Điều gì xảy ra khi bạn không rửa tay sau khi đi vệ sinh?
Bạn có khi nào “quên” rửa tay sau khi sử dụng nhà vệ sinh không?
Nếu không rửa tay bằng xà phòng và nước sau khi sử dụng nhà vệ sinh có thể gây nguy hiểm cho bạn
Nếu bạn ra khỏi nhà vệ sinh mà không rửa tay hoặc rửa không đúng cách, thì bài viết này là dành cho bạn. Nếu bạn rơi vào trường hợp này, bạn đang mắc một sai lầm lớn. Không rửa tay bằng xà phòng và nước sau khi sử dụng nhà vệ sinh có thể gây nguy hiểm cho bạn, theo Times of India.
1. Thói quen xấu có thể khiến bạn mắc bệnh
Nhà vệ sinh là nơi sinh sản của các mầm bệnh và nếu bạn đang sử dụng nhà vệ sinh công cộng, nó có thể còn tồi tệ hơn nữa, bởi vì bạn không biết ai đã chạm vào cái gì.
Khi bạn không rửa tay, vi trùng sẽ truyền từ tay bạn sang bất cứ thứ gì bạn chạm vào, điều này dẫn đến mầm bệnh bên trong con người bạn. Từ nhiễm trùng đường ruột nhẹ cho đến một loại virus corona mới, bạn có thể mắc tất cả chúng nếu không rửa tay.
Chỉ rửa tay trước khi ăn là không đủ. Bởi vì khi bạn rời khỏi chỗ trống mà không rửa tay và chạm vào đồ vật, chẳng hạn như điện thoại di động hoặc chai nước, bạn sẽ truyền vi trùng sang những thứ đó. Mỗi khi bạn chạm vào các vận dụng này, bạn đang “tiếp cận” lại tất cả các vi trùng.
2. Có thể làm hỏng da của bạn
Điều gì xảy ra khi bạn không rửa tay sau khi đi vệ sinh? - ảnh 1
Đừng bao giờ quên rửa tay sau khi sử dụng nhà vệ sinh, nhất là nhà vệ sinh công cộng
Da của bạn là siêu nhạy cảm. Khi dùng tay đầy vi trùng chạm vào da, bạn có nguy cơ mắc các bệnh về da. Bạn có thể bị phát ban, nổi mụn và kích ứng da, theo Times of India.
3. Bạn có thể khiến người khác bị bệnh
Bạn có thể trở thành người mang mầm bệnh và bất cứ ai tiếp xúc với tay hoặc bề mặt bạn đã chạm vào cũng có thể bị bệnh.
4. Cách rửa tay đúng theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ
- Rửa sạch tất cả các vùng da tiếp xúc của tay bạn
- Xả tay qua nước và thoa xà phòng để rửa sạch vi trùng
- Xoa phía sau lòng bàn tay và giữa các ngón tay
- Chà sạch cả móng tay
- Vi trùng lây lan ngay lập tức trên tay ướt, vì vậy bạn phải lau khô tay đúng cách sau khi rửa tay
- Không vứt khăn giấy sau khi lau tay. Giữ khăn giấy để dùng nó mở cửa, sau đó loại bỏ nó vì nó chạm vào tay nắm cửa. Lưu ý rằng tay nắm cửa có thể khiến bạn tiếp xúc với vi trùng do ai đó không rửa tay để lại, theo Times of India.
Trong Cơ Thể Sẵn Có Một Vị "Thần Y" Hỗ Trợ Chữa 70% Bệnh Tật, Liệu Bạn Đã Biết Để Nhờ Cậy?
Nhiều chuyên gia thừa nhận, cơ thể có khả năng tự chữa lành đến kỳ lạ. Ngay cả khi gặp những bệnh y học cho là khó chữa nhất thì nhiều người vẫn vượt qua, chứng tỏ phải có một vị Thần y ở trong đó điều binh khiển tướng mà chữa trị.
