Ngôi nhà bằng gỗ khá tươm tất của gia đình anh em ông  Tuol – nhân vật chính của câu chuyện chung vợ nằm cách trụ sở UBND xã  Hồng Kim chừng 200m. Trên chiếc chiếu trải ngay giữa nền gian nhà chính,  ông Hồ Văn Tuol, già hơn nhiều so với tuổi 70, bỏ đàn, kết thúc một bài  hát có giai điệu rất buồn bằng tiếng Pa Kô vừa lúc khách đến.
 Ngoài sân sau, ông Hồ Văn Tua, 66 tuổi, người em đang  cùng cây rựa loay hoay với mấy bụi mía. Không giống với hình dung của  chúng tôi về một sự ngại ngùng, xa lánh… khi lần đầu tiên nghe một nửa  cán bộ dân số xã Hồng Kim kể về chuyện này, việc tiếp xúc với gia đình  hai anh em ông Tuol và Tua khá suôn sẻ.
 
Mối tình lầm lỗi
 Ông Tuol gọi vợ mình, bà Căn Y đang lúi húi dưới bếp  cùng em trai, cũng là chồng thứ hai của bà Căn Y vào ngồi nói chuyện.  Một cảm giác rất khó tả khi nghe cả hai ông bảo bà Căn Y kể cho nhà báo  nghe, bởi có nhiều chuyện bây giờ họ không nhớ.
 Ông Tuol thật thà: “Giờ già rồi nhìn hắn rứa, chứ ngày  xưa, hắn đẹp nhất vùng này”. Ông kể ngày đó, đêm nào trai bản từ khắp  nơi cũng kéo về nhà bà Căn Y đông vui như hội nhưng bà không yêu ai hết.
 
                             |          
                                   Năng khiếu đàn hát của ông Tua đã đưa ông và chị dâu đến một mối tình lầm lỗi (ảnh nhỏ trên). 
              |          
      
 Vào giai đoạn cao điểm của cuộc chiến chống Mỹ, bà Căn Y  tham gia lực lượng du kích địa phương, vận chuyển lương thực tiếp tế  cho bộ đội. Trong những ngày băng rừng vượt suối làm nhiệm vụ, bà đã  gặp, yêu thương và nên vợ chồng với ông Tuol, lúc đó là bộ đội. Tuy vậy,  niềm vui chồng vợ của họ chỉ tính bằng ngày bởi những năm tháng đó, nhà  của ông là ngoài chiến trường, để lại bà Căn Y mòn mỏi ở nhà chồng xa  lạ với một cuộc sống mới.
 Ông Tua, thời điểm đó là một giáo viên công tác ngay  tại địa phương và cùng ở chung nhà với chị dâu. Là người có biệt tài đàn  giỏi hát hay, lại là một trí thức nên ông Tua được rất nhiều cô gái  trong vùng để ý. Tuy nhiên, ông Tua lại phớt lờ tất cả, không thèm để ý  đến ai, bởi lúc đó, trong lòng ông chỉ có mỗi cô gái đẹp nhất là… chị  dâu mình.
 Tình yêu và sự xốc nổi của ông Tua, những tháng ngày cô  quạnh của một người con gái vừa mới lấy chồng như bà Căn Y cứ đánh đu  như vậy hết ngày này sang tháng khác và cuối cùng, chuyện gì đến cũng đã  đến: Họ không còn là chị dâu, em chồng.
 Ngạc nhiên là sau khi biết chuyện tình cảm giữa vợ và  em trai mình sau đó 3 năm, ông Tuol không hề ghen tuông, giận dữ… như lẽ  thường mà lại hết mực vun đắp cho tình yêu của hai người. Ông Toul dẫn  em trai Tua đến nhà bố mẹ bà Căn Y xin bố mẹ vợ cho em trai mình ăn nắm  xôi (một nghi lễ khi gả con gái của người Pa Kô) để chính thức trở thành  chồng của bà Y.
 “Bố mẹ Căn Y đồng ý cho em mình ăn nắm xôi và sau đó em mình trở thành người chồng thứ hai của con gái họ” - ông Tuol nhớ lại.
 Ông Tua xấu hổ gãi đầu, nói “kể nghe rứa thôi chứ lúc  đó sóng gió lắm” vì chuyện của họ làm xôn xao cả vùng. “Không thấy ai  đồng ý cả mà chỉ thấy toàn người phản đối vì cho rằng đây là việc làm vi  phạm nghiêm trọng luân thường đạo lý thôi”, ông kể.
 
