Ngoài AK-47 và biến thể, bộ đội Việt Nam từng được trang bị rất nhiều loại súng tiểu liên do nhiều nước sản xuất.
   
  Tiểu liên MAT-49 do nhà máy vũ khí Tulle Pháp sản xuất từ sau Chiến  tranh Thế giới thứ 2. MAT-49 bắt đầu được đưa sang Đông Dương trong giai  đoạn cuối 1950, đầu 1951 và sau đó dần dần thay thế các loại tiểu liên  khác của Anh, Mỹ, Đức để trở thành tiểu liên chủ lực trong quân viễn  chinh Pháp. Trong chiến đấu hàng nghìn khẩu MAT-49 (thường được biết đến  với tên “tiểu liên Tuyn (Tulle)”) đã bị quân dân Việt Nam tịch thu và  cũng nhanh chóng trở thành một trong hai loại tiểu liên chính của bộ đội  chủ lực lúc đó.
 
    
  Trong giai đoạn đầu của kháng chiến chống Mỹ, MAT-49 tiếp tục được các  đơn vị Quân giải phóng miền Nam và dân quân du kích sử dụng với số lượng  lớn. Năm 1962, quân giới Việt Nam thực hiện cải biên MAT-49, thay nòng  súng nguyên bản bằng nòng tiểu liên K50, thay đầu ngắm và cải tiến băng  đạn để lắp đạn K50. Trong 2 năm 1962-1963, trên 2.000 khẩu MAT-49 được  cải tiến và đưa vào chi viện cho miền Nam.
 
    
  Thông số MAT-49 nguyên bản/MAT-49 cải tiến gồm: cỡ đạn 9x19mm/7,62x25mm  (hộp tiếp đạn 32 viên); tốc độ bắn 600/900 phát/phút; tầm bắn hiệu quả  150m.
 
    
  Tiểu liên Sten do nhà máy vũ khí Enfield (Anh) phát triển và sản xuất  ngay trong chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm  lược Đông Dương, quân Pháp tiếp tục sử dụng khá nhiều tiểu liên Sten do  Anh cung cấp. Về phía Việt Nam, một số ít Sten được tiếp nhận từ viện  trợ của tổ chức tình báo OSS (Mỹ) vào năm 1945, nhưng chủ yếu là tịch  thu được từ quân Anh, Pháp trong chiến đấu. Sten dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp  tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 550 phát/phút và tầm bắn hiệu quả  150-200m.
 
    
  Tiểu liên Lanchester do công ty vũ khí Sterling (Anh) phát triển từ năm  1940 để trang bị cho Hải quân Hoàng gia Anh. Trong kháng chiến chống  Pháp, Việt Nam sử dụng một số tiểu liên Lanchester, có lẽ xuất phát từ  chiến lợi phẩm thu được hoặc mua qua con đường bí mật từ Thái Lan,  Malaysia. Lanchester dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 hoặc 50 viên),  tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.
 
    
  Tiểu liên Thompson do nhà thiết kế J.T. Thompson phát triển từ trong  Chiến tranh thế giới thứ 1 và trang bị cho Quân đội Mỹ sử dụng rộng rãi  trong nhiều năm. Sau này, chúng được Quân đội Pháp sử dụng nhiều trong  cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bộ đội ta thu giữ được hàng nghìn  khẩu loại này và trang bị để đánh Pháp. Bên cạnh những biến thể của Mỹ,  Việt Nam còn sử dụng biến thể do Trung Quốc chế tạo và một số ít do các  xưởng quân giới tự sản xuất.
 
    
  Thông số biến thể Thompson (M1921/M1928/M1) gồm: dùng cỡ đạn 11,23x23mm  (hộp tiếp đạn 20/30/50/100 viên cho biến thể M1921/M1928 hoặc 20/30 viên  cho M1); tốc độ bắn 1.000/700/700 phát/phút; tầm bắn hiệu quả 100-150m.
 
    
  Tiểu liên M3 được Mỹ nghiên cứu phát triển từ đầu năm 1941 với ý định  thiết kế một loại súng đơn giản, rẻ tiền và dễ sản xuất hơn nhằm thay  thế cho tiểu liên Thompson. Trong kháng chiến chống Pháp, ta thu được  một số lượng không nhỏ tiểu liên M3, cùng với đó là một số biến thể do  Trung Quốc “sao chép”.
 
    
  Đặc biệt, một số biến thể kiểu 37 được quân giới Việt Nam cải tiến gắn  thêm nòng giảm thanh để trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động và  thường được biết đến dưới cái tên “tiểu liên Mã Lai”. Loại tiểu liên M3  dùng đạn 11,23x23mm (hoặc 9x19mm với một số biến thể), hộp tiếp đạn 30  viên, tốc độ bắn 450 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50m.
 
    
  Tiểu liên Madsen do Đan Mạch thiết kế và chế tạo với nhiều biến thể như  kiểu 1946 (M-46), kiểu 1950 (M-50) và kiểu 1953 (M-53). Trong chiến  tranh Việt Nam, loại súng này thường được trang bị cho các đơn vị biệt  kích của Pháp, Mỹ và Quân đội Sài Gòn. Một số ít đã bị quân dân Việt Nam  tịch thu trong chiến đấu và sử dụng lại. Madsen dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp  tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 480 phát/phút (hoặc 550 phát/phút với  biến thể M-50/M-53), tầm bắn hiệu quả 100m.
 
