Trong lòng quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc vừa được Ủy ban Di sản Thế giới (UNESCO) công nhận là Di sản thế giới, bảo tháp giữ gìn xá lợi Phật hoàng Trần Nhân Tông nằm trang nghiêm, là biểu tượng cao quý cho nền tôn giáo bản địa của người Việt.
Dấu tích xá lợi Phật hoàng
Mới đây, Ủy ban Di sản Thế giới (UNESCO) đã chính thức công nhận quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản thế giới.
Quần thể di tích trải dài qua 3 tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang (nay là Bắc Ninh), Hải Dương (nay là Hải Phòng) với hàng trăm di tích và danh thắng, thuộc phạm vi của 6 khu di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt.
Mỗi dãy núi, mỗi di tích, di vật đều mang ý nghĩa văn hóa, tâm linh đặc biệt, xương sống của quốc gia Đại Việt thời Trần. Trong những lớp di sản văn hóa đó, lớp cốt lõi là các di tích liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp tu hành của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và sự ra đời của Phật giáo Trúc Lâm trên dãy núi Yên Tử.
Các di tích này bao gồm: hệ thống chùa tháp thuộc khu di tích và danh thắng Yên Tử và cụm di tích Am – chùa Ngọa Vân. Trong quần thể gồm hàng chục ngôi chùa, hàng trăm am, tháp, nổi bật nhất và được nhân dân tôn phụng là Tháp Tổ - Huệ Quang Kim Tháp.

Tháp Tổ - Huệ Quang Kim Tháp trầm mặc, uy nguy giữa núi rừng Yên Tử.
Xung quanh đó, những Đường Tùng huyền thoại bên núi Yên Tử và am Ngọa Vân trên dãy núi Bảo Đài kết nối, chùa Hoa Yên, chùa Vân Tiêu, chùa Một Mái,... tạo nên Thánh địa Trúc Lâm của Phật giáo và văn hóa Việt Nam.
Trong quần thể, Tháp Tổ ẩn mình lặng lẽ, chứa đựng những tinh hoa văn dân tộc, cũng như những bí ẩn lịch sử. Trong các thư tịch cổ xưa, cả Phật sử và Quốc sử đều có chung thông tin về Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258 - 1308), vị vua từng lãnh đạo quân dân thời Trần hai lần đánh thắng quân Nguyên – Mông.
Sau khi đánh bại quân xâm lược, Phật hoàng từ bỏ ngai vàng, lên Yên Tử tu hành, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Đến năm 1308, các bộ sử ghi nhận sự kiện Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn tại Am Ngọa Vân trên đỉnh ngọn Bảo Đài thuộc dãy núi Yên Tử.
Sau đó, xá lợi của Phật hoàng được tôn trí ở nhiều nơi gắn bó sâu sắc với sự nghiệp tu hành của ngài. Hiện tại, các điểm có dấu tích xá lợi vẫn còn tản mát và thách thức các nhà nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên, việc minh định tôn trí xá lợi Phật hoàng tại Huệ Quang Kim Tháp (Tháp Tổ) có lẽ không có gì phải bàn cãi. Các bộ sử lớn ở nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư, Thánh đăng lục, Việt sử tiêu án, Thiền tông bản hạnh, Tam Tổ thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục… đều đã ghi chép về nội dung này.
Theo các ghi chép lịch sử, một phần xá lợi Phật hoàng Trần Nhân Tông vẫn ẩn sâu trong Tháp Tổ.
Điển hình, trong tư liệu gần nhất là Lịch triều hiến chương loại chí (1821) do Phan Huy Chú (1782 - 1840) nhà thư tịch lớn, nhà bác học thời Nguyễn đã mô tả rất chi tiết về nơi tôn trí xá lợi Phật hoàng.
Trong đó, đoạn trích ghi lại việc xây cất lại Tháp Tổ thời lê Trung Hưng được đánh giá là những “trang vàng” giúp người Việt có được những hình dung gần nhất về tổ tiên của mình.
“Xá lỵ cất chứa lâu ngày không nát. Xá lỵ cất chứa ở tháp này, đến nay đã 500 năm. Gần đây, năm Kỷ Dậu (1789) đời Quang Trung nhà ngụy Tây (Tây Sơn), trấn thủ Hải Dương muốn phá cái tháp ấy để lấy đồng, mới phá hai tầng, thấy có một cái hòm to, mở ra xem thì lớp thứ nhất là hòm bằng sắt, lớp thứ hai là hòm bằng đồng, lớp thứ ba là hòm bằng bạc, lớp thứ tư là hòm bằng vàng, lớp thứ năm là hòm bằng đá quý.
Trong đó, để hai viên xá lỵ bằng đầu ngón tay, sắc sáng lóng lánh, vì thế lấy làm lạ, tâu lên. Được lệnh để trả lại chỗ cũ và phải xây lại các tầng tháp như cũ. Ôi! Cái tinh anh không tan, tháp cao còn mãi, dẫu không phải là chính lý, nhưng cũng chứng tỏ rằng Nhân Tông vốn tu luyện chân chính”, trích Lịch triều hiến chương loại chí.
