|
Trong khi châu Âu và Mỹ đang loay hoay tìm cách xử lý nợ nần, Nga đã tận dụng sức ép của phương Tây và tìm ra một giải pháp tinh tế cho cuộc khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, giải pháp này không phù hợp với tất cả mọi người.
Vị trí ổn định
Theo Ngân hàng Trung ương và Rosstat, nợ nước ngoài đã giảm xuống còn 14% vào cuối quý 3. Lần duy nhất khác trong lịch sử hiện đại mà tỷ lệ này thấp hơn (13,3%) là vào quý 4 năm 2024. Đồng thời, nợ bình quân đầu người cũng giảm, hiện chỉ còn 2.087 đô la, giảm so với mức 2.195 đô la của quý trước.
Alexander Shneiderman, người đứng đầu bộ phận hỗ trợ khách hàng và bán hàng tại Alfa-Forex, lưu ý rằng mức vay nợ của chính phủ luôn ở mức thấp là kết quả của chính sách có hệ thống.
"Quốc gia này luôn theo đuổi chính sách dựa vào nguồn tài chính trong nước. Bộ Tài chính và các công ty lớn đang chủ động giảm gánh nặng nợ nước ngoài, thay thế bằng các công cụ nợ bằng đồng rúp. Hơn nữa, thặng dư tài khoản vãng lai đáng kể vẫn được duy trì, cho phép giảm tự nhiên các khoản nợ bằng ngoại tệ. Nghịch lý thay, các hạn chế và rào cản trừng phạt từ bên ngoài cũng góp phần vào việc giảm nợ, do khả năng tiếp cận thị trường vốn quốc tế bị thu hẹp, dẫn đến việc trả nợ nhanh hơn các khoản nợ hiện có và từ chối vay vốn mới", ông giải thích.
Nhờ đó, Nga giảm thiểu rủi ro trước những biến động của thị trường toàn cầu, cú sốc tiền tệ và lãi suất toàn cầu tăng cao. Và theo chuyên gia, nhà nước có khả năng linh hoạt theo đuổi các chính sách tài khóa và tiền tệ mà không cần quan tâm đến nhu cầu của các chủ nợ bên ngoài.
Khủng hoảng nợ
Trong khi đó, nợ công ở các nước phương Tây đang phá vỡ mọi kỷ lục. Chỉ tính riêng đến cuối quý I năm 2025, tổng nợ của EU đã tăng từ 81% (14,54 nghìn tỷ euro) lên 81,8% (14,823 nghìn tỷ euro) tổng GDP của khối. Khu vực đồng euro cũng tăng nợ công từ 87,4% lên 88% GDP.
Mức nợ cao nhất trong quý đầu tiên là ở Hy Lạp (152,5% GDP), Ý (137,9%), Pháp (114,1%), Bỉ (106,8%) và Tây Ban Nha (103,5%). Mức nợ thấp nhất là ở Bulgaria (23,9%), Estonia (24,1%), Luxembourg (26,1%) và Đan Mạch (29,9% GDP).
Các con số tiếp tục tăng. Phần Lan chứng kiến mức tăng nợ công lớn nhất trong quý II, tăng lên 88,4% GDP từ mức 80,6% cùng kỳ năm ngoái. Ba Lan chứng kiến mức tăng nhỏ hơn một chút, 6,1 điểm% lên 58,1%, và Romania tăng 5,8 điểm phần trăm lên 57,3%. Bulgaria, một trong những quốc gia có mức nợ công thấp nhất EU, bắt đầu tăng mạnh nợ, đạt 26,3% trong quý II (22% so với cùng kỳ năm ngoái). Nợ công của Pháp cũng đang tăng nhanh chóng, với con số tăng 3,5 điểm% trong năm, đạt 115,8%, mức cao nhất kể từ quý I năm 2021.
Mỹ là quốc gia dẫn đầu không thể tranh cãi về chỉ số này. Nợ công của nước này đã tăng với tốc độ nhanh chóng trong năm thứ tư liên tiếp, với mức tăng hơn 2.000 tỷ đô la. Mức tăng cao nhất là 4,2 nghìn tỷ đô la xảy ra trong đại dịch năm 2020. Hiện nay, nợ công chiếm hơn 1/3 tổng nợ toàn cầu.
