Lịch sử Tỉnh Quảng Trị và Cổ Thành.
Tỉnh Quảng Trị phía Bắc giáp Quảng B́nh, phía Đông giáp Đông Hải, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây là dăy Trường Sơn và nước Lào. Diện tích khoảng 4700 km2. Tỉnh lỵ Quảng Trị cách thành phố Huế 55 km (34 miles) và cách Sài G̣n 1227 km (767 miles) về hướng bắc.

Phía Đông Quảng Trị là đồng bằng hẹp, phía Tây là rừng núi thuộc Trường Sơn, chiếm gần hai phần ba diện tích tỉnh. Ba sông chính của tỉnh là Bến Hải, Cam Lộ và Sông Thạch Hàn. Sông Bến Hải phát nguồn từ dăy Trường Sơn ra đến biển ở cửa Tùng, dài 75 km (47 miles). Sông Thạch Hàn (c̣n gọi là sông Quảng Trị) chảy từ quận Hương Hóa và quận Cam Lộ, rồi đổ ra cửa Việt. Sông Cam Lộ (c̣n gọi là sông Bồ Điền) là con sông đào nối sông Bến Hải với sông Thạch Hăn, chảy qua hai quận Hương Hóa và Cam Lộ. Ngoài ra tỉnh c̣n có một số ḍng sông nhỏ như sông Mỹ Chánh, sông Nhung… Bờ biển Quảng Trị dài 66 km (41 miles), ngoại trừ vùng cửa Tùng lởm chởm đá, suốt bờ biển đều bằng phẳng và có nhiều cát, nên không lập được các hải cảng.

Đất Quảng Trị xưa đă là đất Lập Quốc của Việt Nam, một phần của bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Năm 1069, vua Lư Thánh Tông đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ liền dâng ba châu Địa Lư, Ma Linh và Bố Chính (bây giờ là Quảng B́nh, Quảng Trị).
Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lư làm sính lể để cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1307, vua Trần Nhân Tông đổi Châu Ô làm Châu Thuận, Châu Lư làm Châu Hóa. Châu Thuận gồm đất Phong Điền, Triệu Phong, Hải Lăng Quảng Trị ngày nay.
Tháng mười năm Mậu Ngọ (1558), chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn đất Thuận Hóa, lập d́nh ở Ái Tử thuộc phủ Triệu Phong. Năm 1804. vua Gia Long đặt lại tên là dinh Quảng Trị. Tên Quảng Trị có từ đó. Năm 1831, Minh Mạng đặt làm trấn, sau đổi làm tỉnh. Đến đời vua Tự Đức cải làm đạo, nhưng lại đổi thành tỉnh vào năm 1876.
Trước năm 1975, Quảng Trị có các quận như Gio Linh, Trung Lương, Hương Hóa, Hải Lăng, Cam Lộ, Mai Lĩnh và Triệu Phong.

Hơn hai thế kỷ trước, Cổ Thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được xây cất từ đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Chu vi tường thành gần 2.000 m, cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được xây theo lối kiến trúc thành tŕ Việt Nam với tường thành bao quanh h́nh vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian như mủ cây Ô-Dước. Thành trổ bốn cửa chính Đông Tây Nam Bắc. Sau chiến dịch mùa “Hè đỏ lửa” 1972 toàn bộ Cổ Thành Quảng Trị gần như bị san phẳng; chỉ c̣n sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên h́nh và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn.
==============
Lực lượng CSBV :
Để tấn chiếm Quảng Trị , mặt trận B5 CSBV đă tung ra một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn gồm có :
– Sư đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3 Trung đoàn 66, 24, 29 với sự yểm trợ của Trung đoàn 38 pháo, 4 Trung đoàn pḥng không 230, 232, 241 và 280, 2 Tiểu đoàn Hỏa Tiển, một Trung đoàn 202 chiến xa , và một Tiểu đoàn Công Binh tấn công vào mặt phía Tây Quảng Trị..
