Năng suất lao động chung đă thấp, năng suất lao động của khu vực thu hút đến hơn 86% lao động có việc làm trong nền kinh tế lại chỉ bằng một nửa so với năng suất lao động xă hội. Nghịch lư này đang là thách thức lớn của Việt Nam khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu…
Sắp hết dư địa
Theo số liệu của các tổ chức quốc tế (ILO, ADB, ASEAN) năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam năm 2013 quy đổi theo giá trị cố định 2005 PPP đạt 5.440 USD/lao động, bằng 1/8 NSLĐ của Singapore, bằng 1/6,5 so với Malaysia, 1/3 Thái Lan và Trung Quốc. Trong khu vực ASEAN, hiện tại NSLĐ của VN cao hơn Myamar, Campuchia và chỉ xấp xỉ với Lào.
Theo TS Đặng Thị Thu Hoài, Phó Trưởng ban Chính sách dịch vụ công, Viện Nghiên cứu và quản lư kinh tế TƯ (CIEM), thực ra NSLĐ được so sánh với các nước là NSLĐ của toàn xă hội chứ không phải là NSLĐ ngành, NSLĐ cá nhân. TS Hoài cho rằng, mặc dù NSLĐ của Việt Nam vẫn c̣n thấp nhưng đă có một số bước cải thiện. Bằng chứng là nếu như năm 2007 mức NSLĐ b́nh quân/lao động của các nước ASEAN gấp 2,12 lần so với NSLĐ của Việt Nam th́ đến năm 2013, tỷ lệ này đă giảm xuống c̣n 1,98 lần. Tương tự, so sánh với các nước Singapore, Thái Lan, Philippines, tỷ lệ này giảm tương ứng từ 21,35 lần, 3 lần, 2,04 lần xuống c̣n 18,03 lần, 2,71 lần và 1,84 lần… Nguyên nhân được chỉ ra là do gia tăng NSLĐ nội bộ ngành chuyển dịch kinh tế (từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ) và lợi thế lao động giá rẻ.
“Đáng chú ư là những yếu tố là gia tăng NSLĐ (như xuất phát điểm thấp, nguồn lao động dồi dào và rẻ) đă đang mất dần. Các điều kiện bên ngoài ngày càng trở nên khó khăn, cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng gay gắt trong khi đó c̣n có nhiều thách thức, cản trở quá tŕnh gia tăng NSLĐ của Việt Nam trong thời gian tới…”- TS Hoài lưu ư.
Con trâu đi trước cái cày đi sau.
Nghịch lư…
Theo TS Nguyễn Đ́nh Cung, Viện trưởng CIEM, thực ra các công bố về NSLĐ của Việt Nam của các tổ chức quốc tế cũng không khác so với những công bố của Việt Nam trước đó; tuy nhiên hiện nay dư luận chú ư nhiều hơn bởi trong bối cảnh hiện nay, tăng NSLĐ chính là động lực của tăng trưởng. TS Cung cũng tỏ ra lo ngại bởi NSLĐ ở khu vực phi chính thức chiếm phần lớn số lượng lao động lại đang rất thấp. Điều này rất khó khăn khi Việt Nam gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu.
Số liệu của Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xă hội cho thấy, năm 2013, khu vực ngoài nhà nước chiếm 86,3% tổng số việc làm là khu vực có NSLĐ rất thấp, chỉ bằng 56% NSLĐ chung (chỉ đạt 38,4 triệu đồng/lao động), trong khi đó khu vực nhà nước chiếm 10,2% việc làm của nền kinh tế có NSLĐ bằng 3,1% lần NSLĐ chung (đạt 216,5 triệu đồng/lao động). Khu vực có NSLĐ cao nhất là khu vực FDI, bằng 5,7 lần NSLĐ chung (đạt 392 triệu đồng/lao động) nhưng lao động khu vực này chỉ bao phủ 3,4% lao động có việc làm cả nước.
Với số lượng doanh nghiệp (DN) có quy mô nhỏ và vừa chiếm đa số trong nền kinh tế, trong đó chủ yếu là DN ngoài nhà nước, theo nh́n nhận của các chuyên gia, việc gia tăng NSLĐ là việc rất khó trừ khi gia tăng quy mô hơn nữa, trong khi đó, tốc độ chính thức hóa (đồng nghĩa với gia tăng quy mô) hiện nay c̣n rất thấp, thậm chí có xu hướng giảm dần những năm gần đây.
Một trong những giải pháp quan trọng để tăng NSLĐ một cách bền vững nhất là ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN) , tuy nhiên, theo TS Thu Hoài, nền kinh tế đang đứng trước nghịch lư, cản trở quá tŕnh ứng dụng tiến bộ KHCN. “Điểm mấu chốt là những DN có khả năng để đáp ứng công nghệ (khả năng về tài chính, nhân lực và cơ sở vật chất) th́ không nhiều động lực để đổi mới KHCN, đó là DNNN và DN FDI, trong khi những DN cần đổi mới là khu vực tư nhân trong nước lại không có điều kiện (về tài chính, nhân lực)…”- TS Hoài nói. Chính quy mô vốn nhỏ lẻ, khả năng tiếp cận vốn hạn chế cùng với môi trường cạnh tranh chưa b́nh đẳng đă không thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ ở khu vực này.
therealrtz ©VietSN