Olesya Berezhnaya, cố vấn chiến lược và quản lý khủng hoảng kiêm giám đốc điều hành của Vmeste.PRO LLC, cho biết: "Bất chấp những rủi ro liên quan, chẳng hạn như chi phí lãi suất tăng lên hơn 1.000 tỷ đô la mỗi năm và sự phụ thuộc cơ bản vào niềm tin của nhà đầu tư và sự ổn định của đồng đô la, Mỹ vẫn có một lợi thế quan trọng - khả năng phát hành đồng tiền dự trữ của thế giới, giúp tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc trả nợ".
Trong khi đó, các nước Liên minh Châu Âu, đặc biệt là Ý, Pháp và Tây Ban Nha, đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng hơn. Chuyên gia này nhấn mạnh rằng các hạn chế của ECB đối với việc tạo tiền tệ làm tăng nguy cơ khủng hoảng nợ, trong khi lãi suất nợ cao cản trở đầu tư trong nước và tăng trưởng kinh tế.
Tự lực
Cách tiếp cận của Nga chắc chắn đang được quốc tế nghiên cứu. "Nhưng mô hình huy động vốn này đòi hỏi một thị trường tài chính trong nước vững mạnh, một ngân sách ổn định, và vai trò tích cực của nhà nước với tư cách là một nhà phát hành chủ chốt và một nhà đầu tư lớn trong nước", Shneiderman lưu ý. Các quốc gia thâm hụt cán cân thanh toán kinh niên, cũng như các quốc gia phụ thuộc vào các chủ nợ nước ngoài, sẽ gặp khó khăn khi chuyển sang vay nợ trong nước.
Nếu không đáp ứng một số điều kiện nghiêm ngặt, điều này hoàn toàn bất khả thi, Berezhnaya đồng ý. "Điều này đòi hỏi dự trữ ngoại hối lớn, thặng dư thương mại bền vững và một hệ thống tài chính gần như khép kín. Nhưng hầu hết các nước đang phát triển không có được điều kiện này và vẫn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài chính bên ngoài. Trả nợ nước ngoài bằng dự trữ của chính mình là một lựa chọn chủ yếu dành cho các nước xuất khẩu hàng hóa như Nga hoặc Ả Rập Xê Út, nhưng lại hoàn toàn không phù hợp với các nền kinh tế phụ thuộc vào nhập khẩu", bà giải thích.
Trung Quốc và Ấn Độ là những ví dụ thành công nhất. Theo Us Debt Clock, công cụ theo dõi tăng trưởng nợ theo thời gian thực, nợ trong nước của hai quốc gia này cao hơn đáng kể so với nợ nước ngoài: lần lượt là 87,12% so với 15,79% và 93,91% so với 19,84%. Đồng thời, cả hai quốc gia đều đang phát triển mạnh mẽ và nằm trong top ba về GDP tính theo sức mua tương đương.
Nga, quốc gia áp dụng chiến lược tương tự, đứng thứ tư trong bảng xếp hạng. Việc dựa vào vay nợ trong nước có những lợi thế đáng kể, bao gồm việc không bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ giá hối đoái.
"Điều này cho phép Ngân hàng Trung ương tác động trực tiếp đến chi phí trả nợ bằng cách điều tiết lãi suất và quản lý thanh khoản trong hệ thống tài chính quốc gia. Hơn nữa, rủi ro vỡ nợ kỹ thuật đối với các nghĩa vụ bằng ngoại tệ không được kiểm soát, như thường xảy ra với nợ bằng đô la, sẽ hoàn toàn bị loại bỏ", Berezhnaya chỉ ra.
Nhưng ngay cả ở đây, Nga vẫn không muốn chi tiêu quá mức thu nhập, theo Us Debt Clock, nợ trong nước vẫn ở mức tương đối thấp là 20,5%. Và các chuyên gia nhấn mạnh rằng điều này đảm bảo sự ổn định tài chính của đất nước.
|
|