– Sư đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và Hoàng Minh Thi làm chính Ủy gồm 3 Trung đoàn 103, 88 và 57 được tăng cường hai Trung đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu đoàn 15 biệt lập, Hai Trung đoàn Pháo 164 và 84, một Trung đoàn pḥng không, hai Trung đoàn chiến xa 203 và 204, hai Tiểu đoàn Công Binh, một Tiểu đoàn đặc công và 3 Trung đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.
– Hai Tiểu đoàn Đặc Công 31 & 25 phối hợp với Tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc Công Hải Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn công vào mặt phía Đông Cửa Việt, Gio Linh và Triệu Phong.
– Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 320B và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới Lào Việt.
– SĐ324B do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3 Trung Đoàn 6, Trung Đoàn 803 và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên, di chuyển vào thung lủng Ashau áp lu75c mạnh trên thành phố Huế.
– 2 Trung Đoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lủng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Đà Nẵng..
Lực lượng Quân Lực VNCH :
Lực lượng VNCH có các đơn vị sau đây :
– SĐ3BB đóng tại căn cứ Ái Tử, do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai làm Tư Lịnh.
– Trung Đoàn 2 đóng tại căn cứ Tân Lâm, A4 Cồn Thiện, Fuller C2 và C3.
– Trung Đoàn 56 đóng tại căn cứ Cam Lộ, Khe Gió và Carrol. (hay Tân Lâm là căn cứ hỏa lực lớn nhất tại vùng giới tuyến) .
– Trung Đoàn 57 đóng tại Căn cứ C1, A1, A2 và A3.
– Thiết Đoàn 11 Thiết Kỵ đóng tại Sharon.
– LĐ147 / TQLC đóng tại Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, Núi Bá Hộ, Holcomb và Sarge.
– LĐ258 / TQLC đóng tại căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne và Barbara.
– Liên Đoàn 1 BĐQ gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77.
– Liên Đoàn 4, 5 BĐQ tăng cường
– Trung Đoàn 4/SĐ2BB.
– Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh ,Thiết đoàn 17 (M113) và Thiết đoàn 20 (M48),
– Tiểu Đoàn 24 Địa Phương Quân + NQ
– 8 Tiểu Đoàn Pháo binh
– SĐ TQLC.: gồm 3 Lữ Đoàn do Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân làm Tư Lệnh
– SĐ ND với 3 Lữ Đoàn do Trung Tướng Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh.
==============
Để bảo vệ khu vực Quảng Trị. Quân Lực VNCH phối trí các đơn vị như sau: SĐ3BB tân lập trách nhiệm bảo vệ Quảng Trị. Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bản doanh Sư Đoàn đặt tại Ái Tử.
Trung Đoàn 2, một Trung Đoàn cũ của SĐ1BB, đóng tại các căn cứ A4 hay là Cồn Thiện, Fuller, C2 và C3. Trung Đoàn 56 đóng tại các căn cứ Hỏa Lực Cam Lộ, Khe Gió, và Tân Lâm (Carroll). Trung Đoàn 57 đóng tại CCHL C1 ( Gio Linh), A1, A2 và A3 . Ngoài ra SĐ3BB c̣n được tăng phái 2 Lử Đoàn TQLC. Lữ Đoàn 147 TQLC đóng ở CCHL Mai Lộc, núi Bá Hộ, Sarge, Holcomb. Lữ Đoàn 258 đóng tại Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara . Hai Lữ Đoàn TQLC có nhiệm vụ trấn giữ mặt phía Tây của Quảng Trị.
Sư đoàn 3 bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971, có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, v́ là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh,, quân dịch và các đơn vị ĐPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..

B́a báo TIME số tháng 04 năm 1972
Diển Tiến :
Khởi động chiến dịch tại Quân Khu 1 VNCH, Tướng CSBV Vơ Nguyên Giáp xua 45.000 quân vượt qua sông Bến Hải với hằng trăm chiến xa, hằng trăm đại pháo và một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn bộ binh tổng tấn công lấn chiếm tỉnh Quảng Trị, Ải địa đầu cực Bắc VNCH.. Đồng thời tung SĐ324B cùng 2 Trung Đoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lủng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Đà Nẵng.
