Tướng Colin Powell tại tượng đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam, 11/11/2007.
Nghe tin ông qua đời, tôi mới nhớ ra Tướng Colin Powell là chính khách Mỹ duy nhất mà tôi đă ngồi nghe đọc một bài diễn văn từ đầu tới cuối. Nghe các chính trị gia nói không phải là một điều thích thú ǵ v́ ḿnh biết họ chỉ nói để kiếm phiếu. Hồi ở Việt Nam tôi chỉ nghe hai chính trị gia đọc diễn văn từ đầu tới cuối, v́ làm việc cho chính phủ nên phải đến để ngồi nghe đến phút cuối. Các diễn giả lư luận rất sắc bén; nhưng giọng nói đều đều như các thầy giáo của họ không làm cho trái tim ḿnh rung động một chút nào.
Ông Colin Powell th́ khác. Tôi t́nh cờ được nghe ông nói trong một bữa tiệc gây quỹ của Đại học Cal State Fullerton. Nghe Colin Powell nói, tôi mới biết tài hùng biện của một chính khách ở xứ này. Ngay từ phút đầu, sau khi thực khách đă ăn đĩa tráng miệng, ông Powell đă lôi cuốn mọi người với những câu pha tṛ hấp dẫn mà tế nhị, không
"rẻ tiền". Giọng nói ấm áp, rơ ràng, lời lẽ giản dị. Trong nửa tiếng đồng hồ nghe ông, có lúc ai cũng phải bật cười, rồi khi được ông khích động những t́nh cảm cao thượng trong ḷng, tất cả lại bùi ngùi cảm động.
Sau chiến thắng ở Iraq lần thứ nhất, năm 1991, ông Colin Powell là một ngôi sao đang lên. Ông trở thành Tham mưu trưởng Liên Quân trong hai đời Tổng thống, George H.W. Bush và Bill Clinton. Nhiều người trong đảng Cộng Ḥa đề nghị ông ra ứng cử năm 1996. Năm 1995 ông đă xuất bản cuốn tự truyện về
"Cuộc Hành Tŕnh" của ḿnh, có tựa đề
"My American Journey". Các chính khách sắp ứng cử Tổng thống đều chuẩn bị theo sách này. Tổng thống Bill Clinton lúc đó đang bị hạch hỏi v́ chuyện trai gái trong Ṭa Bạch Ốc. Powell có nhiều hy vọng thắng, sẽ thành vị Tổng thống Mỹ đầu tiên là con của một di dân da đen!
Nhưng cuối cùng Powell không ứng cử. Có tin tiết lộ rằng bà vợ ông khuyên can. Mặc dù tư tưởng ông có khuynh hướng bảo thủ, nhưng bản chất ông chỉ là một người chỉ huy, một quản trị gia. Ông khó thay đổi chính ḿnh khi cần chiều theo thị hiếu của cử tri. Cũng không mang một
"bản ngă" đủ mạnh để thu hút quần chúng vốn thích những
"người hùng". Nhưng có một lư do khác, có thể v́ ông và bà Alma Johnson Powell nghĩ rằng dân Mỹ chưa sẵn sàng bầu lên một vị Tổng thống da đen.
Bà Alma Johnson sinh ra ở Birmingham, Alabama, nơi tinh thần kỳ thị chủng tộc rất mạnh; các nhóm
“da trắng thượng đẳng” từng đốt nhà thờ của người da đen. Bố mẹ ông di cư từ Jamaica, Powell may mắn sinh ra ở Harlem, N.Y. năm 1937, lớn lên ở South Bronx, New York, chung quanh toàn là di dân đủ thứ sắc tộc, không ai quan tâm đến màu da hay tôn giáo của người hàng xóm. Ông gia nhập quân đội, nơi mọi người được đối xử b́nh đẳng hơn bên ngoài. Đó là
“gia đ́nh thứ nh́" của ông, suốt đời. Chỉ đến thời 1950, được thuyên chuyển tới căn cứ Fort Benning, tiểu bang Georgia ở miền Nam, ông mới bắt đầu nếm mùi bị phân biệt chủng tộc.
Trong cuốn tự truyện ông Powell kể lại,
“Tôi có thể đến tiệm Woolworth mua cái ǵ cũng được, nhưng không được phép vào quán ăn, … không được bước vào pḥng vệ sinh dành cho người da trắng". Một bữa nọ, ông ra khỏi căn cứ, ghé vào một tiệm bánh hamburger. Biết người da đen không được vào trong tiệm, ông đứng ngoài cửa sổ đặt món ăn.
Cô gái da trắng bên trong, muốn giúp ông, hỏi:
“Ông là người Puerto Rico?” “Không”.
“Ông là sinh viên Phi châu du học?” “Không. Tôi là một sĩ quan, người Mỹ, Da đen (I’m a Negro)”.
Cô gái phân trần:
"Tôi từ tiểu bang New Jersey, miền Bắc xuống đây. Tôi không biết tại sao, nhưng người ta bảo tôi không thể bán thức ăn cho ông".
Quán hamburger này không bán cho
“negro”. Cô đề nghị sẽ đem cái bánh ra cửa sau đưa ông, cho khuất mắt mọi người. Nhưng Colin Powell từ chối, không chấp nhận giải pháp
“đi cửa sau".
