“Trước đó” và “sau đó” của một dòng sông
Bức tranh trước – sau về một thung lũng nhỏ nói hộ tất cả: ngày xưa, con suối len giữa rừng già, rễ cây bám sâu vào sườn núi như miếng xốp khổng lồ giữ từng giọt nước. Ngày nay, thay vào đó là bức tường bê tông xả ầm ầm, thân gỗ lăn lóc bên triền dốc, bên dưới là những mái nhà bồng bềnh giữa bùn lũ. Thủy điện và “sau đó” đã cho chúng ta thấy và trải nghiệm quá nhiều điều đắng đót. Ngay lúc những dòng chữ này được gõ ra, đâu đó vẫn còn rất nhiều đồng bào đang co ro trên mái tôn, trên ngọn cây, cầu tồn giữa mênh mông nước đục – đó cũng là một thứ “sau đó”.
Chúng ta có phải mang ơn thủy điện?
Không ít bài viết hăng hái bảo vệ thủy điện. Họ nói nếu không có thủy điện thì làm gì có điện để thắp sáng, để chạy máy, để phát triển. Hài hước thay, người dân vừa phải mang ơn vì… được dùng điện, vừa không hề được mặc cả về giá, trong khi hóa đơn năm nào cũng nhích lên. Lại có người lôi trận lụt năm Thìn ra để chứng minh rằng trước khi có thủy điện thì lũ lụt vẫn xảy ra, thành phố vẫn ngập. Nước mình nghèo, lạc hậu, đâu có hệ thống dữ liệu chuẩn chỉnh về lượng mưa, tốc độ lũ, độ sâu ngập để mà so sánh, để mà kết luận chắc nịch. Vậy là chỉ vì thiếu số liệu mà chúng ta phải mang ơn thủy điện vô điều kiện ư?
Câu trả lời, công bằng mà nói, là vừa có vừa không. Thủy điện thực sự có vai trò điều tiết nước, nếu được thiết kế và vận hành nghiêm túc, có thể góp phần giảm lũ. Nhưng việc chồng vô số thủy điện nhỏ trên cùng một dòng sông, xé nát cả lưu vực ra để tận thu, không có nghĩa là lũ sẽ được kiềm chế tốt hơn. Đôi khi, nó chỉ có nghĩa là có thêm nhiều cánh cửa để nước phá tung mà thôi.
Khi rừng mất, đất bắt đầu “chảy”
Chỉ cần đi nhiều, hỏi khẽ người dân sống gần các hồ chứa: ngoài vùng bị ngập làm lòng hồ – vốn là rừng nguyên sinh ngày xưa – thì quanh thủy điện còn mấy mảnh rừng già nào không? Bản đồ rừng, ảnh vệ tinh trước và sau khi có thủy điện, những con số ấy không hề khó tra. Khi rừng bị đốn sạch để thành “kho gỗ hợp pháp”, để nhường chỗ cho lòng hồ, ngọn núi mất đi lớp áo giữ nước. Miếng xốp tự nhiên bị xé bỏ, thay bằng vết sẹo đất trơ trụi, chỉ chờ mưa lớn là “chảy”.
Một đoạn clip đơn giản (xin để ở comment) cũng đủ chỉ ra: nơi nào còn rừng, dòng nước chậm hơn, đục nhưng chưa cuốn sạch tất cả; nơi nào mất rừng, lũ trước, lụt sau tăng lên cấp số nhân. Đó là lý do những dòng lũ bùn hôm nay lao xuống làng mạc, thành thị như những con thú cuồng nộ, không gì chặn nổi. Đất đã mất rừng thì đất sẽ trôi, đó là quy luật – không cần triết lý cao siêu, chỉ cần nhìn vào bờ sông sạt lở mỗi mùa mưa.
“Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”
Có một thời người Việt “hân hoan” đi phá rừng, đốt nương, khai hoang, những câu hát cổ vũ cho việc “đốt lửa cho đồi hoang ấm lại” từng vang lên rộn ràng. Lịch sử đã diễn ra, không ai quay ngược được. Nhưng lịch sử vẫn còn đó để chiêm nghiệm: từ lâu ông bà ta đã dặn “ăn của rừng, rưng rưng nước mắt”, đã kết tội “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”. Hai tội ấy là hai cú đánh thẳng vào cân bằng tự nhiên.
“Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” – thuận theo trời đất thì còn, ngược lại thì chết chắc. Khi chặt rừng đến tận cùng, xây đập chặn ngang dòng, tôn thờ tăng trưởng trước mắt mà bỏ qua quy luật, con người đã chọn đứng về phía “nghịch thiên”. Những người im lặng, hay tệ hơn là xu phụ, bợ đỡ cho các quyết định phá rừng, xây thủy điện vô tội vạ, cũng đang đặt mình vào vòng nhân quả ấy. Sẽ đến ngày tất cả phải “đối diện mệnh trời” không phải theo nghĩa huyền bí mà bằng những cơn lũ tràn đến tận cửa.
Những câu hỏi không thể né tránh
Người ta nói: “Thủy điện không có lỗi trong bão lũ hiện nay, tất cả là do mưa cực đoan.” Vậy xin hỏi, vì sao những tỉnh có mật độ thủy điện dày đặc lại luôn là nơi bão lũ nặng nề nhất, năm này qua năm khác? Câu hỏi ấy đơn giản đến mức ai cũng có thể tự trả lời, nếu chịu ghé mắt nhìn lên bản đồ và nhìn xuống những dòng sông đã bị xẻ thịt.
Chỉ cần lướt nhanh trên Google, sẽ thấy Mỹ và nhiều quốc gia châu Âu đang phá bỏ thủy điện hàng loạt để trả lại dòng chảy tự nhiên, trồng rừng trở lại. Họ không phá vài cái cho có lệ, mà là hàng trăm, thậm chí hàng ngàn con đập. Có những cánh rừng được quy hoạch rõ ràng là “không khai thác”, chỉ để giữ nước, giữ đất, giữ khí hậu. Họ phát triển trước chúng ta nhiều chục năm, đủ giàu để không cần hy sinh thiên nhiên một cách rẻ tiền nữa. Vậy tại sao họ lại chọn đi ngược đường với chúng ta, khi ta còn đang say sưa nhân rộng “công suất < 30MW” trên mọi con suối? Câu hỏi ấy rất đáng để trăn trở.
Nếu bây giờ bắt đầu trồng rừng hàng loạt và kiên quyết cấm khai thác, cũng cần ít nhất mười năm nữa cây mới kịp lớn. Những phận người hôm nay may mắn thoát chết trong cơn lũ sẽ còn phải đối diện với những mùa mưa khắc nghiệt tiếp theo ra sao? Trong khi đó, lưu lượng xả lũ của nhiều thủy điện vẫn phi mã, thông báo xả lũ vẫn rót xuống làng xã sát giờ, người dân chỉ kịp vơ vội con nhỏ, dắt theo vài con vật nuôi mà chạy, tài sản mất sạch là “chuyện nhỏ”. Mưa mỗi năm một dữ, nhưng ta vẫn chấp nhận sống chung với kịch bản “báo trước một tiếng, trèo nóc nhà mà giữ mạng”.
Lá lành đùm lá rách… và những tiếng im lặng năm xưa
Tôi tin rằng rồi đây “lá lành” vẫn sẽ tiếp tục “đùm lá rách” mỗi mùa bão lũ. Những chuyến xe cứu trợ, những bếp lửa dã chiến, những chiếc thuyền tự chế sẽ lại xuất hiện, như bao lần trước. Con người Việt vốn vậy, ở giữa hoạn nạn luôn tìm được nhau.
Nhưng tôi cũng không thể quên rằng “trước đó”, trong hơn mười năm viết, kêu gọi dừng phá rừng, yêu cầu thủy điện xả lũ đúng quy trình, đã có quá nhiều sự im lặng. Không ít lời mỉa mai cho rằng đó chỉ là “thói than phiền”, là “phản phát triển”, là “chống lại công trình trọng điểm”. Vì thế, những lời mỉa mai đang rơi xuống đầu thủy điện hôm nay, với tôi, cũng chỉ là một vòng quay bình thường của dư luận. Giống như con nước, đã dâng thì sẽ rút, nhưng dấu vết nó để lại trên tường nhà thì rất lâu mới phai.
Công và tội của thủy điện, của cả một mô hình phát triển dựa trên việc bán rẻ rừng và sông suối, sẽ còn được mổ xẻ trong nhiều năm tới. Bài viết này chỉ mong đưa ra vài cách tiếp cận giản dị nhất để mỗi người tự soi lại: nhìn bức tranh “trước đó – sau đó” của một con suối, tra cứu vài dữ liệu về rừng, hỏi thăm vài người sống lâu năm bên dòng sông. Rồi từ đó, mỗi người sẽ tự tìm được câu trả lời của riêng mình – xem chúng ta muốn tiếp tục nghịch thiên, hay chấp nhận quay lại học cách đi cùng với thiên nhiên, trước khi những mùa lũ kế tiếp kịp gõ cửa.
QUOC AN MAI (SỬA VÀ VIẾT GIBBS VIETBF)