Stavros Atlamazoglou, một chuyên gia quân sự nhân định: "Nhóm tác chiến tàu sân bay Harry Truman Mỹ hiện đang ở Biển Địa Trung Hải và có thể đến Ukraine trong thời gian ngắn".
Cổng thông tin 19fortyfive, có mối quan hệ thân cận với Lầu Năm Góc, đã đăng một bài báo thú vị của Stavros Atlamazoglou, một chuyên gia quân sự. Bài báo có tiêu đề "Nga sẽ không thích điều này: Hải quân Mỹ có tàu sân bay gần Ukraine".
Trong đó ông viết: "Nhóm tấn công tàu sân bay Harry Truman hiện đang ở Biển Địa Trung Hải và có thể đến Ukraine trong thời gian ngắn".
Ngoài chiếc tàu dẫn đầu, thành phần cục tàu sân bay tân công bao gồm tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường San Jacinto, các tàu khu trục USS Bainbridge, USS Cole, USS Gravely, USS Jason Dunham và khinh hạm Fridtjof của Na Uy.
Bất chấp việc ông Biden tuyên bố dường như Washington sẽ không hỗ trợ quân sự trực tiếp cho Kiev, nhưng ngoài nhóm tác chiến tàu sân bay nói trên, còn có thêm cả nhóm đổ bộ Essex, hiện đang ở Biển Ả Rập và Vịnh Ba Tư, cũng đã được đặt trong tình trạng báo động.
Lực lượng này đồn trú trên tàu sân bay trực thăng và các tàu đổ bộ "Portland" và "Pearl Harbor". Trên những tàu chiến này có khoảng ba nghìn lính thủy quân lục chiến tinh nhuệ của Mỹ.
Liên quan đến lực lượng không quân, hiện tại, tổng cộng 9 phi đội và phân đội không quân của Không quân và Hải quân Mỹ đã sẵn sàng lao vào "bảo vệ Ukraine", điều mà được cho là sẽ làm mất đi lợi thế của lực lượng không quân bờ biển của Lực lượng không quân-vũ trụ Nga.
"Các thuỷ thủ của chúng tôi luôn sẵn sàng mang tới những khả năng linh hoạt để thực hiện các nhiệm vụ, bắt đầu từ hỗ trợ những chiến dịch an ninh hàng hải và đảm bảo khả năng ứng phó với các tình huống khủng hoảng, đến mở rộng hợp tác an ninh trên chiến trường và đảm bảo sự hiện diện của hải quân tuyến đầu tại các vùng chiến dịch của hạm đội", Thuyền trưởng Gavin Duff, chỉ huy tàu sân bay USS Harry Truman cho biết.
Đúng vậy, theo tác giả của 19fortyfive, sự hiện diện tiếp tục được duy trì của cụm tàu sân bay tấn công Harry Truman trong khu vực (gần với Ukraine) là thể hiện sự ủng hộ đối với các đồng minh NATO và Ukraine, hơn là đe dọa sử dụng vũ lực chống lại Nga. Nhưng không phải mọi thứ đều đơn giản như chúng ta tưởng.
Nga không hề sợ hãi...
Thoạt nhìn, ý nghĩa bài viết của tác giả Atlamazoglou có vẻ là không có gì phức tạp, hơn nữa chuyên gia này gần như thừa nhận rằng người Nga không hề sợ hãi trước cụm tàu sân bay tấn công đang neo đậu ở Biển Ionian nằm giữa Hy Lạp và Ý.
Mặt khác - đưa một tàu sân bay Mỹ thẳng tiến đến Biển Đen. Giá như lúc đó Moscow bị kích động. Đương nhiên, sẽ có ai đó nói, tại sao Nga lại bận tâm nếu có Công ước "Montreux" được ký kết vào tháng 7/1936?
Hiệp ước này, như đã biết, giới hạn việc đi qua Dardanelles và eo biển Bosphorus của các tàu chiến những quốc gia không thuộc Biển Đen với tải trọng 15.000 tấn, trong khi tàu Harry Truman có trọng lượng 100.000 tấn.
