Đời người như cuốn tiểu thuyết nhiều chương, với chương đầu “Sinh” và cuối “Tử” ai cũng giống nhau. Những chương còn lại, dọc theo cuộc sống lần lượt cũng được đóng lại hoặc mở ra. Hiếm hoi nhưng đôi khi nhân vật trong truyện cũng có thể tự đóng chương cho mình. Và dường như một chương sách của cuộc đời nó vừa được tự nó kết thúc…
Tại sao mình cứ thích rắc rối cuộc đời? Thắc mắc là thế nhưng lòng nó nhẹ tâng …
Ngày 29 tháng 6, 1981 - 30 năm trước, 3 anh em Thắng, Lân, Dũng lếch thếch theo đoàn người nối đuôi nhau lên một chiếc máy bay lớn rời phi trường Singapore để bay tới đệ tam quốc gia, chấm dứt những tháng ngày lất lây bên những trại tị nạn trong vùng Đông Nam Á. Nếu ai đã không vượt biên thời cuối 70, 80 hay ngay cả 90 chắc sẽ không biết: Đệ nhị quốc gia là nơi có những trại tị nạn được mở ra để chứa chấp bạn tạm thời khi bạn ra khỏi Việt Nam bằng đường thủy hay đường bộ. Đệ tam quốc gia sẽ là nơi chấp nhận chấp chứa bạn trong suốt quãng đời còn lại.
Nguyên một chuyến máy bay lớn lắm được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) mướn để chở hàng trăm người qua miền đất hứa, miền đất có vị nữ thần Tự Do thật lớn cầm đuốc “hùng dũng” phóng tia mắt thẳng ra biển như đón chờ. Như thế mà may, đám người đen đúa, lem nhem ấy đã không phải chen lẫn vào những hành khách trả tiền khác, không phải tránh những tia mắt e dè ném tới nếu có. Mà chắc sẽ có chứ, đám người tị nạn ấy, họ ốm o, đen đủi và lem luốc quá mà, da mốc meo bởi những tháng ngày nắng nôi tắm suối, ăn uống kham khổ, thiếu thốn tột cùng. Và họ cũng lớ ngớ, đã 6 năm qua rồi ngay cả những người đã từng bay tới lui đó đây trước 75 cũng quên mất cả những thủ tục cần thiết khi đi du hành…
Bề ngoài thì thế nhưng ánh mắt đám người này ánh lên niềm sung sướng, niềm hạnh phúc về tương lại trước mặt, bỏ lại đàng sau một quê hương tuy khốn đốn nhưng vẫn đầy quyến luyến. Ấy đám người đông chật ních cả chuyến máy bay nhưng bên dưới khoang chứa đồ gởi lại trống rỗng, có ai có đồ đâu mà gởi? Hành trang mỗi người ai cũng như ai, một cái túi xách trắng của hội ICEM bên trong có cao lắm là 2 bộ quần áo lành lặn nhất vào một bao đựng tấm phim chụp hình phổi cá nhân.
Máy bay Mỹ lận đó nhé, những cô tiếp viên hàng không da trắng, tóc vàng mắt xanh đẹp như thiên thần có cánh gắn trên hang đá Chúa Hài Đồng ở khuôn viên giáo đường mỗi dịp Giáng Sinh. Những chuyến bay như thế này chắc mấy cô nản và mệt hơn những chuyến bay khách bình thường khác nhiều. Đám người tị nạn hay lắm là chỉ lõm bõm chứ có mấy ai đã lưu loát rành nhiều tiếng Anh? 3 anh em mình xui xẻo bị ngồi ngay hàng đầu, đối diện với ghế của cô “thiên thần” mỗi khi máy bay cất cánh và đáp xuống. Cô ta thơm phức, quần áo trắng tinh, còn 3 anh em thì dầu gắng hết sức quần áo thì xốc xếch, chân thì dép mòn lẹp xẹp, tóc tai xác xơ. Làm sao tránh được ánh mắt của nhau khi ngồi đối diện cách nhau chỉ hơn một sải tay như thế? Thằng em mặc cảm! Thằng em không muốn phải đối mặt, chịu những cái nhìn thương hại nếu có…
Thế rồi cũng tới St. Louis, ngày 2 tây tháng 7 năm 1981. Thành phố tạm dung đầu tiên của 3 anh em trên đất Mỹ, một thành phố không cũ mà cũng chẳng mới ở miền Trung Mỹ, thuộc tiểu bang Missouri. Trên đường được lái về, phố phường gì mà đi đâu mà khắp chốn chỉ thấy toàn những ngôi nhà gạch đỏ, chẳng thấy bóng người, buồn hiu hắt. Có tiếng thở dài được nén vào trong cùng với nhiều nỗi buồn vui lẫn lộn từ 3 anh em…
Căn apartment đầu tiên trên lầu 6 ở trong một building cũ, góc đường West Pine nhỏ nhỏ mà thấy như rộng rinh vì chẳng có tí đồ đạc. Sau này, nhiều lần mò về tìm lại building cũ đầy kỷ niệm này nhưng nay cũng đã bị đập đi và nhập vào khuôn viên của trường Đại Học WashU nổi tiếng của tiểu bang.
