
Hình minh họa
Như chúng ta đã biết, Mao Trạch Đông hết sức bất mãn với quyết định chiến tranh Triều Tiên của Xtalin. Trong ý định của Mao, giải phóng Đài Loan là việc phải làm trước, bây giờ lại phải làm sau và ông ta chỉ chờ cơ hội là quyết tâm thực hiện.
Ngay sau khi cuộc chiến Triều Tiên vừa kết thúc, Quân uỷ Trung ương TQ họp ở Hàng Châu. Hội nghị trước tiên nghe Tư lệnh Quân Chí nguyện nhân dân TQ báo cáo về tình hình Triều Tiên. Người ta thấy Mao vừa say sưa hút thuốc vừa chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng khẽ gật đầu, đôi khi lại cười nhạt.
Báo cáo vừa xong, Mao đột nhiên nói:
- Triều Tiên đình chiến, gánh nặng trên vai chúng ta nhẹ đi rất nhiều, nhưng e rằng chưa thể lơ là, phải chuẩn bị sẵn sàng, đề phòng ngọn lửa chiến tranh lại bùng lên, phòng trước thì sau không mắc họa. Chúng ta hiện nay đã có thể rảnh tay, tôi thấy cần tập trung lực lượng giải quyết vấn đề Đài Loan. Ngay từ bây giờ phải bắt tay vào chuẩn bị, muốn được yên ổn lâu dài, không giải phóng Đài Loan không xong. Xin các vị phát biểu ý kiến về việc này.
- Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của Chủ tịch. Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài, như thường lệ đi đầu ủng hộ ý kiến của Mao. Tất nhiên, ông ta không thể ngờ được, từ Hội nghị Lư Sơn, Mao sẽ đối xử tàn tệ với ông như thế nào. Nhưng đó lại là câu chuyện về sau.
Bành Đức Hoài tiếp tục:
- Hiện giờ tình hình Triều Tiên đã ổn định, tôi thấy nên chuyển không quân về Phúc Kiến và Chiết Giang, trước hết giành lấy quyền khống chế không phận vùng ven biển, như vậy mới bảo đảm chắc chắn an toàn cho bộ đội vượt biển.
Mao gật đầu:
- Cả quyền khống chế vùng biển nữa. Không có hai quyền này khó bảo đảm an toàn cho quân ta vượt biển tác chiến. Phải nhanh chóng giành lấy hai quyền đó.
Chu Đức phát biểu:
- Ý kiến của Chủ tịch và Tổng tư lệnh Bành, tôi đều tán thành. Tôi cho rằng có thể chia làm hai bước, bước thứ nhất “dọn sạch cửa ngõ”, tức là giải phóng những đảo ven biển còn bị Quốc dân Đảng chiếm, quét dọn cửa ngõ ta cho sạch sẽ. Như vậy, vừa loại bỏ được mối đe doạ đối với vùng duyên hải Đông Nam của ta, đánh thông được đường hàng hải Nam – Bắc, mà cũng chặt đứt được tay chân của Đài Loan, không còn mối lo sau lưng khi chúng ta đi bước thứ hai giải phóng Đài Loan.
- “Dọn sạch cửa ngõ”, nói rất hay – Mao thích thú. Tôi tán thành cả hai tay.
Trần Nghị, Tư lệnh quân khu Hoa Đông:
- Tôi cho rằng “dọn sạch cửa ngõ” có thể bắt đầu từ đảo Đại Trần, nó là trung tâm chỉ huy và trọng tâm phòng ngự của quân Quốc dân Đảng đóng ở các đảo ven biển Đông Nam tỉnh Chiết Giang. Chiếm được Đại Trần tức đánh trúng chỗ hiểm của địch, tất cả những đảo khác ở ven biển Đông Nam tỉnh Chiết Giang có thể không đánh mà tan. Như vậy quân ta có thể bằng một giá tương đối rẻ đổi được một thắng lợi tương đối lớn.
- Đảo Đại Trần giao cho đồng chí Trần Nghị. Mao ra lệnh. Quân khu Hoa Đông các vị trước hết vạch kế hoạch tác chiến, sau khi được Quân ủy phê chuẩn, sẽ thực hiện. Nhất định phải nhổ cho được cái đinh đó.
Tháng 1.1954, Quân khu Hoa Đông sau nhiều lần nghiên cứu đã đề ra kế hoạch chiến dịch hải, lục, không quân phối hợp đánh chiếm đảo Đại Trần, sau khi trình Quân uỷ duyệt lập tức bắt tay chuẩn bị tác chiến.
Tuy nhiên, TQ không thể không tính đến vai trò của Hoa Kỳ trước khi hành động. Nếu cuộc chiến nổ ra, nhất định Hoa Kỳ sẽ can thiệp, Hạm đội 7 của Hoa Kỳ đang lởn vởn ở eo biển Đài Loan, làm cho vấn đề Đài Loan càng trở nên phức tạp. Đánh Đài Loan có thể gây ra phản ứng mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đó là tình huống mà các nhà lãnh đạo TQ bắt buộc phải né tránh. Các cuộc đọ sức của hai bên ở chiến trường Triều Tiên đã cho TQ thấy rõ sức mạnh của Hoa Kỳ.