Cơ thể chúng ta là một hệ thống kết nối hoàn hảo, tinh vi, nhịp nhàng mà không có bất kỳ một hệ thống máy móc nào trên thế giới có thể so sánh được. Y học đánh giá cao tiềm năng này của thân thể người trong việc tự phục hồi sức khoẻ.
Trong tất cả những hệ thống đó (bao gồm tuần hoàn, thần kinh, hô hấp, tiêu hóa, miễn dịch, tủy xương, tạo máu, tế bào gốc…) đều có một vị “bác sĩ trưởng” đóng vai trò như một “Thần y”.
Sở dĩ gọi là “Thần y” vì chức năng này ở trong cơ thể giống như một vị bác sĩ chữa được bách bệnh. Khi cơ thể phát sinh vấn đề, ngay lập tức vị Thần y này sẽ được điều đến để chữa trị tức thời, tự nguyện mà không chờ đến khi bạn đến được phòng khám.
Nói một cách khác, cơ thể con người có khả năng tự chữa bệnh một cách hoàn hảo để duy trì sự sống tốt nhất trước khi chúng ta biết bệnh và tìm đến bác sĩ.
Đã có ai nhìn thấy thần y chưa?
Tại Anh, một cậu bé 13 tuổi mắc bệnh ung thư bạch cầu, các bác sĩ đã lên mọi kế hoạch để chuẩn bị phẫu thuật cấy ghép tủy xương. Tuy nhiên, rất ngạc nhiên là ngay sau đó không lâu thì các triệu chứng ung thư máu của bé đã biến mất. Sự thật khó tin này chính là ví dụ chứng minh rằng do Thần y đã nhanh tay hơn cả bác sĩ.
Một vài tuần trước đó, bác sĩ đã thông báo rằng nếu gia đình bé không chấp nhận việc cấy ghép tủy xương, sự sống sẽ khó duy trì quá một tháng. Một vài tháng sau đó, cơ thể của bé đã không còn bệnh tật, được chẩn đoán là đã hoàn toàn hồi phục.
Có nhiều người mắc bệnh hiểm nghèo cũng đã vượt qua bệnh tật, đó được xem là có sự giúp sức của "thần y" (Ảnh minh họa)
Điều này cho thấy chức năng tự chữa bệnh của cơ thể là rất mạnh mẽ, thậm chí được xem như là một phép màu lạ. Đây có thể xem là sức mạnh của sự chữa bệnh tự nhiên trong cơ thể.
Vậy có bao nhiêu bệnh có thể tự chữa lành?
Theo tạp chí Y học “Sức sống” của Đức cho biết, các nhà nghiên cứu tìm thấy rằng, khả năng cơ thể tự thân chữa bệnh lên tới 60-70% tỉ lệ trục trặc và bệnh tật.
Các nhà khoa học đã giải mã được một số bí mật về khả năng tự chữa lành của cơ thể. Khi mọi người cảm thấy khó chịu hoặc bị bệnh, cơ thể sẽ ngày lập tức vào trong “vườn thuốc” tìm ra từ 30 – 40 loại “thuốc” điều trị tương ứng.
Quá trình điều trị này được khởi xướng và thực hiện bởi vai trò và trách nhiệm của các hormone, kháng thể và các tế bào miễn dịch. Trong thực tế, nhiều điều tương tự xảy ra giống như những hiện tượng khi tay bị đứt, máu sẽ tự cầm, da sẽ tự liền lại. Và bạn sẽ dần không thể nhìn thấy dấu hiệu của vết thương sau đó.
Bên cạnh đó, nếu chúng ta đánh giá đúng vai trò của Thần y trong cơ thể, bạn sẽ thấy rằng, kể cả khi được bác sĩ thông báo vô phương cứu chữa, ngừng hy vọng thực ra chưa phải là hết. Hãy tạo cơ hội cho Thần y ra tay, nhiều trường hợp sống sót là do gặp được Thần y đúng lúc, chúng ta hay gọi đó là định mệnh hoặc số phận may mắn.
