Việc kết liễu sinh mạng của kẻ phạm trọng tội thời  triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, được thực hiện  bằng các biện pháp khá thô sơ.
                                  	Để trừng trị tội ác, Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định mức án cao nhất  là tử hình. Nếu như trước đây, tử tội sẽ bị thi hành án tử bằng loạt đạn  công lý thì nay quy định mới đã thay thế bằng biện pháp tiêm thuốc độc.
  	Chuyện thi hành án tử thời hiện đại là vậy, còn ở thời phong kiến mà cụ  thể là triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, việc  kết liễu sinh mạng của kẻ phạm trọng tội không phải bằng súng đạn mà  bằng các biện pháp hành hình thô sơ.
  	Theo ghi chép của Nội các triều Nguyễn, để giữ vững kỷ cương phép nước,  Bộ Hình thời bấy giờ "khai sinh" 5 hình thức trừng trị (5 tội hình)  những kẻ phạm tội gồm tội đánh roi, tội đánh trượng, tội đồ, tội lưu và  tội xử tử. Tội đánh roi được chia thành 5 bậc, đánh từ 10 đến 50 roi,  roi đánh thì dùng roi mây nhỏ.
  	Tội trượng cũng chia làm 5 bậc, đánh 60-100 trượng và trượng dùng để  đánh phạm nhân là sợi mây to vừa, dài 2 thước 8 tấc. Tội đồ là tội bắt  làm nô lệ cho biết nhục, kéo dài từ 1 đến 3 năm, chia làm 5 bậc, bậc  thấp nhất là bị bắt làm nô lệ một năm và bị đánh 60 trượng, bậc cao nhất  phải chịu mức án "đồ 3 năm, phạt 100 trượng".
  	Về tội lưu, cuốn “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” (quyển 179) giải  thích: "Tội này phải đem đi an trí nơi phương xa, suốt đời không được  về. Chia làm 3 bậc: 2.000 dặm, 2.500 dặm, 3.000 dặm, đều phải phạt 100  trượng. Người phải tội nặng hơn tội lưu thì gọi là tội sung làm quân.  Tội này chia làm 4 bậc, bậc được ở gần thì phát (đày đi nơi xa) đi 2.000  dặm, bậc ở gần biên giới thì phát đi 2.500 dặm, bậc ở biên giới xa phát  đi 3.000 dặm, bậc ở biên giới rất xa phát đi 4.000 dặm. Các tội này đều  phải phạt 100 trượng".
  	Trong 5 thứ tội hình thời bấy giờ, khủng khiếp nhất là tội thứ 5, tội  xử tử. Chẳng như nhiều người lầm nghĩ, một khi bị triều đình khép án tử,  tử tội sẽ bị "trảm" (chém đầu), triều Nguyễn phân chia án tử thành các  tội như tội giảo (treo cổ), tội trảm (chém đầu), tội lăng trì (xẻo từng  miếng thịt), tội cưu thủ (chém rồi lấy đầu đem bêu), lục thi (băm xác).  Về những can phạm mắc trọng tội bị tuyên xử tử, Bộ Hình ghi rõ: "Nếu kẻ  nào phạm tội ác quá nặng thì đem thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ  xét án. Còn các tội khác đều đợi đến hạn mùa thu mới đem thi hành án".
  	Trước khi bị đem đi thi hành án, theo lệnh vua, triều thần phải xét  lại, phải phân biệt tử tội nào có tình thực, tử tội nào được hoãn xử tử  và tử tội nào đáng thương, đáng ngờ để tâu lên xin vua định đoạt. Cũng  theo lệnh thiên tử, hằng năm cứ đến tháng giêng, tháng 6 đều phải đình  hoãn việc hành hình: "Ở trong Kinh và ngoài các tỉnh, những tù nặng phải  đem xử ngay đều phải giam chặt lại đến đầu tháng 2 và tháng 7 sau ngày  lập thu mới được hành hình. Nếu trong tháng 5 giao với tiết tháng 6 và  ngày lập thu vào trong tháng 6 cũng đình hoãn việc hành hình".
  	Tìm hiểu về việc thi hành án tử của triều đại phong kiến cuối cùng ở  Việt Nam, mới rõ từ thời điểm Chúa Nguyễn Ánh lập quốc kéo dài đến thời  vua Khải Định, triều đình duy trì danh sách 10 tội ác (thập ác). Bất kỳ  ai vi phạm một trong những trọng tội này sẽ bị xử tử ngay lập tức nếu họ  không nằm trong danh sách 8 hạng người được đem ra bàn trước khi xử  tội.   
 
 				  |  		
|  				Một buổi xử án. |  		
 	Đứng đầu trong danh sách 10 tội ác phải trảm quyết ngay là tội mưu phản  (lập mưu lật đổ chính thể trong nước), tiếp đến là tội mưu đại nghịch  (kẻ mưu phá hủy nhà tôn miếu, lăng tẩm và cung khuyết của nhà vua). Tội  mưu bạn (mưu phản nước mình, ngầm theo nước khác) là tội thứ 3 trong  danh sách 10 tội ác.
  	Thứ bậc kế tiếp trong nhóm 10 tội ác là tội ác nghịch (mưu đánh và mưu  giết ông bà, cha mẹ của mình, ông bà cha mẹ chồng, giết chú, bác trai,  thím, bác gái, cô, anh, chị, ông bà ngoại và chồng), tội bất đạo (giết 3  người trong một nhà người ta mà 3 người ấy không đáng phải tội chết),  tội đại bất kính (kẻ ăn trộm đồ dùng của các nơi đại tự và đồ dùng của  vua, làm giả dấu ấn của vua, thuyền của vua đi lầm lỡ do không phòng bị  trước cho bền chặt).
  	Bất hiếu là tội thứ 7 trong 10 tội ác. Triều đình ghi chú rõ người mắc  tội này là kẻ đi tố cáo, nguyền rủa, mắng chửi ông bà cha mẹ của mình  hay ông bà, cha mẹ của chồng cùng ông bà, cha mẹ còn sống khi phân chia ở  riêng, của riêng, hoặc thiếu sự nuôi nấng. Ngoài ra, những kẻ đang để  tang cha mẹ mà lấy chồng, lấy vợ hay cứ hát xướng làm trò vui, hoặc kẻ  mà cha mẹ chết nhưng giấu đi không phát tang cũng bị khép tội bất hiếu.
  	"Kẻ mưu giết và bán người thân phải để tang 3 tháng trở lên, đánh và tố  cáo chồng và các tôn trưởng từ để tang từ đại công trở lên (để tang 9  tháng) hay các tôn thuộc phải để trở tiểu công (để tang 5 tháng trở  xuống)". Đấy là diễn giải của Bộ Hình triều Nguyễn về tội ác thứ 8, tội  bất mục.
  	"Kẻ là dân trong hạt mà giết viên tri phủ, tri huyện, tri châu coi hạt  mình, quân lính giết các quan lại cai quản mình, lính hầu vua giết viên  trưởng quan từ Ngũ phẩm trở lên, cùng giết người thầy hiện đương học và  nghe tin chồng chết ẩn giấu đi không phát tang, bày chơi trò vui, bỏ áo  tang mặc áo thường, hoặc đi lấy chồng khác trong khi có tang chồng", tội  ác thứ 9, tội bất nghĩa.
VnExpress