Tháng 8.1954, Bành Đức Hoài nghe quân khu Hoa Đông báo cáo phương án đổ bộ tấn công đảo Nhất Giang Sơn – đảo quan trọng nhất trong nhóm đảo Đại Trần. Nghe xong, ông ta chỉ thị, khi ném bom đảo Đại Trần phải tìm mọi cách điều tra rõ cảng Đại Trần và tầu chiến Mỹ đậu tại đó. “Nếu có tầu chiến Mỹ, chúng ta tạm thời chưa đánh, đợi sau khi chúng đi sẽ đánh, như vậy bớt được rất nhiều phiền phức. Nguyên tắc của chúng ta là không gây chuyện nhưng cũng quyết không tỏ ra mềm yếu”.
Nói vậy thôi, rõ ràng, họ sợ nước Mỹ.
Trong lúc quân TQ gấp rút chuẩn bị trận đánh, thì Hiệp ước phòng chung thủ chung giữa Mỹ và Đài Loan cũng được ráo riết tiến hành. TQ rất tức giận, lập tức lệnh cho quân đội mặt trận Phúc Kiến, “hãy dùng bom đạn tỏ rõ thái độ và lập trường của chúng ta”. Ngày 3.9.1954, quân đội TQ ở mặt trận Phúc Kiến pháo kích dữ dội vào Kim Môn, Mã Tổ, trong phút chốc, Kim Môn, Mã Tổ chìm trong khói lửa mù mịt.
Cho đến ngày 3.11, quân TQ pháo kích 47 lần vào các đảo Kim Môn lớn, Kim Môn nhỏ và Đại Trần. Nhưng tiếng đại bác không ngăn được tiến trình ký kết Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Đài Loan.
Hoa Kỳ cấp tốc điều 4 tầu sân bay từ Philíppin, Nhật Bản, Hồng Kông tới tuần tra mặt biển Đông Nam đảo Đại Trần. Khi đó ở hải vực TQ có 5 tầu sân bay, 3 tầu tuần dương, 40 tầu khu trục, 50 tầu đổ bộ. Hoa Kỳ trước sau đã huy động hơn 2.000 lượt chiếc máy bay hoạt động gần không phận Đại Trần, ngăn chặn quân TQ chiếm đảo này.
Hiệp ước phòng thủ chung Đài Loan – Mỹ được ký kết. Hạ viện và Thượng viện Mỹ lần lượt thông qua “Nghị quyết về Đài Loan”, nêu rõ: “giao quyền cho Tổng thống Mỹ được sử dụng quân đội Mỹ khi Tổng thống xét thấy cần thiết để bảo vệ chắc chắn những mục tiêu cụ thể ở các đảo Đài Loan và Bành Hồ khỏi bị tấn công vũ trang”.
Với vai trò đặc biệt đó của Hoa Kỳ, TQ đành phải quyết định ngừng đánh Đài Loan. Nhưng cuộc phong tỏa eo biển Đài Loan của TQ vẫn còn tiếp tục.
Tháng 7.1958, Bộ Chính trị TQ mở rộng họp tại Bắc Đới Hà, thảo luận việc pháo kích quy mô lớn vào đảo Kim Môn “để đập tan sự khiêu khích của nhà đương cục Đài Loan, đánh mạnh vào uy thế của bọn xâm lược Mỹ, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Trung Đông”.
Mao nói:
- Đánh Kim Môn, tức là ủng hộ cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Libăng. Dùng pháo binh mặt đất thực hiện việc pháo kích là chính và phải chuẩn bị đánh hai, ba tháng…
Mao, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu nghe Diệp Phi – người được chọn chỉ huy trận đánh báo cáo tình hình chuẩn bị cho trận pháo kích Kim Môn. Mao vừa nghe Diệp Phi báo cáo tình hình vừa nhìn vào bản đồ.
Nghe báo cáo xong, Mao đột nhiên nêu lên một câu hỏi kỳ lạ:
- Anh dùng nhiều pháo như thế để đánh, liệu có đánh chết cả người Mỹ không?
Diệp Phi nghe xong liền nói:
- Đạn pháo không có mắt, thưa Chủ tịch.
Bành Đức Hoài ngồi bên cạnh, nói:
- Trong quân đội Tưởng cố vấn Mỹ được điều động đến tận cấp tiểu đoàn.
Tiếp theo là sự im lặng kéo dài, mọi người không nói, nhìn về Mao. Mao cũng nhìn mọi người, suy nghĩ rất lung.
Cuối cùng Mao nói:
- Có thể không đánh vào người Mỹ được không? Đừng nói Bành, ngay Mao cũng sợ đụng độ với Hoa Kỳ.
Diệp Phi lắc đầu:
- Thưa Chủ tịch, cái đó không có cách nào tránh được?
Lâm Bưu ma mãnh, hiểu sự phân vân của Mao, muốn lấy lòng Mao, bèn viết thư cho Mao đề nghị, có thể tiết lộ một ít tin tức cho Mỹ, thông qua đại diện TQ lúc này đang tiến hành đàm phán với Mỹ ở Vácsava được không? Nhưng báo cho người Mỹ biết thì cũng như báo cho phía Đài Loan rồi, còn đâu tính bất ngờ?
Dù có hung hăng, hiếu chiến đến đâu, TQ cũng vẫn phải luôn luôn kiêng nể và dè chừng Hoa Kỳ. Các cuộc phong tỏa Đài Loan – một hòn đảo nhỏ suốt bao nhiêu năm qua của TQ chỉ đưa đến kết quả rất hạn chế.
Nếu lịch sử có dạy chúng ta điều gì thì một trong những điều đó là ở đâu và chừng nào còn có sự hiện diện của Hoa Kỳ, ở đó và chừng đó TQ – dù muốn hay không, vẫn phải chịu số phận của kẻ lấp ló sau cánh gà!?
Nguồn: Lemaiblog