4 người con do ảnh hưởng chất độc da cam từ người cha trở về từ cuộc chiến chống Mỹ mà không được bình thường, nỗi đau đè nặng người mẹ già ốm nặng.
Nỗi đau chất độc da cam trong một gia đình
Ông Đặng Văn Hiền (sinh năm 1938 và mất năm 2013) từng là một cựu chiến binh đã đi qua những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tháng 3/1965, ông Hiền lên đường nhập ngũ.
Chỉ chưa đầy một năm sau, ông đã trực tiếp tham gia chiến đấu tại những chiến trường nổi tiếng ác liệt như Quảng Trị, Mặt trận B3 – Tây Nguyên và Đà Nẵng. Đó cũng chính là những nơi bị quân đội Mỹ rải nhiều chất độc hóa học. Hậu quả không chỉ dừng lại ở những cánh rừng trụi lá, những dòng suối nhiễm độc mà cả những người lính trở về với thân thể mang theo mầm bệnh không nhìn thấy được.

Chân dung của ông Đặng Văn Hiền. Ảnh: Phạm Thứ - Tùng Long
Cuối năm 1970, ông xuất ngũ trở về địa phương và làm kinh tế. Sau ngày đất nước thống nhất, thay vì nghỉ ngơi, ông vẫn tiếp tục tham gia vào các công việc của địa phương. Ông từng đảm nhiệm vai trò xã đội trưởng dân quân, rồi trưởng thôn và cả Ủy viên Ban chấp hành Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin huyện Thạch Thất (cũ), nơi ông góp tiếng nói cho những người cùng chung số phận từng đi qua chiến tranh và đang lặng lẽ gánh chịu hậu quả của nó trong thời bình.
Sự hy sinh của ông Hiền cũng chưa bao giờ dừng lại ở chiến trường. Trở về từ những vùng đất bị rải chất độc hóa học nặng nề, ông Hiền cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thân xây dựng gia đình, lần lượt sinh ra 9 người con. Nhưng cuộc sống chẳng lấy gì làm bằng phẳng.
Hai người con đầu lòng chết yểu khi còn rất nhỏ. Trong số 7 người con còn lại, có tới 4 người mang di chứng chất độc da cam, với mức độ tổn thương nặng từ 61-80 phần trăm.
Anh Đặng Văn Huynh sinh năm 1969, thiểu năng nặng, thân hình thấp bé, chỉ cao chừng 1m3. Anh Đặng Văn Quỳnh sinh năm 1973, đầu to bất thường, mắt lồi, cao khoảng 1m2.
Chị Đặng Thị Hoa, sinh năm 1976 và cô út Đặng Thị Bích, sinh năm 1983, đều mang khuyết tật trí tuệ, sống thu mình, hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình.
Giữa những mất mát ấy, 3 người con còn lại là những người may mắn không bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học.

Bà Nguyễn Thị Thân bên 4 người con bị ảnh hưởng chất độc da cam. Ảnh: Phạm Thứ - Tùng Long
Chị Đặng Thị Huệ sinh năm 1965, chị Đặng Thị Cúc sinh năm 1971 và chị Đặng Thị Thảo sinh năm 1980 - trở thành chỗ dựa duy nhất cho gia đình, là những người âm thầm gồng gánh mọi nhọc nhằn, thay cha mẹ chăm lo cho các anh chị em bệnh tật, nhất là sau khi bà Thân bị tai biến vào năm 2018.
Theo lời kể của chị Đặng Thị Cúc - người con gái thứ 5 của ông bà, khoảng 10 năm cuối đời, sức khỏe ông Hiền yếu dần. Ông thường xuyên bị đau đầu, tê nhức chân tay. Khi gia đình lo liệu được chút tiền đưa ông đến bệnh viện khám thì các bác sĩ chẩn đoán bị teo não.
Nhưng ngay cả khi không còn minh mẫn như trước, ông vẫn không chịu ngồi yên: lam lũ với đồng áng, tự đi đánh thuốc chuột ngoài ruộng, bám lấy ruộng đồng như một nếp sống cũ không thể dứt ra. Đến những ngày cuối đời, ông không còn nói được nữa, lưỡi tụt vào trong, chịu đựng những nỗi đau về thể xác cho tới cuối đời.