“Thần y” là cách gọi hình tượng cho khả năng tự chữa bệnh của cơ thể
Nếu nuôi động vật, bạn sẽ tự nhận ra một thực tế rằng, khi những con vật bị bệnh, chúng sẽ không ăn uống mà nằm yên một chỗ. Đây chính là phương pháp “ăn kiêng” để cơ thể tự chữa lành.
Chuyên gia chỉ ra rằng, động vật được xem là ví dụ điển hình về khả năng tự chữa bệnh, khi đa số chúng đều không có bác sĩ như con người.
Vì vậy, khi đối mặt với triệu chứng sốt và các bệnh khác, hãy cố gắng ăn ít, uống nhiều nước, nước trái cây, sẽ giúp tăng tốc độ phục hồi của cơ thể thay vì cứ phải liên tục ăn uống nhiều hơn bình thường.
4 phương pháp tăng cường sức mạnh và khả năng tự chữa bệnh
1. Nghỉ ngơi
Khi mệt mỏi, nghỉ ngơi là cách hiệu quả nhất để phục hồi thể lực. Người xưa có câu nói nổi tiếng, 3 phần trị, 7 phần dưỡng, ý nói nghỉ dưỡng là vô cùng quan trọng.
Nghỉ dưỡng ở đây được hiểu là sự nghỉ ngơi phù hợp, đồng thời phải duy trì một cuộc sống có trật tự, nguyên tắc và khoa học.
2. Vận động
Tập thể dục có thể chữa được nhiều bệnh, đặc biệt là các bệnh mãn tính. Nhưng cần phải chú ý để lựa chọn phương pháp riêng phù hợp với thể chất của mỗi người.
Chuyên gia sức khỏe cho rằng, khi không tập thể dục, không vận động, bạn đừng bao giờ hy vọng được sở hữu một cơ thể khỏe mạnh một cách lâu dài.
3. Dinh dưỡng
Trong Đông y, dinh dưỡng cũng được gọi là “thủy cốc tinh vi”, có nghĩa là sau khi thức ăn tiêu hóa sẽ được hấp thụ vào cơ thể, phần tinh hoa nhất của thực phẩm sẽ giúp duy trì sự sống cho con người.
Một câu nói rất nổi tiếng khác là: “thuốc bổ không bằng thực phẩm bổ”. Vì vậy, dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể, ảnh hưởng đặc biệt đến sự phục hồi các chức năng.
Bồi dưỡng bằng cách ăn uống sau khi bị bệnh chính là chìa khóa giúp cho cơ thể trở lại bình thường một cách nhanh nhất.
4. Tâm lý
Thể xác và tâm hồn, hay cơ thể và tâm trí được hình thành và phát triển như một thực thể hợp nhất không thể tách rời và có chung một hệ thống chỉ huy. Mọi chuyển động trong cơ thể đều do hệ thống này điều khiển.
Để thúc đẩy phát triển khả năng tự chữa bệnh có rất nhiều cách, quan tâm đến kinh mạch để phát triển tiềm năng tự phục hồi là cách nổi bật và hiệu quả nhất.
Tốc độ chữa bệnh của vị Thần Y được đề cập ở đây sẽ giúp cơ thể tránh hoặc giảm tỷ lệ mắc bệnh, thậm chí loại bỏ căn bệnh này từ gốc rễ, tăng cường và hỗ trợ khả năng điều trị y tế sau đó.
Tóm lại, chúng ta nên chú ý khai thác triệt để tiềm năng của cơ thể thông qua khả năng tự chữa bệnh, điều tuyệt vời này hiện đang bị lãng quên bởi chúng ta đã quen phụ thuộc vào y học hiện đại.
Khả năng tự chữa bệnh của thần y trong cơ thể là mặc định và có sẵn, chúng ta không nên phụ thuộc hay can thiệp vào đó một cách quá mức sẽ gây ra tác dụng ngược, triệt tiêu khả năng tự chữa bệnh của cơ thể.
Tự chữa bệnh bẩm sinh vì khả năng sinh tồn
Trương Huyền – một học giả nghiên cứu bách khoa sức khỏe (Trung Quốc) nghiên cứu cho biết, con người bẩm sinh đã có khả năng tự chữa bệnh, cho phép duy trì thể trạng khỏe mạnh, hệ thống này được liên tục tái tạo qua thời gian.
