26 THÁNG 10 : NGÀY QUỐC KHÁNH CỦA QUỐC GIA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Sau 50 năm, bốn chữ VIỆT NAM CỘNG HÒA vẫn còn là một văn bản hợp pháp và chính danh cho những người Việt Nam muốn dùng để đòi hỏi tự do, dân chủ ở trong nước cũng như nơi hải ngoại.
Nhưng mấy ai nhớ đến ngày Quốc khánh 26 tháng 10 và Tổng Thống Ngô Đình Diệm
– Người lãnh đạo, tạo dựng ra VIỆT NAM CỘNG HÒA.
Hầu hết những người còn quan tâm về thời cuộc từ vận mệnh quốc gia đến đời sống của hiện nay, tất cả đều muốn dấn thân để đấu tranh “Tìm lại hai chữ Tự Do cho đất nước và dân tộc”.
Nhưng, nhìn lại quãng đường đấu tranh mà chúng ta đã và đang làm đều chưa đưa ra được một sự sáng tỏ nào để có thể khả dĩ chấp nhận đó là một đường lối chính danh.
Vì chúng ta không có chủ thuyết chiến lược để làm nền tảng chung cho hành động, khả năng thay đổi chiến lược đoản kỳ và trường kỳ đã không được thay đổi theo nhu cầu và sự biến đổi quá nhanh của thời cuộc.
Trong khi đó từ năm 1945 đến nay , Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam, dựa vào đó làm chiến lược và chiến thuật để làm nền tảng thực hiện đường lối độc tài đảng trị, gieo rắc thống khổ lên mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam.
Việt cộng đã và đang đánh lừa dư luận thế giới trong nhiều thập niên qua về hai chữ “Dân chủ” .
Dựa vào lòng khát khao hai chữ "Tự do" khi đang bị sống dưới ách đô hộ của bọn thực dân Pháp thời trước 1954.
Dựa vào nhược điểm trình độ dân trí thấp của dân tộc.
Dựa vào nhiều khuyết điểm của tầng lớp lãnh đạo không chịu nâng cao đời sống cho dân chúng.
Không nhường cơm sẻ áo cho đồng bào mà chỉ biết làm tay sai, vơ vét của dân cho ngoại bang.
Hà khắc dân chúng để hưởng đặc quyền cai trị, coi đồng bào như cỏ rác giống như cộng sản hiện nay.
Vì thế mà cộng sản đã dễ dàng chiếm đoạt quyền cai trị sau khi đã đánh lừa được sự nhẹ dạ của dân chúng, của những kẻ ngu dại ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.
Nhìn lại lịch sử cận đại, Việt cộng đã hoàn toàn lộ diện bộ mặt thật của một bè lũ phản dân hại nước, một tầng lớp bóc lột mới trên sức sống của dân tộc Việt Nam.
Bọn hút máu nhân dân mới này thật sự chưa bao giờ đem lại cho dân tộc sự an vui, thanh bình và tự do cả.
Để giới hạn phạm vi của đề tài, nơi đây tôi xin đặt ra ngoài mọi dị biệt về quan điểm để chỉ nói đến ý nghĩa về ngày 26 tháng Mười – Ngày Quốc Khánh chưa quên của Việt Nam Cộng Hòa.
Kể từ ngày song thất (7/7/1954) ông Ngô Đình Diệm chính thức chấp nhận vai trò Thủ Tướng của quốc gia VN.
Đó cũng chính là thời gian đen tối nhất của chiến cuộc Đông Dương.
Một cuộc chiến không chính danh giữa người Pháp và cộng sản Việt Nam, một công cụ của cộng sản quốc tế đương thời.
Trong khi đó áp lực của tư bản đương thời giành giật thị trường và quyền lực cai trị thế giới đã áp đặt cho dân tộc VN một hiệp định oái oăm được ký kết tại GENEVE ngày 20/7/1954 để chia đôi đất nước VN. Chính hiệp định này đã mang đến cho phần đất Bắc một giải khăn tang từ vĩ tuyến 17 trở ra.
Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Ảnh tư liệu
Trong khi đó phân nửa đất nước còn lại về phía Nam vĩ tuyến 17 bên này cây cầu Hiền Lương là phần đất của TỰ DO mà Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sau khi chấp chánh đã di cư được hơn một triệu đồng bào di cư vào miền Nam tìm tự do với muôn vàn khó khăn.
Đồng bào miền Bắc di cư vào miền Nam đã tin tưởng vào uy tín lãnh đạo của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã chấp nhận lìa bỏ quê cha đất tổ để được sống trong tự do và thanh bình.
Chính phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm với tiếp tay của một số người yêu nước thật sự lúc bấy giờ đã đến với nhau từ các đảng phái, tôn giáo không phân biệt cá tính và đường lối.
Tất cả đã dồn nỗ lực để củng cố một nền chính trị ổn định đem lại sự an bình cho phần đất còn lại.
Đứng trước tình hình cực kỳ khó khăn về chính trị, kinh tế và xã hội lúc bấy giờ dựa trên hậu thuẫn sức mạnh đoàn kết của các đoàn thể.
Chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23 tháng 10 năm 1955 nhằm chọn ra một thể chế và người lãnh đạo chính thức cho miền Nam Việt Nam.
Hơn 90% dân chúng đã chấp nhận đề cử ông làm quốc trưởng và sau khi Quốc hội lập hiến đầu tiên được tổ chức bầu cử vào ngày 4/3/1956.
Vì căn cứ vào Hiệp định Geneve 20/7/1954 thì đúng ngày 26/4/1956 người lính lê dương Pháp cuối cùng phải rời bỏ Việt Nam, cho nên giới sinh hoạt chính trị ở miền Nam Việt Nam cùng với Quốc trưởng Ngô Đình Diệm đã cùng với Quốc hội Lập Hiến bấy giờ đã thảo luận và hoàn thành một văn bản pháp chế.
Đó là sự hình thành Hiến pháp đầu tiên vào ngày 26/10/1956, và từ đó miền Nam Việt Nam có quốc hiệu chính thức là VIỆT NAM CỘNG HÒA.
Bốn chữ VIỆT NAM CỘNG HÒA và ngày quốc khánh 26/10 khởi sự để đánh dấu sự chấm dứt giai đoạn bị trị, mất tự chủ điều khiển quốc gia quá lâu sau gần 100 năm bị lệ thuộc trong tay thực dân Pháp.
Sau đó Quốc trưởng Ngô Đình Diệm đã được Quốc hội lập pháp và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận với danh xưng mới là :
- Tổng Thống Ngô Đình Diệm của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Lấy ngày 26/10 làm ngày Quốc khánh của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Sau cái chết mờ ám do bọn bất tài tay sai ngoại bang và cộng sản gây ra cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người sáng lập, lãnh đạo nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, và ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị cho Tổng Thống.
Mọi chủ quyền đất nước lại từ từ mất đi và chúng ta đã bị bán đứng nốt đất nước Việt Nam Cộng Hòa vào tay cộng sản như đã thấy.
Sau 50 năm, bốn chữ Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn là một văn bản hợp pháp và chính danh cho những người Việt Nam muốn dùng để đòi hỏi tự do, dân chủ ở trong nước cũng như nơi hải ngoại.
Nhưng mấy ai nhớ đến ngày Quốc khánh 26 tháng 10 và Tổng Thống Ngô Đình Diệm – Người lãnh đạo, tạo dựng ra VIỆT NAM CỘNG HÒA.
NHỚ NGÀY QUỐC KHÁNH XƯA CỦA NỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
NHỚ NGÀY QUỐC KHÁNH XƯA CỦA NỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
Ngày Quốc Khánh 26.10.1956 là ngày lễ quan trọng của nền đệ nhất VNCH đánh dấu một sự kiện lịch sử, đó là ngày công bố hiến pháp của nền đệ nhất cộng hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo trong vùng lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 tới mũi Cà Mau với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
DIỂN TIẾN THÀNH LẬP NƯỚC VNCH
Quốc gia Việt Nam thành lập năm 1947 , cũng từng dùng lá cờ hoàng kỳ làm quốc kỳ, thế nhưng trong một thời gian dài không có Hiến pháp lẫn Quốc hội.