Sự ra đi của ông không ồn ào. Nhưng di chứng chiến tranh thì vẫn hiện diện rõ ràng, hiển hiện trong chính những đứa con mà ông để lại mặc dù cuộc chiến đã lùi xa gần nửa thế kỷ. Ông mất, để lại bà Thân và những đứa con khuyết tật trong ngôi nhà cũ, như thể ông đã cố gắng gồng gánh cho đến khi không thể gánh nổi nữa.
Những số phận hẩm hiu phía sau đất Yên Bình
Chúng tôi đến thôn Vao, xã Yên Bình cũ, nay là xã Yên Xuân (TP.Hà Nội) trong một buổi chiều mùa hè.
Trong căn nhà nhỏ, bà Nguyễn Thị Thân, người mẹ già 85 tuổi lưng đã còng, làn da đã nhăn nheo, ánh mắt mờ đục. Sau cơn tai biến nặng năm 2018, bà đã không thể tự đứng dậy đi lại, thần trí lúc tỉnh táo, lúc lại chẳng nhớ gì.
Thấy chúng tôi đến thăm, bà gắng gượng dậy, đôi bàn tay run run vịn vào cạnh giường để nói chuyện.
“Khổ lắm các anh ạ… Tôi giờ nằm một chỗ, bốn đứa kia chẳng biết gì cả, thương con mà lực bất tòng tâm”, bà Thân cố lựa từ nói về những đứa con bị ảnh hưởng chất độc da cam của mình rồi bật khóc. Chỉ vài lời ngắn ngủi như trút hết ra bao tủi hờn, cay đắng của một người mẹ. Khóe mắt bà đã đỏ hoe ngay từ sau câu nói đầu tiên ấy.
Bởi phía sau câu nói ấy là nỗi đau không thể gọi tên, khi cả 4 người con do bà rứt ruột đẻ ra bao nhiêu năm qua vẫn sống kiếp đời của những “đứa trẻ mãi không thể lớn”, bệnh tật đầy mình, trí não không bình thường, phải giám sát từng bữa ăn giấc ngủ.
Bà Thân không nhớ được hết năm sinh nhưng nhớ rất rõ đặc điểm của từng đứa con. Trong ký ức nửa đậm nửa nhạt của người mẹ khốn khổ ấy, 4 ứa con vẫn còn “đỏ hỏn”, vẫn là da thịt máu mủ của bà dù cơ thể chúng có méo mó, trí não không phát triển, mãi mãi lệch khỏi thế giới bình thường.
Trong lúc chúng tôi ngồi trò chuyện với bà Thân, 4 người con của bà lặng lẽ tản đi mỗi người một hướng, như thể sự xuất hiện của người lạ khiến họ thu mình lại theo phản xạ. Không ai trong số họ lại gần, cũng không ai cất lời. Họ không dám tiếp xúc hay đúng hơn là không quen với việc được hỏi han, được quan tâm trò chuyện.
Người “anh cả” trong 4 người con bị nhiễm chất độc da cam là anh Đặng Văn Huynh cầm cây chổi dài đi quét nhà. Quét xong, anh lững thững mang rác ra ngoài đổ, rồi lại quay vào, nét mặt điềm nhiên không như hề thấy chúng tôi ngồi đó.
Và không cần phải để ý kỹ cũng thấy nền gạch vẫn còn lấm tấm những vết bẩn loang lổ sau khi anh Huynh đã quét xong. Mắt có thể đã kém, đôi tay vụng về có thể cũng chẳng thực sự phân biệt được sạch - bẩn theo cách người bình thường vẫn làm. Ngoài sân, anh Đặng Văn Quỳnh đang ngồi chặt những cành tre khô mà mấy anh em vừa lên đồi nhặt về từ sáng sớm.
Từ lúc chúng tôi vào nhà đến khi ra về, tiếng dao bổ những cành củi tre vẫn đều đều vang lên. Dưới cái nắng oi bức của những ngày giữa hạ, mồ hôi anh thấm ướt đôi vai áo đỏ bạc màu.