Ngày 30/3/1972 đúng 12 giờ trưa,lợi dụng cơ hội thay đổi vùng trách nhiệm của các Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57 thuộc SĐ3BB. Bô đội CSBV bắt đầu pháo kích dữ dội vào các căn cứ trong vùng giới tuyến Carol, Mai Lộc, Sarge, núi Bá Hộ, Tân Lâm, Cồn Thiên, Đông Hà và Quăng Trị.

Pháo binh cộng sản, với các loại đại bác ṇng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly tầm xa 27.5 km, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và 56/SĐ3BB, đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhiều vị trí pḥng thủ bị bỏ ngỏ, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh.
Sau đó, Cộng quân huy động các đơn vị chủ lực của 2 SĐ304 và 308 cùng 3 Trung Đoàn biệt lập của B5, một Trung Đoàn Đặc Công và 2 Trung Đoàn Chiến Xa 203 và 202 vượt khu Phi Quân Sư chia thành 4 mủi tấn công cường tập vào tuyến pḥng thủ của các đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng Ḥa đang trấn đóng các căn cứ tại phía Tây và Bắc Quảng Trị.
Các mũi tấn công đầu tiên nhắm vào các căn cứ của Trung Đoàn 2/3BB là Fuller và Cồn Thiên A4, hai mủi khác nhắm vào Trung Đoàn 57 tại các Căn cứ A1 và A2. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB và TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị pháo kích nặng nề và liên tục, v́ thế không yểm trợ được cho quân bạn. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đă không thể hoạt đông hữu hiệu để yểm trợ đươc cho quân bạn.
Hỏa lực pháo binh CSBV đă gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam.
Đến 6 giờ chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự pḥng thủ bị phá hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương.
Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch quân tập trung tấn công biển người tràn ngập căn cứ Sarge. Đến 4 giờ sáng hôm sau ngày 1/4/1972, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4 gom về tập trung tại căn cứ Mai Lộc. Đây là 2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công.
Ngày 1/4/72, chiến trường càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị tại căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc Trung Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đ́nh, gây cản trở việc điều quân và lưu thông trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản để điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH.
Các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo nặng, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, v́ thời tiết xấu nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SĐ3BB trấn giữ, bị tấn chiếm. Trước áp lực quá mạnh của địch, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực để gom quân và thiết lập hệ thống pḥng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến. Vào lúc 9 giờ sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà theo quốc lộ 1.
Một lực lượng chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, dọc theo bờ biển tiến xuống hướng Cửa Việt.
T́nh h́nh căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh tử thủ Đông Hà “bằng mọi giá”. Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Nhờ thời tiết tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa không SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông Hà.
Để đề pḥng chiến xa địch vượt qua cầu Đông Hà, vào 16 giờ 30 chiều cùng ngày, chiếc cầu này được giật xập, để ngăn cản kế hoạch của CSBV đưa bộ binh và chiến xa tiến xuống phía Nam.
Ngày 2/4/1972 BTL/SĐTQLC và Lử Đoàn 369 được không vận ra Huế để thiết lập tuyến pḥng thủ phía Bắc Sông Mỹ Chánh. TĐ7 TQLC được lệnh trấn giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh.
Trong ngày nầy, Cộng Sản cắt đứt QL9 từ Đông Hà đến Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TĐ8TQLC, bị SĐ304 tấn công tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya .
T́nh h́nh chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa.
Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đă làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội cộng sản BắcViệt, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, v́ vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập..
Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới, t́nh cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiến cho các cấp chỉ huy của SĐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, v́ không t́m ra kế hoạch nào, để ổn định t́nh thế.

Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn, Cộng quân vẫn tiếp tục pháo kích dữ dội vào căn cứ nhưng không có quân tiếp viện. Đúng 14 giờ 30 chiều, Trung Tá Phạm Văn Đính Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56/3BB , đă đầu hàng Cộng Sản cùng với 1,500 binh sĩ VNCH bị quân CS bắt giữ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội TQLC, c̣n lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh QĐ1 và SĐ3/BB. Biến cố nầy xảy ra trong ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ vùng giới tuyến.
