"Quán Kỳ Nam" là dự án hiếm hoi tại Đông Nam Á được quay hoàn toàn bằng phim nhựa 35mm – một lựa chọn tưởng chừng đã biến mất. Trong cuộc trò chuyện với PV Dân Việt đạo diễn Leon Quang Lê hé lộ lý do dám “đi ngược thời đại” và hành trình tự xây lại cả quy trình làm phim từ con số 0.
Họa sĩ từng thiết kế "Người tình", "Mùa hè chiều thẳng đứng" tham gia "Quán Kỳ Nam"
Vì sao anh quyết định quay Quán Kỳ Nam bằng phim nhựa – một lựa chọn gần như biến mất ở khu vực Đông Nam Á?
- Lý do lớn nhất là tôi yêu hình ảnh phim nhựa. Điều thú vị là ngay cả những người không hiểu gì về kỹ thuật phim vẫn cảm được độ sâu, sự mềm mại và chiều sâu cảm xúc mà phim nhựa mang lại. Nhìn vào việc mọi người thích các ứng dụng giả lập hình ảnh phim trên điện thoại cũng đủ thấy: ai cũng bị hấp dẫn bởi chất thị giác ấy. Hình ảnh quá nét của digital nhiều khi lại khiến mọi thứ trông “không thật”.
Với Song Lang, tôi từng muốn quay bằng phim nhưng lúc đó nhà sản xuất e ngại về chi phí và các công tác hậu cần. Lần này với Quán Kỳ Nam, tôi tự đứng ra sản xuất để có thể tự quyết. Với tôi, phim nhựa giống như một cơ thể có linh hồn. Nếu không cẩn thận, nó sẽ “phản kháng” bằng những lỗi ánh sáng, màu sắc, bụi xước. Nhưng khi mình tôn trọng và nâng niu, nó trả lại cho bộ phim một phần hồn mà kĩ thuật digital không bao giờ có.

"Quán Kỳ Nam" là dự án hiếm hoi tại Đông Nam Á được quay hoàn toàn bằng phim nhựa 35mm. Ảnh: NSX
Yếu tố tài chính có phải là rào cản lớn nhất khi làm phim nhựa?
- Chi phí đúng là cao hơn, nhưng không quá lớn đến mức khiến các nhà làm phim sợ. Điều khó nhất không phải tiền mà là sự tiện lợi của digital. Hiện giờ digital quá phổ biến. Ở Đông Nam Á gần như không còn phòng tráng phim, không còn nơi bảo trì máy quay phim nhựa, cũng rất thiếu nhân sự biết vận hành. Việt Nam vẫn còn máy quay 35mm, nhưng nhiều chiếc đã nằm kho nhiều năm. Mang đi tân trang gần như không có chỗ. Đó mới là những trở ngại thật sự.
Vậy anh đã tìm đội ngũ như thế nào để đảm nhận công việc quay phim nhựa?
- Người dẫn dắt là Bob Nguyễn – đạo diễn hình ảnh của phim. Bob có kinh nghiệm quay phim nhựa nhiều hơn quay digital. Nhưng để cả ê-kíp theo kịp, Bob phải dành nguyên một tháng để huấn luyện đội ngũ trẻ chưa từng chạm vào cuộn phim, chưa biết tráng phim, thay magazine, lắp và tháo phim, bảo quản trên phim trường… Tất cả đều phải đào tạo lại từ đầu.
Còn phần hậu kỳ phim nhựa – anh có phải tự xử lý nhiều công đoạn?
- Gần như từ con số 0. Tôi tự đi tìm hiểu, thí nghiệm và tìm cách làm. Cuối cùng, tôi kết hợp với một phòng lab tráng phim chụp ảnh ở Sài Gòn. Họ chỉ quen với phim tĩnh 35mm, nên tôi phải cùng họ cải tạo thùng tráng lớn hơn, phù hợp cho phim điện ảnh. Máy scan phim cũng do đội của Bob tự mày mò chế tạo, vì mua máy tiêu chuẩn hiện tại có giá tới 35.000 USD. Chúng tôi tự làm một chiếc với chi phí khoảng 50 triệu đồng.
Những vết xước hay gợn phim xuất hiện trong bản chiếu là… thật 100%. Đó là những lỗi không mong muốn, nhưng vô tình lại tăng thêm “tuổi đời” và cảm giác thời gian cho bộ phim.
Âm nhạc trong phim do ai thực hiện và anh đã đặt ra yêu cầu gì?