Bà Thân bảo: “Nó là đứa chịu khó nhất nhà đấy, cái gì làm được là làm suốt ngày”. Anh Quỳnh vừa chẻ tre vừa cười một mình, gương mặt hằn sâu sự khắc khổ. Hai người còn lại, chị Hoa và chị Bích thì trốn vào buồng. Căn buồng không có cửa. Khi chúng tôi bước vào, khung cảnh bên trong khiến ai nấy đều nghẹn lại.
Trần nhà đã xô vẹo, mảng tường gạch để trần loang lổ vết xi măng vá víu. Ánh đèn tròn thả lủng lẳng từ mái kèo sáng yếu ớt. Dưới ánh sáng ấy, căn buồng hiện lên đầy chật chội, tối tăm và bừa bộn.
Chiếc giường tre đặt sát tường, chăn màn không được gấp gọn. Bên cạnh là hàng loạt túi nilon đủ màu, bên trong nhồi nhét lộn xộn quần áo cũ, mảnh vải vụn, hoa quả, khăn giấy và cả... giấy vệ sinh. Giữa những túi đồ ấy là những mảnh giấy trắng bị xé vụn, vương vãi khắp mặt giường và góc tường. Không ai trong số 4 người con lên tiếng khi chúng tôi hỏi về những túi đồ ấy.
4 con người không thể thành người lớn
Thấy chúng tôi bảo sẽ chụp một bức ảnh cho gia đình, anh Huynh lập tức đi tắm rửa và thay quần áo. Nhà tắm chỉ là một vách tường dựng tạm, không có cửa che chắn. Anh múc từng gáo nước, dội thật nhanh rồi thay sang một bộ đồ khác sạch sẽ hơn. Bộ quần áo cũ được anh giặt luôn sau đó, nhưng cũng chỉ là nhúng qua nước rồi vắt cho ráo.
Thương tâm hơn cả là câu chuyện về bữa ăn, sinh hoạt hằng ngày của 4 người con trong nhà. Ngay bên cạnh gian nhà cấp bốn đã cũ, một chái bếp nhỏ được dựng lên sơ sài. Lương thực không đến mức thiếu thốn, nhưng chẳng mấy khi họ có được một bữa cơm “nên hồn”.
Từ ngày bà Thân bị tai biến, 4 người phải tự lo nấu nướng, tự ăn với nhau. Có những bữa, từ cơm đến thức ăn đều bị cháy xém, thậm chí đen nhẻm như tro. Bà Thân nhớ lại, những ngày mình còn khỏe, mỗi khi ra đồng bà lại dẫn theo 4 người con đi cùng. Gọi là đi theo mẹ để phụ việc nhưng thực ra là để bà dễ bề trông nom các con. Anh Huynh là người siêng năng nhất trong số họ, nhưng cứ hễ làm việc gì là lại không nhớ thời gian để về nhà.
Có hôm đi làm thuê cho hàng xóm, quá trưa vẫn không thấy về, bà Thân phải đi gọi con về nhà. Đó cũng là tình trạng chung của cả 4 anh chị em: không ai có đủ nhận thức để phân biệt giờ giấc, ngày tháng. Nếu không có mẹ nhắc nhở, có lẽ họ sẽ chẳng biết khi nào ăn cơm, khi nào tắm rửa hay nghỉ ngơi.
Chị Đặng Thị Cúc, 1 trong 3 người con lành lặn của bà Thân chia sẻ trong nghẹn ngào: “Tôi cứ hay nghĩ, dưới gầm trời này, nào còn ai khổ bằng mẹ tôi nữa. Thời trẻ ở nhà chăm chỉ làm ruộng nuôi con để chờ chồng chiến đấu trở về. Đến khi đất nước hòa bình, lại nai lưng làm bao nhiêu mẫu ruộng để nuôi 7 đứa con khôn lớn. Về già vẫn phải tằn tiện, lam lũ, dành dụm lo cho 4 đứa con chưa một ngày bình thường. Giờ mẹ tôi bị tai biến nằm một chỗ nhưng ngày nào cũng lo nghĩ cho các anh chị em, nhắc nhở các con từng bữa cơm, từng viên thuốc”.