Ngày 3 tây tháng 7, nhờ sự chỉ dẫn của một gia đình người tới trước, 3 anh em cầm số tiền nhỏ mò mẫm tới những tiệm đồ cũ gần nhà để mua những thứ cần thiết. Áo quần thì chỉ vài chục xu thôi, đồ cũ mà măng mắc lên tới một đô thì đừng thắc mắc và cũng đừng đụng tới chi cho mắc công thèm thuồng… Trên đường về lại nhà, nắng mùa hè ở St. Louis như tóe lửa, một chiếc xe con cóc nhỏ màu xanh lá cây tấp vào lề, bóng người chồm ra với nụ cười tươi rói, tiếng Việt ra rả:
–”Ê, Việt Nam hả? Người Việt phải không?”
3 anh em chưa kịp phản ứng trước sự vồn vã của người đàn ông trẻ xa lạ ấy. Anh Thắng - người anh cả- chỉ vội gật đầu: “Thưa vâng…” Và thế là cái duyên gặp và quen với anh Ngư, một người qua từ năm 75. Những ngày đầu tiên trên đất nước xa lạ toàn những bỡ ngỡ ấy mà quen được ai đó biết tình hình, đường xá, được sự chỉ dẫn tận tình, được cho những câu trả lời của những thắc mắc thì thật sự mừng lắm chứ, quí lắm chứ!
Ngày 4 tháng 7, 1981, lễ Độc Lập đầu tiên ở Mỹ, anh Ngư chở 3 anh em đi ra chiếc cổng vòng cung khổng lồ bằng thép nổi tiếng của thành phố St. Louis, ngay cạnh bờ sông để ngắm thành phố bắn pháo bông đón mừng. Đẹp quá, huy hoàng tráng lệ quá đi, một trong những kỷ niệm in hằn suốt đời chắc sẽ chẳng quên. Chiếc cổng vòng cung thật cao, thật hùng vĩ được dân Mỹ gọi là “The Gateway to the West” - Cửa Ngõ Qua Miền Tây Hoa Kỳ, quá độc đáo và độc đáo nhất vẫn là những luồng gió Tự Do phần phật thổi khắp chốn. Thế mà rồi bao nhiêu năm mất liên lạc, muốn tìm lại anh Ngư để cám ơn một tiếng mà kiếm chẳng ra. Thôi thì hy vọng một ngày nào đó anh đọc được dòng chữ này thay cho lời cám ơn đối mặt vậy.
Dòng đời đều quay, bao nhiêu đổi thay, trắc trở, để rồi đúng lại vào dịp lễ Độc Lập của đúng 30 năm sau, Dũng - đứa em nhỏ nhất trong 3 anh em, nay đã trở thành Don Hồ, người ca sĩ - quyết định không nhận show trình diễn vào mùa chạy show “hot” nhất trong năm, lấy vé máy bay vòng ngược tìm lại chốn cũ ở bên bờ biển Đông.
Nó cũng không hiểu sao lại lấy mốc thời điểm 30 năm này, và cũng không muốn đào sâu vào muôn vàn mớ lý do, thằng em chỉ biết một điều gì đó trong thâm tâm có cái gì đó thúc dục nó phải trở lại để giải tỏa những nhoi nhói, khắc khoải trong tâm hồn.
