2500 năm sau, tuy Phật giáo có khoảng 700 triệu Phật tử trên toàn thế  giới nhưng lại biến mất trên đất nước Ấn Độ, nơi mà trước đó Phật giáo  từng là một trào lưu tinh thần chính yếu, suốt cho đến thế kỷ thứ X.
Chú thích của người dịch: Ông Philippe Cornu là chủ tịch Đại  học Phật giáo Âu châu, giảng sư tại Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh  Đông phương (Inalco) của Pháp
. Ông cũng là một học giả uyên bác về Phật giáo, dịch nhiều kinh sách từ các tiếng Tây Tạng, Trung Hoa..
., đồng thời ông cũng trước tác, viết báo và giảng dạy về Phật giáo
. Một trong những công tŕnh đáng kể của ông là Tự điển bách khoa Phật giáo
.
Bài phỏng vấn của kư giả Cathérine Golliau với ông, đăng trên tạp chí lớn của nước Pháp là 
Le Point.
Le Point: Phải định nghĩa Phật giáo như thế nào? 
P. Cornu: Đó là con đường tâm linh nhắm mục đích tự  giải thoát khỏi vô minh và lầm lẫn, nguồn gốc đưa đến khổ đau, và giúp  đạt được Giác ngộ, tức một thể dạng lột trần được mọi ảo giác, và từ thể  dạng đó sự thực tối thượng sẽ hiển hiện
. Người ta  thường xem Phật giáo là một tôn giáo, trong chiều hướng Phật giáo chủ  trương một con đường đạo đức, một luận thuyết triết học, đề nghị những  nghi lễ và cách thức tu tập tinh thần trong mục đích giải phóng con  người : v́ thế cần phải đặt ḷng tin nơi 
Đức Phật để bước vào con đường ấy
.  Tuy nhiên Đức Phật không phải là một vị trời, và Đạo Phật, c̣n gọi là  Bouddha-darma (Đạo Pháp của Đức Phật) không phải là một tôn giáo thờ  trời, theo ư nghĩa một vị trời sáng tạo
.
Le Point: Có phải đấy là một phản ứng chống lại Đạo Bà-la-môn hay không?
P. Cornu : Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các  bản kinh Vệ-đà của Đạo Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến  nghi lễ, một số người không chấp nhận khía cạnh ấy của Đạo Bà-la-môn  đứng ra soạn thảo các kinh điển mới gọi là Upanisad, các kinh này quan  tâm nhiều hơn đến sự giải thoát cá nhân
. Con đường của  Đức Phật nằm trong bối cảnh diễn tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy  nhiên tính cách đặc thù trong luận lư và kinh nghiệm của Đức Phật khác  hẳn các h́nh thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad  như vừa kể
.
 Đức Phật chủ trương giải thoát các khổ đau bằng các diệt dục
Đức Phật chủ trương giải thoát các khổ đau bằng các diệt dục
 Trọng tâm trong những lời giáo huấn của Đức  Phật là tính cách vô thường của tất cả mọi sự vật, sự kiện không hề có  một “cái ngă” trường tồn, và những ǵ mà thông thường người ta gọi là sự  tương liên hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều kiện, nguyên tắc ấy  cho thấy mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên đới với nhau,  những hiện tựng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác hiện  hữu
.
Tham vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và ḷng ước mong chận đứng, bằng  bất cứ giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những  hiểu biết sai lầm về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ đau mà thôi
.
Tại sao lại như thế? Bởi v́ tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm  vào ư đồ kiểm soát thế giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó  nhất thiết sẽ tạo ra một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những ǵ  chúng ta mong muốn được nh́n thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực,  và bên kia là bản thể đích thực của hiện thực
.
Le Point: Tuy thế Phật giáo và Ấn Độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống nhau...
P. Cornu : Đúng thế, nhưng ư nghĩa th́ lại khác nhau
. Hăy lấy thí dụ chữ “
karma”  (nghiệp). Trong Đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển Vệ-đà, karma  tượng trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội nhập với thế  giới thiêng liêng
. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến  trong hệ thống kinh điển Upanisad, th́ chữ karma lại mang ư nghĩa về  luân lư : tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một  loại khả năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi khi tái sinh  trong một kiếp sống thuận lợi hay bất thuận lợi về sau
.
Ngoài ra, Ấn độ giáo lại chủ trương một h́nh thức định mệnh: chẳng hạn  khi rơi vào một giai cấp nào th́ phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và không  thể nào thoát ra được, bởi v́ karma đă quyết định như thế
.
Trong khi đó đối với Phật giáo, karma là một hành vi, và trước hết là một ư đồ trong tâm thức
.  Phật giáo phân biệt rơ rệt karma nguyên thủy làm nguồn gốc và hậu quả  phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau không thể lầm lẫn  được
. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi,  nếu ta không làm ǵ cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta c̣n có thể tinh  khiết hoá cả karma trước khi nó chín muồi
.
Mặt khác, karma không ép buộc con người phải sống một cách thụ động  trong một cấu trúc xă hội đă quy định sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy  vận mệnh của ḿnh để tự giải thoát cho chính ḿnh ra khỏi karma, v́ đó  là một thứ động cơ thúc đẩy gây ra khổ đau, cần phải được khắc phục
. Người ta cũng có thể t́m hiểu theo phương cách tương tợ đối với chữ “samsara” (luân hồi)
.  Chữ samsara mang một ư nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học  Bà-la-môn và Phật giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều  kiện
.