Cả hai ông bố đều không biết ai là con mình
 Khi ông Tua lấy bà Căn Y và sinh đứa con đầu lòng, già  làng Quỳnh Đồng lập tức họp dân bản để bàn về chuyện động trời chưa từng  xảy ra đối với cộng đồng dân tộc người PaKô từ bao đời nay. Nhiều dân  bản đưa ra lý lẽ rằng, lâu nay, người Pa Kô dù ít xảy ra, vẫn chấp nhận  một người đàn ông lấy hai vợ, hoặc một người đàn bà lấy hai chồng nhưng  không thể lấy hai anh hoặc chị em ruột khi cả hai đang còn sống.
 Một số người “bênh vực” với lý lẽ:  Ông Tua đã trót yêu  và lấy Căn Y rồi, không thể chia cách được, nhưng ông Tua phải chịu  hình phạt thích đáng. Hình phạt cuối cùng được già làng Quỳnh Đồng đưa  ra là ông Tua nộp một con lợn, một con dê để cúng Giàng và thần linh để  thần linh không bắt tội và để dân làng được ăn những con vật ấy.
 Sau ngày bà Căn Y sinh đứa con đầu lòng tên Xuân không  lâu thì đất nước thống nhất. Ông Tuol trở về quê bươn chải mưu sinh với  nương rẫy, còn ông Tua tiếp tục sự nghiệp dạy chữ ở gần nhà. Thỉnh  thoảng người dân địa phương bắt gặp cảnh bà Căn Y đi với làm với ông  Tuol vài ngày, rồi lại đi cùng ông Tua vài bữa. Thời gian đầu, người dân  rất ái ngại khi chứng kiến cảnh tượng cười ra nước mắt này, nhưng rồi  gặp nhiều thành quen.
 Rồi bà Căn Y tiếp tục sinh ra 9 người con nữa. Tất cả  đều lớn lên bình thường và khoẻ mạnh. Đặc biệt, chính bà cũng không thể  biết trong số 10 người con mà mình sinh ra ai là con của ông Tuol và ai  là con của ông Tua.
 “Không còn cách nào khác, gia đình mình đã thống nhất  cách gọi cho các con. Ông Tuol là anh nên được mấy đứa gọi là bố, còn  ông Tua là em nên các con gọi là… chú” - bà Căn Y  thành thật kể. Ấy vậy  nhưng hôm gặp chúng tôi, ông Tua khoe: “Con của bố cả đó. Con Lý (Hồ  Thị Lý) là con thứ hai, làm dâu ở Hồng Trung mà tuần mô cũng về thăm bố.  Thằng Sơn là con út đang đi học…”.
 Rồi ông kể về tính cách và cuộc sống của những Lành,  Lai, Lê, Kên, Sâm, Sang, Sơn…, những người con mà ông không thể biết  được ai là con thực sự của mình, thi thoảng mắt ánh lên những vệt buồn  như thể chúng được chất chứa trong lòng từ lâu lắm. Ông nói “bố ước mơ  một ngày được các con gọi một tiếng bố như chúng nó vẫn thường gọi với  anh trai mình” mà không thể.
 Chị Hồ Thị Lý, người con thứ hai, có rất nhiều điểm  giống ông Tua. Cả ông Tua và chị Lý đều tin chắc họ là cha con ruột  nhưng họ không thể phá bỏ lời hứa với bà Y để xưng hô bố con. “Đã nhiều  lần mình hỏi vợ cặn kẽ để mong biết được đứa nào là con của mình nhưng  Căn Y không thể nhớ được”, ông Tua buồn bã. Chị Lê Thị Bảo, vợ của người  con trai cả thì kể rằng, những ngày mới về làm dâu, nhiều lần chị gọi  ông Tua là bố nhưng ông Tua lại bảo không nên gọi vậy vì sợ ông Tuol  buồn.
 Bà Căn Y kể rằng, từ khi bà trở thành vợ chung của hai  anh em ông Tuol, chưa bao giờ bà thấy giữa hai người này xảy ra xích  mích hay lời qua tiếng lại. Hai người chồng của bà lúc nào cũng cư xử  với nhau rất hoà thuận, luôn kính trên nhường dưới. Tình cảm không hề  sứt mẻ của anh em ông Tuol khiến bà con trong thôn bản ngỡ ngàng. “Nếu  không có tình cảm anh em thương yêu nhau hết mực thì gia đình mình tan  vỡ từ lâu lắm rồi chứ không thể yên ấm đến ngày hôm nay” - bà Căn Y nói.  Hỏi bí quyết, bà cười: “Mình là người vợ của hai chồng nên phải biết  chia sẻ tình cảm cho hai người công bằng, phải yêu thương hai người  chồng như nhau. Chỉ cần thiên vị tình cảm cho một bên thì sẽ khó giữ  được hạnh phúc gia đình”.
 Cả hai anh em ông Tuol đều rất hối hận về việc lấy  chung vợ của mình. “Chuyện mình lấy vợ của anh trai là một sai lầm khó  có thể tha thứ, nhưng dù sao cũng xảy ra rồi. Chừ mình chỉ còn có thể  đối xử thật tốt với anh để mong anh xoá được vết thương lòng ngày nào”,  ông Tua nghẹn giọng. Ông nói, điều ông mong muốn hiện nay là 10 người  con ngày càng khôn lớn, trưởng thành và nhất là không lặp lại sai lầm  như bố mẹ mình.
 Chị Hồ Thị Dập, cán bộ UBND xã Hồng Trung cho biết:  Trước khi lấy chồng, chị ở cùng làng nên biết rất rõ chuyện hai anh em  cùng lấy bà Căn Y và sinh được 11 đứa con. Lần đầu tiên trong đời chị  thấy chuyện này và đây là trường hợp duy nhất tại A Lưới.
 “Thời phong kiến thì mới có chuyện này. Ngày nay, chỉ  có thể người anh chết đi thì người em có thể được lấy người vợ của anh.  Đây là một câu chuyện mang tính lịch sử đã rồi. Ngày nay chúng ta chỉ kể  để biết và rút ra bài học chứ không nên phán xét, bởi đúng hay sai gì  thì chuyện cũng đã xảy ra”, chị nó.
 Theo Lao Động