Sau khi căn cứ hỏa lực Carroll thất thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC trở thành tuyến đầu, đă liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lịnh tái phối trí, pháo đội 105 ly TQLC tại đây sau khi bắn hết đạn, đă được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10 giờ tối, BCH/LD và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau, LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về Huế để bổ sung và tái trang bị.
Bộ Tư Lệnh SĐ3BB di chuyển Bộ Chỉ Huy tiền phương tại căn cứ Ái Tử bị pháo kích nặng nề, để lui về Quảng Trị. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà và LĐ258 với các Tiểu Đoàn 1,3 và 6 /TQLC được tăng cường thêm TĐ3PB/TQLC vẫn duy tŕ tại các căn cứ Ái Tử, căn cứ Phượng Hoàng và Đông Hà. TĐ7/TQLC đang trấn ngự tại QL1 được điều động ra tăng cường pḥng thủ căn cứ Ái Tử. ( như vậy là bỏ ngỏ QL1 từ Mỹ Chánh tới Cam Lộ)
Tính đến sáng ngày 3/4/1972, sau 4 ngày tấn công của quân CSBV, 11 căn cứ hỏa lực của QLVNCH tại giới tuyến đă thất thủ liên tiếp, mất đi 53 khẩu trọng pháo đủ loại làm cho Pháo Binh VNCH bị suy yếu, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị.
Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài G̣n ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và pḥng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và pḥng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Các sư đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xă Quảng Trị, V́ Cầu Đông Hà bị giật sập, nên Cộng quân dùng cầu Cam Lộ để vượt sông.
Họ chia quân ra làm 2 cánh: một cánh quân đi dọc theo QL9 tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam . Một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xă Quảng Trị từ hướng Tây.
– Ngày 4/4/1972 sau khi Lữ Đoàn 147/TQLC rút lui về Huế để chỉnh trang, như vậy về phía tây, chỉ c̣n có 1TĐ/BĐQ, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố.
– Ngày 6/4/1972 lực lượng CS từ Ba-Ḷng phía Nam sông Thạch Hản tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do một đơn vị thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ. Căn cứ Anne được lịnh lui binh rút về Cam Lộ.
– Ngày 8/4/1972, LĐ258 điều động TĐ3TQLC trấn đóng căn cứ Ái Tử thay thế TĐ6TQLC đến trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng thay thế cho một TĐ/BĐQ.
– Sáng ngày 9/4/1972 với chiến thuật tiền pháo hậu xung, sáng sớm hai Trung Đoàn cộng quân có chiến xa T54 yểm trợ tấn công căn cứ Phượng Hoàng. Pháo binh VNCH yểm trợ đúng lúc, Bộ Đội Cộng Sản chạy tán loạn,một số chiến xa cán phải ḿn bị nổ tung. Phi cơ Skyraider A1 can thiệp phá huỷ thêm nhiều chiến xa địch.
Hai Đại Đội / TĐ1TQLC cùng 1 chi đoàn chiến xa M48 và 1 chi đoàn Thiết Vận Xa M113 từ Ái Tử đến trợ chiến phá tan cuộc tấn công của địch. 400 xác cộng quân bỏ lại trận địa,
21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỹ oanh kích, băi ḿn cùng pháo binh. 2 chiếc bị bắt sống.
Trước t́nh h́nh nghiêm trọng, Bộ TTM quyết định tăng cường Liên Đoàn 4 và 5 BĐQ cho Quân Đoàn I.
Mật trận Quảng Trị 1972
– Ngày 13/4/1972 Lữ Đoàn 258TQLC được điều động giữ tuyến pḥng thủ từ Ái Tử đến Phượng Hoàng. Từ Ái Tử lên mạn Bắc tới QL1, Đông Hà là vùng trách nhiệm của LĐ5BĐQ và Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh. Từ Cam Lộ trở về dọc theo QL9 là tuyến án ngử của LĐ4BĐQ và Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh. Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hăn. Liên Đoàn 1/BĐQ pḥng thủ thị xă Quảng Trị, lập pḥng tuyến tại bờ Nam sông Thạch Hăn.
