoàn Nhan Lượng rồi tự vẫn giữa đường để giữ trọn danh tiết lẫn bảo vệ chồng. Những mất mát ấy khiến Hoàn Nhan Ung càng thêm quyết tâm nh́n nhận thời cuộc, tích lũy thực lực và chờ thời cơ lật đổ bạo quân.
Giai đoạn bị điều đi trấn thủ các vùng xa như Trung Kinh, Yên Kinh, Tế Nam lại trở thành cơ hội để Hoàn Nhan Ung xây dựng ảnh hưởng chính trị. Ông khéo léo liên minh với hai đại gia tộc Lư và Trương của vùng Bột Hải, thu phục nhiều nhân tâm ở Liêu Đông – nơi vốn chán ghét chính sách áp bức của Hoàn Nhan Lượng. Khi Hoàn Nhan Lượng nam chinh, huy động hàng chục vạn quân khiến trong nước rối loạn, ḷng người ly tán, th́ các lực lượng chống đối bắt đầu nổi lên. Khoát Lư khởi binh ở Liêu Đông, Hoàn Nhan Phúc Thọ mang vạn quân phản biến chạy về Đông Kinh, tuyên bố lập Ung lên ngôi. Nhận thấy thời cơ đă tới, Hoàn Nhan Ung nhanh chóng theo mưu kế của Lư Thạch ra tay trước, bắt giữ Cao Tồn Phúc và Lư Nhan Long – hai người được phái đến giám sát ông. Tới ngày 27 tháng 10 năm 1161, ông chính thức được quân sĩ và tông thất tôn làm hoàng đế, lấy niên hiệu Đại Định, tức Kim Thế Tông.
Ngay sau khi lên ngôi, Kim Thế Tông lập tức tiêu diệt tàn dư phe cánh Hải Lăng vương, đánh chiếm Trung Đô và Yên Kinh một cách mau lẹ. Khi Hoàn Nhan Lượng bị chính tướng sĩ của ḿnh giết chết trong cảnh thất bại, Kim Thế Tông bước vào giai đoạn ổn định lại trật tự quốc gia bị phá nát bởi nhiều năm bạo chính. Ông xóa bỏ chính sách tàn sát nội tộc của Lượng, phục hồi danh dự và chức tước cho những người bị hàm oan, an táng lại hài cốt tông thất, đồng thời ân xá rộng răi cho những người từng đi theo bạo quân. Chính sách khoan dung ấy khiến các quư tộc và quân sĩ đều hướng về triều đ́nh mới.
Bên cạnh đó, Kim Thế Tông cũng tiêu trừ các cuộc nổi dậy c̣n sót lại, trong đó lớn nhất là cuộc khởi binh của Oa Oát, thủ lĩnh người Khiết Đan. Sau nhiều trận chiến, ông vừa dùng quân sự vừa dùng chính trị để vỗ về, trấn an; cuối cùng dẹp yên được cuộc nổi loạn, giết Oa Oát và ổn định vùng Liêu Đông. Nhờ đó, t́nh h́nh sắc tộc trong nước dần đi vào trật tự.
Về triều chính, Kim Thế Tông chú trọng sử dụng người tài, không phân biệt Nữ Chân, Bột Hải, Khiết Đan hay người Hán. Ông trọng dụng cả những người từng phục vụ dưới triều Hoàn Nhan Lượng nếu họ có tài và trung thực như Chí Ninh hay Dương Huyền Tố. Về pháp luật, ông dựa theo luật nhà Đường và Tống để sửa đổi, khiến các quy định h́nh pháp trở nên minh bạch, dễ hiểu, giúp dân tránh oan sai. Trong bộ máy hành chính, ông củng cố quyền lực hoàng đế, đồng thời xây dựng nề nếp, quy định các quan lại phải thường xuyên giao ban để trao đổi công việc, ai đến 60 tuổi th́ được cho nghỉ hưu để trẻ hóa bộ máy.
Về kinh tế, Kim Thế Tông bắt đầu từ nền tảng sa sút sau thời Hải Lăng vương, tập trung khôi phục nông nghiệp. Ông xá tội cho những người dân từng tham gia khởi nghĩa để họ trở lại sản xuất, miễn giảm thuế và lao dịch, thả hàng loạt tù binh và cựu binh về quê làm ruộng, khuyến khích thủy lợi và trồng trọt. Đặc biệt, ông trả lại toàn bộ đất đai từng bị triều đ́nh chiếm dụng để làm vườn săn cho người dân, thậm chí buộc các quư tộc có quá nhiều đất phải nhường lại cho nông dân. Ông đề cao tiết kiệm trong hoàng cung, giảm bớt cung nữ, hạn chế chi tiêu xa hoa, nêu gương khổ hạnh khiến triều đ́nh bớt lăng phí và nhân dân cũng v́ thế mà tin tưởng.
Trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục, Kim Thế Tông có quan điểm linh hoạt: vừa phục hồi phong tục Nữ Chân, ngăn chặn sự Hán hóa quá mức, nhưng đồng thời vẫn đề cao các giá trị của Nho gia và phát triển khoa cử. Ông không nghe theo lời khuyên bỏ khoa cử, mà trái lại c̣n mở rộng quy mô Thái học, lập các trường Nữ Chân học ở cấp lộ và quận, dùng văn Nữ Chân trong khoa cử để nâng cao tŕnh độ của tộc người ḿnh. Những điều đó khiến văn hóa, học vấn Nữ Chân phát triển mạnh mẽ hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó.
Đối với Nam Tống, Kim Thế Tông giữ lập trường thực dụng và mềm dẻo. Sau khi Hoàn Nhan Lượng chết, ông lập tức đề nghị băi binh, trả lại các vùng đất chiếm đóng và giải ngũ phần lớn binh sĩ để ổn định kinh tế. Khi Nam Tống đổi sang chủ chiến dưới thời Tống Hiếu Tông, ông buộc phải phản công để gây sức ép rồi chủ động giảm điều kiện đàm phán, chấp nhận thiết lập quan hệ “chú – cháu” thay v́ “quân – thần”, và cuối cùng kư Ḥa ước Long Hưng năm 1165, giúp hai nước tránh được chiến tranh kéo dài.
Nh́n lại toàn bộ thời kỳ trị v́ của Kim Thế Tông, có thể thấy ông là một hoàng đế kết hợp nhuần nhuyễn giữa vơ lược và chính trị, giữa cương quyết và khoan ḥa, giữa truyền thống Nữ Chân và giá trị Hán học. Triều đại Đại Định dưới tay ông được xem là thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Kim. Ông mất năm 1189, để lại một di sản lớn về tổ chức nhà nước, quản trị xă hội, chính sách dân tộc, văn hóa và kinh tế. Hoàn Nhan Ung không chỉ là vị hoàng đế kiệt xuất bậc nhất của nhà Kim mà c̣n là một trong những minh quân nổi bật của lịch sử Trung Quốc thời trung thế kỷ.
Vietbf @ Sưu tầm