    
  Tiểu liên PPSh-41 do Liên Xô phát triển từ năm 1940 và sản xuất hàng  loạt từ năm 1942. Trong 5 năm, trên 5 triệu khẩu PPSh-41 được sản xuất  và viện trợ rộng rãi cho các quốc gia đồng minh. Từ năm 1951, Việt Nam  tiếp nhận những khẩu PPSh-41 đầu tiên là phiên bản kiểu 50 do Trung Quốc  sản xuất và loại súng này nhanh chóng trở thành một trong những kiểu  tiểu liên chính của bộ đội chủ lực trong kháng chiến chống Pháp dưới tên  gọi K50.
 
    
  Tiểu liên K50 được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ, sau đó còn tiếp tục  đóng vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ  Tổ quốc, được các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng rộng rãi trong  giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh biên giới phía Bắc năm  1979.
 
    
  Đặc biệt, đầu năm 1962, để phục vụ yêu cầu giữ bí mật nguồn cung cấp vũ  khí cho miền Nam, quân giới Việt Nam thay vỏ bọc mới, thay báng gỗ bằng  báng rút bằng thép để cải tiến cho K50 có hình dạng tương tự tiểu liên  MAT-49 của Pháp. Tính đến năm 1968, trên 10.000 khẩu K50 được cải tiến  (thường được phương Tây biết đến dưới cái tên K50M) và đưa vào chi viện  cho miền Nam. Súng PPSh-41/K50 dùng cỡ đạn 7,62x25mm, tốc độ bắn 900/700  phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-250m.
 
    
  Tiểu liên PPS-43 do Liên Xô phát triển từ năm 1942 nhằm đáp ứng yêu cầu  về một loại tiểu liên gọn nhẹ, rẻ tiền, dễ chế tạo trang bị cho các đơn  vị xe tăng, lính dù và trinh sát của Liên Xô. Trong thời gian 1943-1946,  trên 2 triệu khẩu được chế tạo, trang bị cho Hồng quân cùng nhiều quốc  gia đồng minh của Liên Xô.
 
    
  Việt Nam được Liên Xô viện trợ số lượng lớn PPS-43 trong giai đoạn kháng  chiến chống Mỹ và đưa vào sử dụng phổ biến trong giai đoạn trước 1967  dưới tên gọi K43. Loại súng này còn được các lực lượng vũ trang địa  phương sử dụng trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979.  Súng dùng cỡ đạn 7,62x25mm (hộp tiếp đạn 35 viên), tốc độ bắn 500-600  phát/phút, tầm bắn hiệu quả 200m.
 
    
  Tiểu liên MP-38/40 do Đức nghiên cứu phát triển từ những năm 1930 để  trang bị cho quân đội nước này dùng phổ biến trong Chiến tranh thế giới  2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân Pháp sử  dụng số lượng lớn tiểu liên MP-38/40. Quân dân Việt Nam thu được nhiều  khẩu và sử dụng lại trong chiến đấu cho đến tận thời kỳ đầu kháng chiến  chống Mỹ. Súng dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 500  phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100m.
 
    
  Tiểu liêu SA25 và SA26 do Tiệp Khắc phát triển sau Chiến tranh thế giới  2. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp Khắc viện  trợ một số phiên bản báng gập nhưng loại súng này xuất hiện và được sử  dụng không nhiều.
 
    
  Thông số kỹ thuật tiểu liên SA25/SA26 gồm: dùng cỡ đạn 9x19/7,62x25mm;  hộp tiếp đạn 24-40 viên đối với SA25 và 32 viên với SA26; tốc độ bắn 650  phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-200m.
 
    
  Tiểu liên Skorpion kiểu 1961 do Tiệp Khắc nghiên cứu thiết kế từ cuối  những năm 1950. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Tiệp  Khắc viện trợ một số tiểu liên Skorpion và chủ yếu trang bị cho các đơn  vị đặc công biệt động dưới tên gọi K61. Súng dùng cỡ đạn 7,62x17mm (hộp  tiếp đạn 10-20 viên), tốc độ bắn 850 phát/phút, tầm bắn hiệu quả  25-50m.
 
    
  Tiểu liên kiểu 63 hay PM-63 do Ba Lan phát triển từ những năm 1950-1960.  Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam được Ba Lan viện trợ một số tiểu  liên PM-63 và chủ yếu trang bị cho các đơn vị đặc công, biệt động dưới  tên gọi P63. Súng dùng cỡ đạn 9x18mm, hộp tiếp đạn 15-25 viên, tốc độ  bắn 650 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 100-150m.
 
    
  Tiểu liên Type 64 do Trung Quốc phát triển dành cho lực lượng trinh sát,  biệt kích. Trong kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam nhận một số lượng nhỏ  Type 64 trang bị cho lực lượng công an vũ trang dưới tên gọi K64. Súng  dùng cỡ đạn 7,62x25mm, hộp tiếp đạn 30 viên, tốc độ bắn 1.300 phát/phút,  tầm bắn hiệu quả 150-200m.
 
 TM