Chính vì thế Quốc trưởng Ngô Đình Diệm xúc tiến việc tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến.
Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa (1955-1963) được thành lập sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền Nam Việt Nam.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm được toàn dân miền nam tín nhiệm thay thế Bảo Đại làm Quốc trưởng.
Sau đó Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến cho Quốc gia Việt Nam.
Quốc hội này ban hành Hiến pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành nước Việt Nam Cộng Hòa.
Người đứng đầu Việt Nam Cộng Hòa là tổng thống Ngô Đình Diệm với lập trường chống cộng sản.
[b][size=4][color=indigo][i]
Ngày 8.10.1955 Bộ nội vụ sẽ tổ chức Trưng cầu dân ý vào ngày *23.10.1955
- Ngày 18.10.1955 Quốc Trường Bảo Đại chấm dứt nhiệm vụ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
* 23.10.1955 đã tổ chức ngày trưng cầu dân ý theo Bộ Nội Vụ thông báo với:
- Số người tham gia bầu cử là : 5.838.907. Số phiếu truất phế Bảo Đại là : 5.721.735.
* Ngày 26.10.1955 tuyên bố Hiến ước tạm thời tại Dinh Độc Lập trước hàng ngày dân chúng.
VN là một nước Cộng Hòa, Quốc Trưởng sẽ được thay thế bằng Tổng Thống.
Một Ủy ban soan thảo Hiến Pháp được thành lập, song song một Quốc Dân đại hội dân cử sẽ có thẫm quyền xét định về Hiến Pháp.
Các luật lệ hiện hành được giữ nguyên. Chính phủ cũ được lưu lại để xử lý thương vụ.
* Ngày 29.10 thành lập chính phủ VNCH cũng là những người đã được lưu nhiệm, chỉ đổi danh từ Tổng Trưởng thành Bộ Trưởng.
- Ngô Đình Diệm, Thủ Tướng kiêm Nội Vụ và Quốc Phòng,
- Trần Văn Chương, Quốc Vụ Khanh,
- Trần Văn Đỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao,
- Trần Văn Của, Tổng Trưởng Tài Chánh và Kinh Tế,
- Nguyễn Tăng Nguyên, Tổng Trưởng Lao Động và Thanh Niên,
- Trần văn Bạch, Tổng Trưởng Công Chính,
- Phạm Hữu Chương, Tổng Trưởng Y Tế và Xã Hội,
- Phan Khắc Sửu, Tổng Trưởng Canh Nông,
- Nguyễn Dương Đôn, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục,
- Trần Chánh Thành, Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng,
- Lê Quang Luật, Thông Tin,
- Phạm Duy Khiêm, Công vụ Phủ Thủ Tướng,
- Nguyễn Ngọc Thơ, Nội Vụ,
- Lê Ngọc Chấn, Quốc Phòng,
- Hồ Thông Minh, Thứ Trưởng Quốc Phòng,
- Bùi Văn Thinh, Tư Pháp,
- Nguyễn Văn Thoại, Kinh Tế,
- Trần Hữu Phương, Tài Chánh.
VNCH tuyên bố không gia hạn thêm hiệp định thương mại với Pháp sắp hết hạn vào ngày 31.12.1955.
Hối xuất chính thức của đồng bạc VNCH vào ngày 17.12.1955 theo dụ số 15 là :
- 10 quan Pháp = 1 đồng VNCH
- 1 bảng Anh = 98 đồng VNCH
- 1 Mỹ kim = 35 đồng VNCN
* Ngày 28-4-1956, Bộ Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương giải tán, tất cả các Cơ sở và Căn cứ trước đây do Pháp xây dựng chiếm đóng, đều trao hết cho Chính phủ và Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Dinh Norodom tọa lạc tại trung tâm Thủ đô Sài Gòn trước kia dành cho Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, nay là trụ sở của Chính phủ VNCH đổi tên thành Dinh Độc Lập.