Nhưng đối với Ấn Độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi samsara khi  nào linh hồn hay “cái ngă” (atman) được giải thoát để hội nhập với thể  dạng Nhất nguyên vĩ đại
.
Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara trước hết là một sự quán nhận,  phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự hiện hữu do karma và dục vọng  của chính ḿnh tạo tác, v́ thế mỗi cá nhân phải tự giải thoát chính ḿnh  ra khỏi cảnh giới luân hồi
.V́ vậy, cần phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng trường hợp một
. 
Le Pónt : Phật giáo có thu nạp các vị trời của Ấn giáo hay không ?
P. Cornu : Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đă được thu nạp vào Phật giáo
. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật giáo đă thu nạp nhưng thu nạp với ư nghĩa hoàn toàn khác biệt
. Thật vậy, theo Phật giáo các vị trời đều được xem là thuộc vào cảnh giới samsara (luân hồi)
.  Vi chính các vị trời vẫn c̣n vướng mắc trong sự lầm lẫn. Dù cho họ có  một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đă cạn, họ sẽ rơi vào một  cảnh giới khác của samsara
. Họ không thể thoát khỏi bản chất có tính cách toàn diện của khổ đau
.
Le Point : Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương t́m kiếm sự giải thoát, lại c̣n cần đến các vị trời?
P. Cornu : Đức Phật không hề t́m cách bài bác bất cứ một thứ ǵ
. Ngài chỉ đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng
.  Các vị trời không phải là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của  Ngài, và đương nhiên không hề là một đối tượng cho sự nương tựa
.
Trong Phật giáo người ta nương tựa vào nguyên tắc của Giác ngộ, vào  những lời giáo huấn đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đă chọn  những lời giáo huấn ấy
. Đấy là những ǵ mà người ta gọi là Tam Bảo: Đức Phật, Dharma (Đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn)
.
Đức Phật là nguyên tắc của Giác ngộ, v́ thế Ngài là một vị hướng dẫn;  Dharma là những lời giáo huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đă khuyên  bảo để giúp đưa đến Giác ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết  họ là những tu sĩ, những vị hiền nhân
.
Các vị trời được xem như những ǵ mang tính cách truyền thống lâu đời:  người ta kính trọng các vị ấy như những người láng giềng và xem họ là  những biểu hiện mang tính cách dân gian, những vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ,  dần dần từng chút một, trước một mục đích cao rộng hơn
. Chính sự bao dung đó đă giải thích sự thành công của Phật giáo
. Đó là một nền triết học thật mềm dẻo đủ sức để thích ứng với tất cả mọi nền văn hoá
.
Le Point: Phật giáo không chấp nhận giai cấp trong xă hội. Vậy có  phải Phật giáo chống lại trật tự xă hội của Đạo Bà-la-môn hay chăng ?
P. Cornu : Từ nguyên thủy, chủ đích của Đức Phật không phải là thay đổi trật tự xă hội
.  Nhưng chỉ để thiết lập một ḍng tu sĩ, nhưng v́ vị thế tự đứng ra bên  ngoài thế giới này, nên ḍng tu sĩ ấy đă mở cửa đón nhận tất cả mọi cá  nhân, thuộc tất cả mọi nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức  Phật đă tạo ra một sự dứt bỏ
.
Le Point : Phật giáo sau đó đă phát triển thật mạnh mẽ trong đế quốc  của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đă chủ trương niềm tin về “vô ngă” lại  có thể phù hợp được với sức mạnh của uy quyền?
P. Cornu : Nền triết học đó không hề t́m cách thay đổi  một xă hội, nhưng chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong ḷng của mỗi  cá nhân: nhưng nếu v́ thế mà xă hội có thay đổi đi nữa, th́ đó chính là  nhờ từng cá nhân đă tu tập để tự biến cải tận đáy ḷng của chính họ
.
A-Dục là một vị đế vương xuất thân từ ḍng dơi vơ bị ; triều đại khởi sự  bằng chém giết : và chính vào thời điểm đó ông ấy đă ư thức được khổ  đau là ǵ và đă quy y.
Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn: quả thật có một huyền thoại mạ  vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một Phật tử, và đă đem đến thanh  b́nh và hạnh phúc cho toàn cơi vương quốc của ông
. Trong đó có một phần sự thật, v́ thực tế không hoàn toàn chỉ có màu hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một vị vua độc đoán..
.
Le Point :Làm thế nào để giải thích Phật giáo đă chinh phục được cả Á  châu lại biến mất ở Ấn Độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng  ra khỏi Ấn Độ nhưng vẫn tiếp tục sinh động trên bán lục địa này?
P. Cornu : Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là  một h́nh thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo  này, Phật giáo ăn sâu vào các cấu trúc xă hội và được chính quyền nâng  đỡ
. Nhưng về sau Phật giáo đă bị các đạo quân Hồi giáo tiêu diệt khi xâm chiếm lănh thổ Ấn Độ
. Phật  giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn như  Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về  nhân sự nên dễ bị tiêu diệt
. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đ́nh v́ thế khó bị hủy diệt hơn. 
Cũng nên thẳng thắn mà nói: chính những đạo quân Hồi giáo đă làm cho  Phật giáo biến mất ở Ấn Độ giữa buổi b́nh minh của thế kỷ XIII
.
Hoàng Phong (lược dịch)
Nguoiduatin