Nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20-10, xin kể những câu chuyện thú vị về truyền thống làm đẹp của phụ nữ nước ta được ghi chép dọc chiều dài lịch sử, văn hóa, quan niệm dân gian.Tùy theo tiêu chuẩn về sắc đẹp của từng thời kỳ lịch sử mà phụ nữ Việt Nam có những cách nh́n nhận về chuyện làm đẹp khác nhau, nhưng có chung quan niệm về sự ḥa hợp giữa vẻ bên ngoài và vẻ đẹp tâm hồn, thể hiện qua công - dung - ngôn - hạnh làm nên sự duyên dáng, nền nă, dịu dàng, vén khéo, tài năng của
phụ nữ.
Trước hết về trang phục, phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa đă ư thức phải chỉn chu, lịch sự, chuẩn mực và có khi xem đó là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh trong những hoàn cảnh đặc biệt. Sách “Việt sử tiêu án” (Bộ sử viết bởi Ngô Th́ Sĩ, ghi lịch sử nước ta từ thời Hồng Bàng đến khi bị nhà Minh xâm lược) kể câu chuyện bà Trưng Trắc ra quân khi chưa hết tang chồng, nhưng vẫn trang phục chỉnh tề và trang trọng, chứ không mang lễ tang áo rũ. Khi được hỏi v́ sao, bà giải thích việc binh phải ṭng quyền, việc nước nặng hơn tang nhà, nếu giữ lễ tang áo rũ, sẽ tạo h́nh ảnh buồn bă, làm giảm nhuệ khí ba quân.
Từ xưa, phụ nữ Việt Nam quan niệm “cái răng cái tóc là gốc con người”. Quan niệm về răng th́ tùy tập quán và góc nh́n của từng thời mà có lúc răng đen được xem là chuẩn mực của vẻ đẹp. Tuy nhiên, dù là răng đen hay trắng th́ ca dao vẫn ghi nhận: “Ḿnh về ḿnh nhớ ta chăng/ Ta về ta nhớ hàm răng ḿnh cười”. Về tóc, phụ nữ Việt Nam nói chung luôn có những bí quyết dân gian để tóc luôn óng mượt, chắc khỏe, thơm tho. Ví dụ như ở Nam Bộ, các d́ và các chị luôn quan tâm vấn đề làm khỏe mạnh da đầu và tóc, bằng cách thường xuyên gội đầu bằng nước tro bếp lóng trong, nấu và xông hoa bưởi, rồi xức chải bằng dầu dừa. Nhờ đó tóc của phụ nữ óng mượt, dễ tạo dáng, góp phần làm nên nét đẹp duyên dáng khó quên của nữ giới Việt Nam. Tuổi cập kê th́ tóc xơa ngang lưng tha thướt yểu điệu, đi vào ca dao: “Tóc ngang lưng vừa chừng em bới/ Để chi dài bối rối dạ anh”; hoặc cột đuôi gà nhí nhảnh qua câu ca dao “Một thương bỏ tóc đuôi gà, hai thương ăn nói mặn mà có duyên”. Nếu ở tuổi đă là bà, là mẹ, th́ phụ nữ chọn kiểu làm duyên bằng cách bới tóc thả bánh lái “ba ṿng một ngọn”…
Về chuyện sơn móng tay, đă có từ xa xưa, khi người ta chưa biết sơn mà chỉ biết nhuộm. Phẩm nhuộm là loại lá mà dân gian gọi “lá nhuộm móng tay”, đem giă nát rồi đắp lên móng tay, lấy lá vông cột trùm lại, để một đêm, sáng ra móng tay sẽ đỏ đẹp như màu son. Cứ vào dịp Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5), đa số phụ nữ nhuộm móng tay, tục này vừa để trừ tà theo quan niện dân gian, vừa để làm đẹp. Người ta cũng nhuộm móng tay cho trẻ con, nhưng không nhuộm ngón tay trỏ, v́ cho rằng phải kiêng. Con trai đến tuổi lớn không sợ tà ma nữa th́ bỏ tục, c̣n con gái th́ vẫn nhuộm móng tay để làm đẹp.
Một tập quán làm đẹp phổ biến khác là vẽ lông mày, thường là dùng bút mực màu đen tô cho đôi lông mày đen hơn, đậm hơn, nhưng lại nhỏ và cong lên như h́nh ṿng nguyệt, gọi là mày ngài. Mày ngài cùng với mắt phượng được coi là nét đẹp chuẩn của phụ nữ phương Đông. Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử rất chú ư đôi mày và trang điểm sao cho thật đẹp. Nên cụ Lê Quư Đôn mới ghi trong “Vân đài loại ngữ” rằng: “Đàn ông th́ lấy trâm cài tóc, đàn bà th́ vẽ lông mày, không ai bỏ được”. C̣n ca dao có câu: “Trên trời có đám mây xanh/ Ở giữa mấy trắng chung quanh mây vàng/ Ước ǵ anh lấy được nàng/ Để anh mua gạch Bát Tràng về xây/ Xây dọc rồi lại xây ngang/ Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân/ Có rửa th́ rửa chân tay/ Đừng rửa lông mày chết cá ao anh”.Từ ngàn xưa tiền nhân đă biết điều chế ra nhiều loại son, phấn, sáp thơm, nước hoa. Hầu hết hương liệu đều lấy từ thực vật, nhiều nhất là hoa. Người b́nh dân miền thôn dă cũng dùng cả lá (như sả, tràm, bưởi, bạch đàn), quả (như vỏ bưởi, thắng cơm dừa nạo, bồ kết), vỏ cây (như quế)… Nói chung loại nào có hương thơm và có tác dụng làm đẹp th́ dùng. Từng vùng miền đều có sản xuất các loại hương quư như trầm hương, bạch đàn, quế, long năo, kỳ nam, uất kim, tường vi, giáp hương (một loại hương trầm)… Nhiều loại hương quư ấy phối hợp lại, chế thành hợp hương để ướp tẩm son môi, pha chế nước súc miệng, xông hương cơ thể… Người ta chú ư nhất đến hoa bưởi. Sách “Quế hải ngu hành chí” nói: “Bào hoa, người Nam gọi là du hoa, tức hoa bưởi, nở về cuối mùa xuân, nhụy tṛn, trắng như hạt châu lớn, đă chiết th́ giống như hoa trà, hương rất thơm nhẹ. Người ta hái hoa ấy nấu nước thơm, phong vị rất thú”. Ông Lê Quư Đôn th́ ghi nhận: “Nay tục nước nhà, người ta hái hoa bưởi theo cách cất rượu mà cất nước hoa. Lấy mấy giọt nước hoa ấy bôi vào đầu th́ thấy thơm mát. Những nhà quư phái thường dùng để tặng nhau”. Nói chung, trong quan niệm làm đẹp của phụ nữ Việt, hương thơm là không thể thiếu.
Cụ Vương Hồng Sển trong “Sài G̣n năm xưa” có thuật kể: “Hồi Tây mới đến, có Cô Ba, con gái thầy thông Chánh, là đẹp không ai b́; đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba ṿng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không v́ son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi nhà nước in h́nh vào con tem nhà thơ dây thép (bưu điện) và một hiệu buôn xà bông xin phép họa h́nh làm mẫu rao hàng: xà bông Cô Ba”. Từ lời thuật kể trên có thể hiểu phụ nữ đẹp khi biết cách tôn vẻ tự nhiên và tạo sự tự tin riêng có. Cách nh́n về cái đẹp như thế đến nay vẫn c̣n giá trị.
|
|