– Ngày 14/4/1972 với sự yểm trợ hỏa lực của Mỹ, sự chiến thắng của LĐ/TQLC tại Pedro và sự tăng cường lực lượng của BĐQ, Tướng Hoàng Xuân Lảm đă mở cuộc hành quân Quang Trung 729 để tái chiếm vùng lảnh thổ bị mất về tay CS: Trung Đoàn 57BB pḥng giữ tuyến phía Bắc, trong khi các đơn vị BĐQ, TQLC và Thiết Giáp chỉa mủi dùi tấn công vào mặt phía Tây của Tỉnh Quảng Trị.
Chiến cuộc bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch Công quân đă chống trả và pháo kích nặng nề vào các đơn vị hành quân. Bởi vậy thay v́ quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LĐ5 BĐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa, tuy nhiên các đơn vị của QLVNCH vẫn c̣n giữ vửng đựợc các vị trí trách nhiệm. Do v́ việc tổ chức phối hợp không đồng bộ và pháo trận cường tập của đối phương khiến cho cuộc hành quân không hửu hiệu và c̣n làm suy yếu tiềm lực pḥng thủ sẵn có.
– Ngày 18/4/1972 thất bại trong trận tấn công căn cứ Phượng hoàng, Cộng Sản Bắc Việt đă tung thêm quân áp lực nặng căn cứ này và bắt đầu phản kích lại.
– Ngày 23/4/1972 bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Cộng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn. Trong lúc đó khắp các nẽo đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh pháo kích bừa băi của cộng sản. Quảng Trị đă thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.
– Ngày 24/4/1972 Lử đoàn 147 TQLC với 2 TĐ4 và 8/TQLC và TĐ2/PB/TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị thay thế vùng trách nhiệm cũa LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử và tiếp nhận thêm TĐ1/TQLC đang pḥng thủ tại Phượng Hoàng.
Trong đêm nầy CS pháo kích làm cháy kho tiếp liệu của SĐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới.
– Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CSBV cùng với chiến xa, đă mở nhiều mũi tấn công tuyến pḥng thủ của LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa T-54. Ngày hôm sau, tuyến pḥng thủ của TQLC phải thu hẹp lại, chỉ c̣n cách Ái Tử từ 2 đến 3 cây số.
– Ngày 27/4/1972 cộng quân tổng tấn công tất cả tuyến pḥng thủ của VNCH từ cửa Việt xuống đến căn cứ Phượng Hoàng. Tất cả ṇng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh và Hải Lăng. Đêm 27/4, pháo binh CSBV bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ.
– Ngày 28/4, Cộng quân pháo dữ dội vào tuyến pḥng thủ của Biệt Động Quân ở thị trấn Đông Hà, trong 2 ngày khoảng 7,000 quả đạn, đồng thời với chiến xa yểm trợ đă tấn công vào tuyến pḥng thủ của đơn vị nầy, Tiểu Đoàn 30/LĐ5BĐQ đă bắn hạ 13 chiến xa T54 và bắt sống một chiếc khác tịch thu hằng trăm vũ khí.
Tuy nhiên LĐ/BĐQ và Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh bị thiệt hại năng v́ pháo địch. Để bảo toàn lực lượng, các đơn vị nầy đă được lịnh triệt thoái để tăng cường bảo vệ pḥng tuyến căn cứ Ái Tử và pḥng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8/TQLC. Trong khi đó, Trung Đoàn 57/BB triệt thoái về Thị xă Quảng Trị. Trong đêm nầy cộng quân cũng tung chiến xa và bộ đội tràn qua cầu Ga Quảng Trị nhưng đă bị đẩy lùi.
Trong lúc đoàn người tị nạn thay v́ tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hổn loạn trên quốc lộ 1 và làm mục tiêu cho pháo binh cộng sản. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động v́ vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đă tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SĐ3BB cũng là đầu nảo chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc.
– Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào pḥng tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC. V́ thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên cũng đă triệt thoái về Quảng Trị, chỉ c̣n lại LĐ 147/TQLC pḥng thủ căn cứ Ái Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút khỏi Ái Tử về pḥng thủ thị xă Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được thi hành tốt đẹp.
– Trong khi đó ngày 28/4/1972 mặt trận B4 CSBV tại mật khu 611 tung SĐ324B gồm 2 Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 803 bao vây rồi tràn ngập căn cứ Bastogne ở phía Tây thành phố Huế do một Tiểu Đoàn của SĐ1BB trấn giữ. Trước áp lực quá nặng của CS căn cứ Checkmate gần đó được lịnh di tản. Đồng thời với việc tấn chiếm 2 căn cứ Bastogne và Checkmate, Trung Đoàn 66/304 CSBV cũng đang vân tập về vùng thung lủng Ashau để chuẩn bị tấn công Huế.

– Trong ngày 30 tháng 4, thế trận pḥng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Ḥa tại Quảng Trị đă trở nên nguy ngập. Lúc 2 giờ sáng, cộng sản tấn công Trung đoàn 2/3BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cộng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công tràn ngập các Tiểu đoàn ĐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị.
Quảng Trị thất thủ :
T́nh trạng hổn loạn khắp nơi, Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ Nam sông Thạch Hản pḥng thủ. Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, v́ hầu hết binh sĩ đă ră ngủ , để chạy theo gia đ́nh đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đă bị cộng sản đóng chốt nhiểu đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh v́ Tiểu đoàn 7 TQLC đă di chuyển ra pḥng thủ căn cứ Ái Tử.
Cùng với những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1.Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến hành chậm v́ thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực địch phản công.
Do đó đoạn đường huyết mạch, ch́ có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cộng sản đóng chốt, đă trở thành con đường xương trắng máu đào., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.
Trước các biến động chiến sự ngày càng nguy kịch, sáng ngày 30 tháng 4, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, triệu tập buổi họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn trong Cổ Thành Quảng Trị (tức trại Đinh Công Tráng). Tướng Giai tŕnh bày kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Thạch Hăn.
Theo sự phối trí, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ căn cứ Ái Tử sẽ rút về thị xă Quảng Trị để lập ṿng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ. Một tuyến pḥng thủ mới dọc theo bờ Nam sông Thạch Hăn sẽ được thiết lập bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân (BĐQ) với sự yểm trợ của một nửa lực lượng chiến xa và thiết vận xa. Thành phần Thiết Giáp (TG) c̣n lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày hôm sau. Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời căn cứ Ái Tử trưa ngày 30 tháng 4/1972.
Trưa ngày 30 tháng 4 khi các đơn vị của Lữ Đoàn 147 TQLC về đến bờ Bắc sông Thạch Hăn th́ cả hai cây cầu ngang sông Thạch Hăn đă bị giật sập. Cầu Ván do Cộng quân giật sập đêm 28 tháng 4/1972, c̣n cầu Sắt th́ do thiếu phối hợp, toán Công Binh đă đặt chất nổ phá cầu trước khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và ba tiểu đoàn 1, 4 và 8 TQLC đi qua. Đoàn xe và 12 súng đại bác đă được phá hủy trước khi vượt sông Thạch Hăn, và các đơn vị TQLC đến chiếm giữ các vị trí trọng yếu quanh thị xă.
– Sáng ngày 1/5/72, BTL/SĐ3/BB thông báo cho các đơn vị trú pḥng nguồn tin: “5 giờ chiều địch sẽ pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xă Quảng Trị”, và cho lệnh các đơn vi lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân tránh pháo nầy đă đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản cư về Huế theo quốc lộ 1.
– Ngày 2/5 Tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật.
Tin trên chẳng những làm cho mười bảy triệu quân dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà c̣n khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá mà c̣n giữ được.

(Tiếp tục ở dưới)