Camp Chanson to lớn bên cạnh phi trường Tân Sơn Nhất trước kia là nơi làm việc của Bộ Tư lệnh quân viễn chinh pháp tại Đông Dương, nay thuộc quyền sử dụng của Bộ Tổng Tham Mưu (Bộ TTM) Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) và đổi tên là Trại Trần Hưng Đạo.
Hospital Rocques rộng lớn của đoàn quân Viễn chinh Pháp xây dựng tại Gò Vấp sát bên Bộ TTM và phi trường Tân Sơn Nhất, nay thuộc quyền QĐQGVN và đổi tên là Tổng Y Viện Cộng Hòa.
* Ngày 19.10.1956 Quốc Hội VNCH tuyên bố không chọn được một lá quốc kỳ nào khác ngoài lá hoàng kỳ với sọc đỏ trong số 350 mẩu cờ dự thi và cũng không chọn được bài ca nào trong 50 bài nhạc dự thi để làm quốc ca cho VNCH.
NHỚ NGÀY QUỐC KHÁNH XƯA CỦA NỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
NHỚ NGÀY QUỐC KHÁNH XƯA CỦA NỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
[
* Ngày 26-10-1956 , lễ ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, do Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra vào ngày 4 tháng 3 năm 1956 biên soạn và biểu quyết chuẩn thuận) được tổ chức rất trang trọng tại Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.
Buổi lễ này cũng đồng thời là Lễ Tuyên Thệ chính thức nhậm chức Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên tại miền Nam Việt Nam của ông Ngô Đình Diệm, trước toàn dân và Ngoại giao đoàn quốc tế đã có mặt tại Sài Gòn từ thời Quốc gia Việt Nam còn thuộc quyền lãnh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại.
Dân chúng được phép đốt pháo trong ngày 26, 27 và 28.10.1956 và các chợ trên toàn quốc được miển thuế trong ngày 26.10.1956.
Một câu nói để đời của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm :
- “ Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản.
Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.” Ngô Đình Diệm (Đồng Cam, Tuy-Hòa 17-9-1955)
Tổng Thống Ngô Đình Diệm dưới cái nhìn phân tích của các lãnh tụ Hoa Kỳ, Đông Nam Á, và các quan sát viên quốc tế:
1. Ngày 16 tháng 11-1964, Đại Sứ Hoa Kỳ, Frederick E. Nolting đã viết một bức thơ cho tờ New York Times như sau:
- “Tôi không thể chần chừ cho tháng ngày qua đi mà không nói lên sự kính trọng của tôi khi tưởng nhớ đến một con người can đảm phi thường đã gục chết vì quê hương của ông một năm trước đây, người đó chính là Ngô Đình Diệm, cựu TT VNCH.
Phó Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm và Đại sứ Frederick Nolting tại Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa năm 1961
2. Chủ Tịch Quốc Hội Hoa Kỳ là John MacComick và Dân Biểu Edna Kelly đã nói với TT Kennedy rằng :
- “Gần như không có ai ưu tư tới một điểm là, Ông Diệm và chính quyền MN đang phải đối đầu với rất nhiều trở ngại khó khăn, xứ sở quê hương của ông đang đổ vỡ tan hoang mọi bề, với sự tràn ngập của:
- Cộng Sản
- Băng đảng, và các giáo phái võ trang xung đột khắp nơi
- TT Diệm sống còn tồn tại được trong 9 năm, và đưa đến nhiều tiến bộ tốt đẹp trong việc :
- Tái lập lại trật tự quốc gia
- Bảo vệ quyền tự do cho dân
- Thi hành công lý xã hội để làm đời sống toàn dân tốt đẹp hơn.
Thế mà tại sao không thấy ai để tâm tới điểm là :
- Không có ông Diệm không làm sao ổn định được Việt Nam và cả Đông Dương đang trong những cơn lốc và hỗn loạn tơi bời, rồi sau đó chỗ đứng của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu sẽ gãy đổ suy vong ”.
President John F. Kennedy with Speaker of the House of Representatives, John W. McCormack
3. Theo nhận xét của Philippe Deviller, một sử gia lỗi lạc đương thời , nhìn TT Diệm như sau :
- “ Bước vào một hoàn cảnh cực kỳ đen tối, đó là một người Sĩ Phu , can đảm phi thường, và là con người của nguyên tắc vào tuổi 53.