Colin Powell đă đi cửa trước, cứ thế mà tiến tới. Hai lần chiến đấu ở Việt Nam, lên đại tướng, là người trẻ tuổi nhất nhậm chức Tham mưu trưởng, làm Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Reagan, làm Bộ trưởng Ngoại giao thời Tổng thống George W. Bush. Ông được gắn
Huy chương Tự Do (Presidential Medal of Freedom) hai lần.
Năm 1991 Colin Powell nổi bật khi Hoa Kỳ đánh đuổi quân Iraq ra khỏi xứ Kuwait. Quân Mỹ theo lệnh của Tổng thống George W.H. Bush (ông bố) đă dừng chân giữa sa mạc, cho tàn quân Iraq thoát chết chạy về nước. Mười năm sau, thời Tổng thống George W. Bush (con) đánh dấu một điểm
“u tối” trong cuộc đời. Thuyết tŕnh trước Liên Hiệp Quốc, ông chỉ lên các bức h́nh do vệ tinh nhân tạo chụp, t́m cách chứng minh cho cả thế giới thấy Saddam Hussein đă tích trữ các bom vi trùng và bom hóa học, có thể cả bom nguyên tử; để biện minh nước Mỹ phải tấn công Iraq.
Sau khi quân Mỹ chiến thắng, mọi người không thấy một thứ vũ khí hủy diệt tập thể nào. Cả Ṭa Bạch Ốc, chính phủ Mỹ và Ngoại trưởng Colin Powell, đă tin tưởng vào các tin t́nh báo sai lầm. Chính phủ Anh và Liên minh NATO cũng tin như họ. Cuộc chiến Iraq kéo dài cho đến bây giờ.
Đó là một bài học cho Colin Powell. Trước khi tấn công, ông đă nói chuyện với Tổng thống Bush, nêu ra các vấn đề sẽ phải đối phó sau khi chiến thắng. Nhưng sau khi quân Mỹ đánh bại Saddam Hussein, mọi công việc được trao cho Bộ trưởng Quốc pḥng Donald Rumsfeld, và người của ông ta là Paul Bremer. Mọi quyết định ở ngoài tầm tay của ông Ngoại trưởng. Ông Rumsfeld ra lệnh giải tán quân đội Iraq, hàng trăm ngàn người bỗng dưng thất nghiệp, dần dần biến thành quân khủng bố. Khi dân chúng Iraq kéo tới phá cả viện bảo tàng để hôi của, ông Rumsfeld phủi tay, coi đó là chuyện thường t́nh. Powell không được hỏi ư kiến lần nào.
Từ đó ông Powell nhận ra rằng quân đội không phải là thứ
“khí cụ” giản dị cho các vị Tổng thống Mỹ an bài việc thế giới. Từ đó, xuất hiện một
“Lư thuyết Powell” về chiến tranh. Ông chủ trương nước Mỹ chỉ nên tham chiến khi không c̣n con đường nào khác. Trước hết, phải xác định rơ ràng mục tiêu của cuộc chiến, một mục tiêu chắc chắn có thể đạt được, và phải có sẵn một chiến lược rút lui. Cuộc chiến tranh phải có một mục tiêu chính trị rơ ràng, được dân chúng trong nước và được các nước đồng minh ủng hộ. Phải sử dụng tất cả sức mạnh kinh tế, tài chánh cho cuộc chiến với một lực lượng quân sự bảo đảm thành công chắc chắn.
Colin Powell lớn lên trong một nước Mỹ đang thay đổi. Cha mẹ ông được hưởng chính sách mở cửa thâu nhận di dân. Ông nhập ngũ mười năm sau khi quân đội không c̣n phân chia các đơn vị theo màu da. Ông rất hănh diện cả cuộc đời ông được dạy dỗ tại các trường công lập, kể cả trường Đại học Thành phố New York (City College of New York).
“Tôi là một sinh viên CCNY tiêu biểu. Ngôi trường được lập ra để đón nhận các thanh niên nam nữ của các gia đ́nh di dân nghèo. Các bạn học của tôi có khả năng không kém ǵ những sinh viên Harvard, Yale hay Princeton. Họ chỉ thua kém v́ gia đ́nh không có tiền và thiếu quan hệ móc nối. Nhưng khi ra trường họ vẫn có thể cạnh tranh và qua mặt các cựu sinh viên những đại học lớn nhất nước Mỹ”.
Thành công trong cuộc đời của Colin Powell là một bài học cho con cháu các di dân. Có người coi ông là một bằng chứng nước Mỹ không c̣n vấn đề màu da nữa, nhất là sau khi con một di dân da đen đă được bầu làm Tổng thống. Thực ra trong xă hội vẫn nhiều người c̣n mang tâm lư phân biệt chủng tộc, có lúc họ cũng rất lớn tiếng. Trong nước Mỹ vẫn có những người giàu càng giàu thêm, nhiều người nghèo từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Nhưng phải công nhận xứ sở này cho mọi người nhiều cơ hội thay đổi và tiến lên. Con cháu người Việt tỵ nạn ở Mỹ có thể coi Colin Powell là một tấm gương đáng noi theo. Chính các thế hệ di dân nối tiếp nhau góp phần làm nước Mỹ tiến bộ hơn, nhân đạo hơn, và ḥa hài hơn nữa.
{VOA Blog)