- Nhạc sĩ là Tôn Thất An – người từng soạn nhạc cho Song Lang. Anh là con trai của nhạc sĩ Tôn Thất Tiết, người đứng sau âm nhạc Mùi đu đủ xanh, Xích lô, Mùa len trâu… Tôi gửi kịch bản cho anh An và chỉ yêu cầu ba điều: phải có âm hưởng cello – vì đó là nhạc cụ tôi yêu; không dùng dàn nhạc giao hưởng vì quá đồ sộ so với tinh thần phim; và tuyệt đối không dùng keyboard giả lập. Tôi muốn nhạc sống, có lỗi, có hơi thở – giống như vết xước, vết bụi của phim nhựa tạo nên linh hồn thị giác.
Đỗ Hải Yến không phải lựa chọn đầu tiên của anh cho vai Kỳ Nam?
- Đúng vậy. Hình dung ban đầu của tôi là một phụ nữ Bắc 54 sống ở Sài Gòn – tức là thế hệ của Ý Lan, Khánh Ly, hoặc trẻ hơn như Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Nhưng họ đều lớn tuổi hơn mức tôi cần cho nhân vật. Nhiều hình ảnh của Kỳ Nam lấy cảm hứng trực tiếp từ mẹ tôi: mái tóc uốn bồng kiểu xưa, áo dài cổ tàu, quần bà ba đen, guốc gỗ. Rồi thói quen cả đời ngồi gỡ bài – một hành động mà hồi nhỏ tôi không hiểu, nhưng lớn lên mới nhận ra nó là cách mẹ giết thời gian và nuôi hy vọng.
Đỗ Hải Yến có thể không mang trọn vẹn “giọng Bắc 54”, nhưng cô ấy có sự tinh tế và bề dày cảm xúc cần thiết. Giọng nói phải luyện lại rất nhiều, vì đó là đặc trưng của phụ nữ Bắc di cư mà không thể chỉnh sửa hoàn hảo trong thời gian ngắn. Đó cũng là lý do ban đầu cô ấy không nằm trong danh sách.
Ý tưởng cho Quán Kỳ Nam bắt đầu từ khi nào?
- Trong thời gian làm Song Lang, tôi sống ở một chung cư có cô bán cơm tháng rất đặc biệt. Cô luôn gây gổ với hàng xóm và viết kín tường những lời than phiền – hết sơn lại viết, ngày này sang ngày khác. Ban đầu tôi khó chịu, nhưng rồi tự hỏi: điều gì biến một con người thành như vậy? Không ai sinh ra đã cáu gắt. Họ phải từng yêu, từng mơ ước, từng kỳ vọng. Và phải trải qua biến cố lớn mới trở nên oán hận.
Từ góc nhìn đó, tôi không còn bực mình mà lại tò mò. Mỗi sáng nghe cô cãi nhau, tôi tự hỏi hôm nay “kim đâm vào nỗi bực dọc” gì của cô. Từ đó, hình thành ý tưởng về câu chuyện một người phụ nữ đứng tuổi nấu cơm tháng và một anh nghệ sĩ trẻ sống ở tầng trên – nếu hai người ấy chạm vào đời nhau, điều gì sẽ xảy ra?
Ngay từ lúc ấy, tôi đã nghĩ vai nam trẻ sẽ dành cho Liên Bỉnh Phát.
Nhân vật Khang trong phim trông lúc nào cũng mệt mỏi – đó có phải chủ đích của anh?
- Mệt ở đây là mệt tinh thần. Ba năm làm phim khiến tôi kiệt sức, và Kỳ Nam cũng như thế: chịu đựng quá nhiều, không còn nơi giãi bày. Khi Khang xuất hiện, cậu ta giống như khoảnh khắc “máy bay sắp hạ cánh” sau chuyến bay dài. Cuối đường hầm có ánh sáng, có một cánh cửa hé mở. Tôi muốn cái mệt của nhân vật là mệt tích tụ – một thứ mệt làm người ta mong được giải thoát.
Vì sao ngay từ đầu anh đã nghĩ đến Liên Bỉnh Phát?
- Liên Bỉnh Phát có một sự mong manh tinh thần nhưng vẫn giữ được nét mạnh mẽ bên trong. Đó là thứ mà tôi cần cho nhân vật – một người trẻ vừa yếu đuối vừa là hy vọng cho người khác.
Cảm ơn đạo diễn Leon Quang Lê đã chia sẻ!
Vietbf @ Sưu tầm