Những bí ẩn chôn sâu
Trong hàng chục năm qua, công tác, khảo cổ, khảo cứu văn hóa tại khu di tích và danh thắng Yên Tử được nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu thực hiện. Trong đó, các nhà khoa học đã phát hiện ra các chiếc hộp, bảo tháp có cấu trúc tương đồng với tháp Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam.
Những địa điểm và di vật trên được cho là nơi tôn trí xá lợi của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Các nhà nghiên cứu đã dày công nghiên cứu sử liệu áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến như chụp X – Quang.
Tuy nhiên, sau hàng chục năm nghiên cứu, tìm tòi, thực chất, giới nghiên cứu vẫn chưa thể cho ra kết luận chính xác, cuối cùng về xá lợi của Phật hoàng. Phải chăng có những bí ẩn lịch sử chôn giấu hay những hạn chế về tôn giáo, phong tục khiến công cuộc khảo cổ tạm dừng vẫn tạm dừng ở các giả thuyết?
Trả lời câu hỏi trên, nhà nghiên cứu văn hóa, Tiến sĩ Nguyễn Ánh Hồng cho rằng, việc ứng xử với xá lợi Phật hoàng Trần Nhân Tông thể hiện tinh thần cao đẹp của Phật giáo nhưng cũng đậm đà màu sắc bản sắc, phong tục tập quán bao đời của người Việt.

Huệ Quang Kim Tháp với tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông trong một dịp đảnh lễ.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Ánh Hồng, văn hóa dân gian của người Việt Nam luôn hướng tới quan niệm về luân hồi. Do đó, người qua đời sẽ được sẽ được bao bọc rất kỹ, thậm chí đến khi cải táng sẽ rất cẩn thận đến từng mẩu xương.
“Ứng xử với hài cốt của người đã khuất chi phối bởi sự tái sinh của một con người, điều này không giống với niềm tin của đạo Phật khi hướng tới cõi niết bàn. Các phật tử luôn hướng tới việc đến cõi niết bàn hưởng hạnh phúc viên mãn chứ không phải tái sinh vào kiếp sau”, Tiến sĩ Hồng giải thích về sự khác nhau và sự nhập thế của đạo Phật vào văn hóa bản địa.
Đánh giá trên khía cạnh khoa học tự nhiên, vị Tiến sĩ nhận định, việc bảo vệ, giữ gìn bảo vật quốc gia và là độc bản nên phải bảo vệ nguyên gốc. Do đó, giới nghiên cứu không thể “khinh suất” mở ra, làm thay đổi tính chất, kết cấu của di vật.
Lấy ví dụ về các di sản trên thế giới và trong nước, Tiến sĩ Nguyễn Ánh Hồng dẫn chứng về 2 nhục thân của Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Tường tại chùa Đậu (Hà Nội) khi được bảo quản trong điều kiện tự nhiên và biến đổi khi được đưa ra nghiên cứu.
“Việc nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử, văn hóa là nhu cầu của nhân loại và nhiệm vụ của giới khoa học. Nhưng lịch sử đã ghi nhận nhiều lần các di sản bị thay đổi, biến tính khi được đưa ra khỏi môi trường bảo tồn tự nhiên.
Ở Việt Nam, ví dụ rõ ràng nhất là tại nhục thân 2 thiền sư tại chùa Đậu. Còn trên thế giới, Ấn Độ đã từng phải “trả giá” rất đắt khi đưa 29 bức tranh trong chùa hang Ajanta khi đưa lên mặt đất và bị phân hủy. Đây là những thiệt hại lớn và vô cùng đau xót cho nền văn hóa, tôn giáo của mỗi quốc gia và toàn nhân loại”, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng bày tỏ.
Lấy ví dụ thêm về việc cần hạn chế trong công tác khảo cổ tránh ảnh hưởng tới di sản, Tiến sĩ Hồng nêu thêm về di tích Lăng mộ Tần Thủy Hoàng được phát hiện sau đó mở cửa cho du khách tham quan từ năm 1986.
Tuy nhiên, hiện tại, diện tích tham quan được hạn chế, phần lớn khu lăng mộ vẫn được giữ nguyên hiện trạng và các pho tượng không được đưa lên mặt đất phục vụ cho hoạt động tham quan du lịch.
“Không phải là Trung Quốc họ không muốn tìm hiểu lịch sử và khai thác du lịch. Tuy nhiên, trong quá trình khảo cổ, họ phát hiện ra các di vật, chiến binh đất nung bị biến tính khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên như mất đi màu sắc, gãy, vỡ,...
Do đó, tôi đánh giá, việc tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, tôn giáo thông qua nghiên cứu Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, xá lợi Phật Hoàng là cần thiết nhưng phải đảm bảo các tiêu chí về trình độ kỹ thuật, giữ gìn sự nguyên vẹn cho các bảo vật”, Tiến sĩ Nguyễn Ánh Hồng nhấn mạnh.
VietBF@ sưu tập