Một chữ “Kiều” nghe êm mà nghĩa lại tạm bợ
“Kiều” ở đây không phải nàng Kiều của Nguyễn Du, mà là chữ 僑 trong “Việt kiều”. Chữ này có nhiều lớp nghĩa: khi là động từ, Kiều là ăn nhờ ở đậu, “kiều cư” là sống nhờ nơi đất khách; khi là danh từ, Kiều chỉ người sống nhờ xứ khác, như “Hoa kiều”; khi là phó từ, Kiều lại mang nghĩa tạm thời, mượn danh, mượn chỗ. Dù đứng ở vai nào, chữ “Kiều” vẫn phảng phất cái bóng trôi nổi, bềnh bồng, chưa thuộc về. V́ vậy, câu chuyện “Việt kiều” không chỉ là đúng–sai của từ vựng, mà là cảm giác: một tiếng gọi có thể vô t́nh biến một đời người thành “khách tạm”.
Từ sau 30-4-1975: người ra đi thành cộng đồng, thân phận thành căn cước
Từ xưa người Việt cũng có di cư, nhưng lác đác. Chỉ đến sau biến cố 30-4-1975, làn sóng người Việt rời quê mới ồ ạt và h́nh thành cộng đồng lớn ở Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Canada… Trên đất mới, thế giới gọi họ bằng thân phận: “người tỵ nạn” (refugee), “thuyền nhân” (boat people) — những chữ không bóng bẩy nhưng thật. C̣n trong nước, danh từ “Việt kiều” lại được dùng như một chiếc rổ lớn, gọi chung tất cả người Việt sống ngoài Việt Nam. Khi ai đó thành đạt, chữ “Việt kiều” c̣n được dùng như lời tâng bốc, rồi nâng lên thành “khúc ruột ngàn dặm”. Nhưng từ đây nảy ra nghịch lư: “Việt kiều” dần bị hiểu thành “người có tiền”, trong khi những phận người đúng nghĩa “kiều” — tạm bợ, bấp bênh, chui lủi — lại mờ đi.
Việt kiều là ai, và gọi thế nào cho đúng?
Bài viết đặt lại câu hỏi rất sắc: nếu hiểu sát nghĩa, “Việt kiều” phải là người c̣n quốc tịch Việt Nam nhưng đang sống ở nước khác. C̣n một người đă có thẻ thường trú hoặc đă nhập tịch, th́ về pháp lư họ không c̣n là công dân Việt Nam nữa; họ là người Mỹ, người Pháp, người Đức… gốc Việt. Họ đóng thuế, bầu cử, chịu luật của xứ sở mới; khi về Việt Nam, họ về bằng hộ chiếu nước họ mang và quyền lợi được bảo hộ bởi đại sứ quán nước họ. V́ vậy, gọi họ là “Việt kiều” dễ tạo nhập nhằng và đôi khi khiến họ thấy bị “kéo ngược” vào một ràng buộc đă cắt đứt. Nhiều b́nh luận hưởng ứng đúng tinh thần ấy: “Hăy trả lại tiếng gọi cho đúng: người Việt hải ngoại, người Mỹ gốc Việt, người Úc gốc Việt.” Có người c̣n nói thẳng, nghe chát mà đau: “Bị kêu Việt kiều là họ chửi ḿnh đó.” Bởi trong trải nghiệm của không ít người xa xứ, danh xưng này đôi khi không phải để tôn trọng, mà để “nịnh cho tiện”, để gợi nhắc ngoại tệ, để mời gọi đóng góp.
Cảm xúc từ b́nh luận: tủi thân, giận dữ, rồi chán nản “kệ đi”
Điều làm câu chuyện nóng lên chính là cảm xúc trào ra từ b́nh luận. Có người đọc xong “tĩnh ngộ”, v́ tự nhiên thấy hóa ra một chữ tưởng b́nh thường lại mang theo thái độ nh́n người: khi anh có tiền th́ anh là “khúc ruột”, khi anh bấp bênh th́ anh là “kẻ bỏ đi”, khi anh cần được cưu mang th́ chẳng ai ngó, nhưng khi anh có thể “cưu mang” quê nhà bằng đô-la th́ người ta nhớ. Có b́nh luận chỉ ra đúng cái khó chịu ấy: không phải khinh bỉ người bị gọi, mà khinh bỉ kẻ dùng lời lẽ ngọt để kiếm chác. Nhưng cũng có luồng khác thản nhiên: “Gọi ǵ th́ gọi, tôi chỉ biết tôi là người Việt tỵ nạn,” hoặc “chừng nào đặt chân xuống Việt Nam th́ tôi là Việt kiều, c̣n ở Mỹ tôi là người Việt.” Đó là kiểu tự vệ của nhiều người: thôi đừng căi nữa, càng căi càng mệt, càng nói càng lộ ra những vết nứt cộng đồng. Và đúng như vậy, càng xuống sâu, phần b́nh luận càng dễ trượt thành công kích, chụp mũ, mạt sát nhau — để rồi từ một câu chuyện chữ nghĩa lại thành một cuộc đối đầu quá khứ.
“Kiều bào”, “khúc ruột”, và nghịch lư bị tráo nghĩa
Bài viết nhắc “kiều bào” như một biến thể mới của “Việt kiều”: nghe mềm hơn, thân t́nh hơn. Nhưng nhiều người vẫn thấy cái bóng “níu kéo” phía sau, như thể cứ mang gốc Việt là bị gom vào “dân nước ḿnh” để tiện kêu gọi, vận động, khuyến dụ. Cái nghịch lư nằm ở chỗ: “Việt kiều” đúng nghĩa chữ Kiều phải là những người tạm bợ, ăn nhờ ở đậu; vậy mà thực tế xă hội lại dùng “Việt kiều” để gọi nhóm thành đạt, có của ăn của để. C̣n những người xuất khẩu lao động, du học sinh tu nghiệp, người ở lại bất hợp pháp, công nhân sống bấp bênh — những “kiều” đúng nghĩa nhất — lại thường bị lăng quên, thậm chí bị nh́n bằng con mắt khinh thị. Thế là chữ bị tráo nghĩa: người đáng được cưu mang th́ bị bỏ quên, c̣n người có thể “cưu mang” bằng ngoại tệ th́ được nâng niu.
Gọi đúng không phải để hơn thua chữ nghĩa, càng không phải để làm sang. Gọi đúng là để khỏi nhầm thân phận và để giữ sự tử tế tối thiểu với nhau. Ai c̣n quốc tịch Việt Nam sống ở nước ngoài, gọi “Việt kiều” có thể hợp nghĩa. Ai đă là thường trú nhân lâu dài hoặc đă nhập tịch, hăy gọi “người gốc Việt”, “người Việt hải ngoại”, hoặc cụ thể: “người Mỹ gốc Việt”, “người Úc gốc Việt”… Một tiếng gọi đúng không làm ai giàu lên, nhưng có thể làm ḷng người bớt tủi; và quan trọng hơn, nó để lại cho thế hệ sau một sự rành mạch, để một chữ không trở thành sợi dây trói, và một danh xưng không biến thành chiếc lưới quăng lên đời người.