Nhân tiện, cả Ankara đã nhiều lần tuyên bố rằng họ sẽ tuân theo Công ước "Montreux", kể cả khi là thành viên của NATO. Vậy là chủ đề đã khép lại? Hóa ra là không. Người Mỹ gây áp lực lên người Thổ, khi yêu cầu viết lại hiệp ước này, để quy định cơ chế qua lại Dardanelles và eo biển Bosphorus.
Chuyên gia phân tích Aron Lund từ Cơ quan Nghiên cứu Quốc phòng Thụy Điển (FOI) nhớ lại rằng vào ngày 5/4/2021, chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ bắt giữ 10 đô đốc đã nghỉ hưu, những người từng lên tiếng cảnh báo không được rời khỏi Công ước "Montreux".
Đằng sau những cánh cửa đóng kín, họ đã nhận được lời giải thích nào đó, để rồi không ai trong số họ sau này còn nói đến vấn đề này nữa.
Công ước "Montreux" có ý nghĩa hơn cả đối với Ankara so với các nước đã ký kết khác. Trong giai đoạn 2014-2019, trung bình hàng năm có 42.258 lượt tàu thuyền qua lại Dardanelles và eo biển Bosphorus, mà phần lớn trong số đó là các tàu thương mại.
Nếu tất cả đều trả phí giống như việc đi qua kênh đào Suez, thì bây giờ đã không có khủng hoảng kinh tế ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Cụ thể, như đã được lưu ý trong một báo cáo năm 2017 của Chatham House, các eo biển này là một trong những hành lang toàn cầu quan trọng nhất đối với hoạt động xuất khẩu lương thực. Có tới 12% kim ngạch ngũ cốc của thế giới đi qua chúng, trong đó 1/5 là lượng lúa mì thế giới.
Bây giờ là về điều khó chịu nhất. Người Mỹ đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Mỹ không phải là bên ký kết Công ước "Montreux" và tuân thủ Công ước theo quán tính, phần lớn là vì tôn trọng sức mạnh quá khứ của Liên Xô, tuy nhiên, đã sụp đổ 30 năm trước.
Ông Aron Lund nhấn mạnh: "Washington và các đồng minh NATO ủng hộ Công ước khung "Montreux" trong Chiến tranh Lạnh vì nó không cho phép Moscow nhanh chóng di chuyển các tàu chiến của Hạm đội Biển Đen của Liên Xô ở Địa Trung Hải.
Nhưng trong giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh, Romania và Bulgaria, rõ ràng, không phải là không có sự thúc giục từ phía Mỹ, đã chủ trương sửa đổi Công ước vì những lợi ích đảm bảo cho NATO tiếp cận Biển Đen linh hoạt hơn.
Chuyên gia của FOI lưu ý rằng có những thời điểm Ankara cũng sẵn sàng từ bỏ "Montreux", nhưng Stalin lại đe dọa chiến tranh, điều này khiến người Thổ phải thận trọng trong nhiều năm sau đó. Nhìn chung, vì lo sợ về một cuộc xung đột mới với Nga (khi đó vẫn là Liên Xô), Thổ Nhĩ Kỳ đã gia nhập NATO.
... nhưng nguy cơ đã hiển hiện?
Ngày nay, cán cân lực lượng ở Biển Đen đang đứng về phía Nga, nhưng mọi thứ sẽ thay đổi nếu Mỹ có thể cử tàu sân bay và tàu ngầm chiến lược tới đây. Có đúng thể hay không - đó là một câu chuyện khác! Dù sao đi chăng nữa, đây là quan điểm của người Mỹ, bất chấp các tổ hợp chống hạm bờ biển của Nga.
Ông Aron Lund lưu ý, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã trao đổi gay gắt về những eo biển này vào năm 2015 và đầu năm 2016, vào thời điểm căng thẳng gia tăng sau sự can thiệp của Nga vào Syria. Ngay cả sau đó, người Thổ đã nhắc nhở thông qua các kênh của họ về các chi tiết của "Montreux", những thứ mà người Nga chắc chắn phải ghi nhớ.