Chị Cúc nói thêm rằng: “Tôi cứ tự hỏi mình, sau này mẹ không còn nữa, những người anh chị em của tôi sẽ sống ra sao. Dù là anh em ruột thịt, mấy chị em chúng tôi ai cũng có cuộc sống riêng, không thể nào lo lắng được như mẹ của mình… Mẹ rồi mà về với ông bà tổ tiên thì các anh chị em sẽ khổ không thể nào hình dung ra nổi”.
Câu hỏi "Sau này họ sẽ sống ra sao?" có lẽ cũng là điều mà bất kỳ ai từng đến thăm gia đình bà Thân đều canh cánh trong lòng khi ra về. Những con người ấy, những phận đời xót xa ấy… là bằng chứng sống chân thực và đớn đau cho hậu quả đau thương mà chiến tranh để lại. Không phải bởi bom đạn, mà bởi những di chứng âm thầm từ chất độc da cam, một thế hệ bị bỏ lại phía sau ngay giữa thời bình.
Trong bức ảnh cả gia đình ngồi bên nhau, gương mặt ai cũng như mang sẵn nét khổ hằn lên số phận. Những con người ấy, có những người gắng gượng cười nhẹ, để níu lại một chút tươi tắn và sức sống cho bức ảnh. Một nụ cười vừa đủ nhưng vẫn khiến người chụp ảnh ngậm ngùi, xúc động.
Trao đổi với Dân Việt, chị Nhất Chi Mai, cán bộ phụ trách chính sách xã Yên Xuân, TP.Hà Nội xác nhận, cả 4 người con của bà Nguyễn Thị Thân đều là nạn nhân chất độc da cam, được xếp loại khuyết tật mức độ nặng từ 61–80% và đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo quy định.
Riêng bà Thân, trước đây hưởng chế độ người khuyết tật mức nặng từ năm 2018, đến tháng 2/2022, do bệnh tình chuyển biến xấu, bà được nâng mức trợ cấp lên diện khuyết tật đặc biệt nặng.
Ông Vũ Xuân Chuyền, nguyên Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin huyện Thạch Thất cũ chia sẻ: “Tôi cũng là cựu chiến binh, cũng từng biết và rất trân trọng những đóng góp của anh Hiền khi còn sống. Nhìn hoàn cảnh hiện tại của gia đình chị Thân, thật sự xót xa.
Tuổi cao, bệnh nặng, 4 người con lại đều không được bình thường. Chính quyền, Hội và bà con nhân dân trong vùng vẫn quan tâm, hỗ trợ thường xuyên, nhưng cũng chỉ được phần nào. Rất mong có thêm những tấm lòng hảo tâm cùng chung tay giúp đỡ để gia đình ấy bớt đi chút gánh nặng”.
Nhưng nỗi đau ấy không thể chỉ được xoa dịu bằng lòng hảo tâm mà cần một sự sẻ chia thực chất, cần công lý được thực thi. Trong nhiều năm qua, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã nỗ lực lên tiếng, đấu tranh pháp lý nhằm buộc các công ty hóa chất chịu trách nhiệm.
Nổi bật trong hành trình ấy là bà Trần Tố Nga, người phụ nữ dũng cảm đã khởi kiện các tập đoàn sản xuất chất độc da cam ra tòa án Pháp. Câu chuyện về gia đình bà Nguyễn Thị Thân chỉ là một lát cắt nhỏ trong bức tranh rộng lớn về nỗi đau da cam mà hàng triệu người Việt Nam đang âm thầm gánh chịu suốt nhiều thập kỷ qua.
Từ thể xác méo mó đến tinh thần tê liệt, từ sự đơn độc trong sinh hoạt đến tương lai mịt mù không người chăm sóc - đó là thực trạng không của riêng ai, mà là tiếng kêu âm ỉ của cả một thế hệ bị bỏ lại sau chiến tranh.
VietBF@ sưu tập