Trước thềm Hội thảo Quốc tế lần thứ ba ‘Biển Đông - Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong khu vực’ diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày 4 - 5/11, Bay Vút đã có cuộc phỏng vấn ông Phạm Quốc Anh - Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam và ông Hoàng Việt - Giảng viên Đại học Luật TP.HCM, đồng thời là thành viên của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông.
Đường lưỡi bò của Trung Quốc trên Biển Đông. (HoangSa.Org)
Tranh thủ sự ủng hộ
Ông Phạm Quốc Anh sẽ có mặt trong ban chủ tọa điều hành và bế mạc hội thảo. Ông cho rằng Biển Đông ngày càng đóng vai trò quan trọng và thu hút được sự quan tâm theo dõi của chính phủ nhiều nước. Đây là khu vực hoạt động đúng theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hiệp quốc. Tuy nhiên, thời gian qua xuất hiện nhiều tranh chấp trên Biển Đông làm dấy lên nhiều dư luận lo ngại. Trong đó đáng chú ý nhất là những hành động mang tính bành trướng từ phía Trung Quốc.
Theo ông Quốc Anh, tinh thần của hội thảo lần này tại Hà Nội cũng sẽ không khác mấy so với hai lần tổ chức trước đó.
“Đó là những tiếng nói, phân tích sắc sảo của các chuyên gia luật, các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới về những khúc mắc trong tranh chấp trên Biển Đông hiện tại và hướng tháo gỡ trong tương lai. Rất nhiều tham luận ủng hộ Việt Nam và lên án sự vô lý của Trung Quốc trong cái gọi là “đường lưỡi bò trên Biển Đông””, ông Quốc Anh nói.
Ông cũng dẫn chứng: tại hai cuộc hội thảo trước đây, đại diện phía Trung Quốc đã không thể lý giải một cách rành rẽ, thuyết phục về “đường lưỡi bò” do mình đưa ra.
“Hội thảo lần này cũng chưa thể đưa ra một tuyên bố to tát nào nhưng nó sẽ giúp Việt Nam tìm thêm được những tiếng nói ủng hộ của cộng đồng quốc tế nói chung và trong khu vực nói riêng. Sau hội thảo này, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông có lẽ sẽ cần được đưa ra bàn thảo tại các nước có liên quan hay có quyền lợi trực tiếp để xác định thêm những cứ liệu, căn cứ trong việc hợp tác, cùng nhau phát triển trên vùng biển đang ngày càng ‘nóng’ này”, ông Quốc Anh bày tỏ.
Giảm căng thẳng, tránh bẫy “cùng khai thác”
Tại cuộc hội thảo lần này, Giáo sư Carl Thayer - chuyên gia về các vấn đề Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Australia sẽ có bài tham luận quan trọng liên quan đến việc xây dựng bản hướng dẫn thực thi Hiệp định Thân thiện và Hợp tác ASEAN đã ký vào năm 2002 và Tuyên bố chung về ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (DOC). Giáo sư Carl Thayer sẽ đánh giá sự phát triển của các nước có liên quan trước và sau khi thông qua bản hướng dẫn DOC này.
Theo ông Phạm Quốc Anh, bản hướng dẫn DOC rất cần thiết và phải thực hiện theo từng bước để giảm nhẹ căng thẳng trên Biển Đông. Hơn nữa, sau những chuyến làm việc mới đây của lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc, biên bản ghi nhớ với nhiều điều khoản đã được ký kết nhằm hài hòa quyền lợi cả hai bên trong khu vực.
Trong khi đó, thạc sĩ Hoàng Việt, Giảng viên Đại học Luật TP.HCM, cho rằng Khoản 3 Điều 74 và Điều 83 của Công ước Luật Biển năm 1982 có quy định: “Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở Khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng…”. Đây chính cơ sở pháp lý của luật pháp quốc tế trong việc tiến hành hợp tác khai thác chung trong khi chờ phân định.
Theo ông Việt, việc khai thác chung không phải là ý tưởng mới. Đến nay đã có khoảng 20 điều ước quốc tế về mô hình hợp tác khai thác chung được ký kết, ví dụ như Thỏa thuận khai thác chung giữa Papua New Guinea và Australia năm 1978, Nauy và Anh ở Biển Bắc, Ả-rập Xê-út và Sudan, Thái Lan và Malaysia, Australia và Indonesia, Việt Nam và Malaysia…
Tuy nhiên, điều khiến ông Hoàng Việt lo ngại là trong các cuộc hội thảo gần đây, học giả phía Trung Quốc đã nhắc lại quan điểm truyền thống của Trung Quốc trong vấn đề giải quyết tranh chấp Biển Đông: chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Nếu xét về mặt hình thức thì đề nghị của phía Trung Quốc dường như hợp lý nhưng dưới góc độ pháp lý thì cơ sở để Trung Quốc tham gia tranh chấp Biển Đông là dựa vào yêu sách về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và lập lờ sử dụng “đường lưỡi bò” - một yêu sách phi lý chiếm gần 80% toàn bộ Biển Đông.
Ông Phạm Quốc Anh cũng nhận định: nếu dùng các chứng cứ lịch sử và pháp lý, Trung Quốc khó lòng thuyết phục được dư luận quốc tế và khó có thể giành được lợi thế trong cuộc tranh chấp Biển Đông.
“Đề nghị “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc làm cho dư luận dễ bị lầm tưởng là phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế”, ông Việt nói.
Nhiều chuyên gia nhận định Trung Quốc vừa muốn thực hiện “khai thác chung” vừa muốn duy trì yêu sách “đường lưỡi bò” chiếm gần 80% Biển Đông và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, khu vực khai thác đều nằm trên thềm lục địa hiển nhiên thuộc chủ quyền của nước khác thì cần phải xem xét kỹ lưỡng trong việc đàm phán.
Một trong những giải pháp cấp bách sắp tới của Việt Nam, theo ông Phạm Quốc Anh, là việc xây dựng bộ cơ sở dữ liệu, pháp lý về biển, đảo.
“Do còn nhiều ý kiến khác nhau nên Luật Biển - mà trong đó Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử để khẳng định vùng biển thuộc về Việt Nam - chưa thể ra đời. Tuy nhiên, Việt Nam cần có đủ cơ sở pháp lý để khởi kiện ra tòa án quốc tế bất kỳ vụ việc xâm phạm, phá hoại nào trên vùng biển thuộc Việt Nam quản lý, khai thác. Bên cạnh đó là việc tăng cường xây dựng lực lượng quốc phòng trên biển, kiểm lâm ngư…”, ông Quốc Anh bày tỏ.
Thế Văn/bayvut