Hoá ra, Điều 28 cho phép bất kỳ bên ký kết nào của Công ước đưa ra yêu cầu bãi bỏ nó. Nếu điều đó xảy ra, các bên sẽ gặp nhau để đàm phán một thỏa thuận mới, nhưng trong bất cứ trường hợp nào, hai năm sau khi thông báo đầu tiên phát đi, hiệp ước sẽ ngừng có hiệu lực, mặc dù "nguyên tắc tự do đi lại và hàng hải" được quy định tại Điều 1 sẽ tiếp tục có hiệu lực "vô thời hạn".
Ngoài ra, Điều 29 thiết lập một cơ chế sửa đổi định kỳ theo lộ trình 5 năm luân phiên, bắt đầu từ khi Công ước có hiệu lực vào năm 1936.
Thời hạn 5 năm hiện tại kết thúc vào ngày 09/11/2026 và đề xuất sửa đổi phải được đệ trình chậm nhất vào tháng 8/2026. Đúng đến thời điểm này, Erdogan hứa hẹn sẽ hoàn thành việc xây dựng một tuyến dự phòng cho Bosphorus - Kênh đào "Istanbul".
Bây giờ sẽ đến việc liệu tàu sân bay Mỹ có thể tiếp cận bờ biển Crimea hay không? Hóa ra là có thể, nếu các sửa đổi được thực hiện đối với Điều 14 và 18, liên quan đến việc dịch chuyển các tàu chiến đi qua Dardanelles và Bosporus.
Theo FOI, việc sửa đổi sẽ cần sự đồng ý của 3/4 quốc gia ký kết "Montreux", bao gồm 3/4 quốc gia ven Biển Đen, mà một trong số đó phải là Thổ Nhĩ Kỳ.
Moscow chắc chắn sẽ một mình một ngựa, trong khi Ankara, với quyền phủ quyết của mình, có thể áp đặt mức thuế gián tiếp cao, thậm chí là cắt cổ đối với việc quá cảnh và dễ dàng lách lệnh cấm thu phí qua eo biển.
Ví dụ, phí môi trường, bảo hiểm tai nạn hoặc phí hộ tống bắt buộc của Lực lượng An ninh Thổ Nhĩ Kỳ. Tất cả những thứ hiện đang tồn tại, nhưng vẫn còn rất thấp.
Nói chung, Thổ Nhĩ Kỳ không thể một mình sửa đổi Công ước, nhưng có quyền ngăn chặn bất kỳ đề xuất nào do các thành viên "Montreux" khác đưa ra. Tuy nhiên, hiện nay việc tái ký Công ước mang lại nhiều rủi ro cho Ankara hơn là các ưu thế.
Nhưng ông Erdogan, trong bối cảnh nền kinh tế đang rơi vào vực thẳm, có thể dễ dàng đồng ý với việc sửa đổi Điều 14 và 18 để đổi lấy các khoản hỗ trợ kinh tế khẩn cấp.
Như một lý do, ông ta sẽ nói: "Xin lỗi, Putin! Chúng tôi rất cần tiền!".
Và một điều nữa: Vào tháng 12/2019, ông Erdogan, FOI nhớ lại, đã đưa ra một tuyên bố nguy hiểm đối với Nga về khía cạnh chính trị của Kênh đào "Istanbul" đang được xây dựng. Ông ấy nói: "Tôi không sử dụng [khía cạnh chính trị của "Montreux"] ngay bây giờ, nhưng khi thời điểm đến, chúng tôi cũng sẽ sử dụng nó".
Do đó, không loại trừ việc sau vài năm nữa chúng ta sẽ thực sự đọc thông tin rằng "Tàu sân bay Mỹ sẽ đi đến bờ biển Crimea, Thổ Nhĩ Kỳ đã gật đầu cho quá cảnh qua eo biển Bosphorus hoặc kênh đào "Istanbul".
VietBF @ Sưu tầm