Ông là một người Quốc Gia được kính trọng nhất (the most respected man) và là người có ảnh hưởng lớn lao nhất và là một người sống trọn vẹn cho đức tin Công giáo… sự can đảm hiếm thấy nơi các lãnh tụ chính trị, rất coi trọng đạo đức gia đình, tính chịu đựng bền bỉ, đó là người không bao giờ thiếu sự chính trực liêm chính.
Ông không bao giờ không cư xử công bình với mọi người , kể cả cho kẻ thù của ông một cơ hội.
Ông đã không bao giờ ra lệnh xử tử những người đã cố gắng giết ông ”.
Deviller nói thêm :
-“ Tất cả đối thủ lúc ban đầu của ông đều đánh giá ông rất thấp”.
4. Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đến MNVN để điều tra và duyệt xét lại tình hình VN trong giai đoạn tăm tối nhất, ông nhận thấy TT Diệm đúng là đã tạo được một phép lạ chính trị tại MNVN.
Gần 1 triệu dân di cư Miền Bắc lánh nạn CS đã được giải quyết vô cùng tốt đẹp, đường xá phát triển khắp nơi.
5. Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống Eisenhower viết cho TT Diệm :
“ Kính thưa Tổng Thống ,
Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa , nhân dân Miền Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực.
Tôi đặc biệt ấn tượng bởi một thí dụ.
Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn 1.200.000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó.
Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của Việt Nam.
Đồng thời khả năng của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước Cộng Hòa độc lập .”
Suốt 9 năm dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm , một quốc gia tự do dân chủ chuẩn mực được thành lập sau khi chế độ Quân Chủ Lập Hiến của Bảo Đại cáo chung.
Dân chúng miền nam được sống trong cản an ninh và thanh bình tuyệt đối.
Trong cùng thời gian đó thì tại miền Bắc, người dân bị đói khổ, đày đọa trong trong gọng kềm của búa liềm cộng sản.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thật sự đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho miền nam VN.
Đây cũng chính là mô hình phát triển sau này của Nam Hàn dưới thời Tổng thống Phác Chính Hy.
Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa Miền Nam tới chỗ vươn lên - kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-off) để trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
LÁ CỜ VÀNG 3 SỌC ĐỎ , LÀ BIỂU TƯỢNG CAO QUÝ NHẤT CỦA QUỐC DÂN VIỆT NAM
LÁ CỜ VÀNG 3 SỌC ĐỎ , LÀ BIỂU TƯỢNG CAO QUÝ NHẤT CỦA QUỐC DÂN VIỆT NAM
Hơn 85 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên lãnh thổ VN và những nơi chốn có người Việt TNCS sinh sống sau ngày mất nước 30-4-1975..
Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vỹ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới.
Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến :
- Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt)
- Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày.
Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì “ Lá Cờ “ được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định Geneve (1954-1956) còn có sự hiện diện của các toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn [b] tôn trọng [/]cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m.
Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vang ba Sọc Đỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến.
Thế là trận giặc “ Chọi Cờ “ bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải , mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV.
Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cở “ cờ “ tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967 , cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ.
Cho nên không ai có quyền bắt buộc người khác phải theo ý mình , đứng chung dưới một lá cờ mà trong thâm tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa bán nước như lá cờ máu của Cộng Đảng VN.
Ngoài lá Quốc kỳ “ Màu Vàng Ba Sọc Đỏ “ , quốc dân VN còn phải biết lịch sử của hai tiếng VN mà chúng ta đang trân trọng gìn giữ và bảo tồn.
Theo sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 (STL) là năm mà Đức Gia Long Hoàng Đế nhà Nguyễn, đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Vua Gia Long
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV , hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như :
- Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc
- Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú
- Du Địa Chí của Nguyễn Trải
- Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm..
Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt.
Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam.
Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt-Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị “ An Nam hay Giao Chỉ “.
Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết :
Vào thời Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam.
Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngũi, nên việc sử dung quốc hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử.
Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch) , có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm :
- Vân Nam
- Lưỡng Quảng
- Hải Nam
- Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần.
Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận.
Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt.
Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.