Và … nó đã đáp máy bay trở lại, đúng …10,950 ngày sau.
Nó đi tìm lại những chốn trại tị nạn xa xưa nó đã đi qua. Nó muốn ra tới vịnh Thái Lan hãi hùng của một thời, đặt một vòng hoa và cầu nguyện cho bao người người đã không may mắn bỏ mình trong lòng biển sâu.
Trại tị nạn Panat Nikhom đầy bụi bậm, nóng đến giẫy người. Khu nhà không cây cối rào từng lớp dầy kẽm gai ở thị trấn Chonburi, 100 cây số về phía đông của thành phố Bangkok, Thái Lan, nay đã trở thành trại lính. Ngoài cái khí hậu nóng ẩm khó chịu làm rịn mồ hôi là quen quen thôi chứ đứng ngoài dòm vào, ngó mãi, ngó tới, ngó lui mà vẫn không nhận ra được một nét quen thuộc! Người tài xế nói chắc chắn là nơi đây rồi thề sống thề chết là không nói dối. Thằng em chợt sực nhớ ra là thời ấy trong trại bị biệt lập với bên ngoài, có khi nào được ra cổng trại ngó vào đâu mà biết cổng trại ngó ra thế nào! Đang bùi ngùi moi lại ký ức thì bị lính trong trại ra đuổi. Giơ máy lên định chụp một tấm thì bị xua tay la ầm cấm vì là khu quân sự…
Trại tị nạn Songkhla ở miền Nam nước Thái trong khu vực không mấy an ninh, được khuyên trong thời gian bầu cử hiện tại của nước này không nên tới…
Thằng em đành mướn con thuyền máy chân vịt chạy dọc trên con sông Phraya xuyên thủ đô Bangkok của xứ Thái, chạy ngang qua những ngôi chùa cổ thiêng, thả từng cánh hoa lài trắng thơm thơm với lòng thành hy vọng những cánh hoa sẽ được dòng nước cuốn trôi theo ra biển, sẽ mang tí ấm áp của câu kinh đến vong linh của những con người vượt biên khi xưa bỏ mình trên biển mà linh hồn vẫn vướng vất, chưa được siêu thoát. Thằng em mua bánh mì từ những vị thiền sư để thả cho cá chép trên sông ăn. Thằng em mua chim sẽ thả đầy trời, rồi đi tới chùa mua từng cành sen lạy phật. Mua những mảnh vàng lá mỏng dát lên những bức tượng phật ngồi khoanh chân với nụ cười buồn buồn thật vị tha…

Ngồi trên con tàu nhỏ bồng bềnh nước văng tung tóe trên dòng sông Phraya, tiếng bành bạch của máy tàu làm nó rờn rợn, nhớ đến con tàu vượt biên nhỏ bé nhảy chồm trên sóng năm nào. Anh em, gia đình nó thế là quá may mắn chứ có biết bao gia đình mất người thân, mất bố mẹ, mất con trên biển. 30 năm qua rồi nhưng có những vết thương vẫn như không bao giờ lành hẳn trong nhiều gia đình.
Và nó chợt thấu hiểu ra sự cần thiết của sự trở lại nơi này: Để nó kiếm lại được sự bình an của tâm hồn. Để kiếm ra câu hỏi có lẽ nhiều người đã cho là vớ vẩn nhưng riêng bản thân nó hằng trắc trở: “Một lần nó là thuyền nhân có sẽ suốt đời là thuyền nhân?”. Nó biết cho dù nó trở thành gì gì đi chăng nữa, cho dù có ở đâu, làm gì thì cái “vết thuyền nhân” tuy đã lành nhưng đã thành sẹo nổi nằm ở mãi trong lòng.
Gần cuối chuyến đi, nó cảm thấy dường như sâu kín trong tâm tư một trang sách của cuộc đời vừa tự được nó xếp lại. Xếp lại rồi trân trọng cất đâu đó trong một góc khuất lâu lâu chắc sẽ lại được lôi ra … phủi bụi, ôn lại….
Và bỗng dưng nó thấy lòng trở nên nhẹ nhàng, thanh thản lạ thường …
DON HỒ
Bangkok, July 4, 2011
www.donhoproduction.com