Mặc dù chúng ta không thể hoàn toàn hiểu được ngôn ngữ của cơ thể, nhưng Thần y có thể hiểu đúng ý và chính xác. Vì thế, miễn là không can thiệp và làm hỏng hành vi bình thường của cơ thể, bạn có thể tận dụng lợi thế quyền năng tự chữa lành để ngăn ngừa bệnh tật.
Cân nhắc kỹ trước khi sử dụng thuốc hóa học
Trên thực tế, sử dụng thuốc sẽ có tác dụng phụ và lâu dần dẫn đến "nhờn" thuốc, sẽ khó có thể chữa khỏi bệnh một cách triệt để. Nhiều loại kháng sinh đã trở nên thất bại trong điều trị. Ngoài thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau cũng có thể gây kháng thuốc, dẫn đến bệnh mãn tính. Nếu sử dụng lâu dài ở bệnh nhân sẽ sinh ra phụ thuộc thuốc.
Theo báo cáo, khảo sát của Trường đại học Munster (Đức) cho thấy, việc lạm dụng thuốc giảm đau có thể gây ra bệnh thận. Giáo sư Lee Sung, Đại học Muenster cho biết, tại Đức, có hai phần ba số bệnh nhân bị bệnh thận là do lạm dụng thuốc, đặc biệt là ở phụ nữ hay uống thuốc đau đầu...
Ông nói thêm rằng việc sử dụng lâu dài thuốc giảm đau, cơ thể sẽ không sản xuất đủ hemoglobin vận chuyển oxy cần thiết, và sau đó nó gây ra bệnh thận và thậm chí suy thận. Nghiêm trọng hơn, việc lạm dụng thuốc giảm đau và thậm chí gây ra các khối u nhất định.
Vợ tôi còn 69 ngày, 96 tiếng nữa là gia nhập Hội người cao tuổi, nhưng mụ bảo không thích vào cái Hội ấy vì mụ nghĩ mình còn trẻ. Tôi và mụ đã có cháu nội, cháu ngoại, con dâu , con rể đầy đủ. Cả tôi và mụ cũng không còn trẻ trung gì, cả một đời mụ vất vả vì chồng con nên nhan sắc cũng tàn tạ theo tháng ngày…Vả lại mụ không phải là típ người giữ được dung nhan “vượt thời gian”, nhìn cũng thương! Con người ta có nhiều cách để níu kéo thanh xuân nhưng cách của mụ thì không thể chấp nhận được…
Mới đây, con gái tặng mụ một chiếc xờ-mát-phôn rất hiện đại, nó còn cài đặt cả phần mềm chỉnh sửa ảnh rất chuyên nghiệp, khỏi nói mụ vui như thế nào, mụ cười toe toét…
Từ ngày có cái xờ-mát-phôn mới, mụ xao nhãng nhà cửa. Buổi sáng, mụ đi tập thể dục quanh hồ với hội bạn già đến tận trưa mới về vì các mụ bận seo-phì.
Nhìn các mụ tạo hình, tạo dáng “diễn” như tuổi xì- tin phát gai cả mắt, nhưng không dám nói, tôi mà mở mồm là mụ “nhảy” vào thò chân ra ngay... Tôi bèn chặn trang của mụ kết bạn với mình để đỡ chướng tai gai mắt, nhưng mụ phát hiện và bắt nối lại, tôi đành phải nghe lời mụ cho êm cửa, êm nhà.
Tôi còn phải tích cực “comment” thật ướt át nữa chứ không mụ lại chê tôi :
Nhờ cái kỹ nghệ chỉnh sửa hiện đại ấy mà mụ nào nhìn cũng trẻ ra đến hai, ba chục tuổi. Tóc bạc, da mồi, răng xỉn… biến đi đâu mất chỉ còn những cô nàng ngoài 30 xinh tươi, nõn nà, đến ngay cả như thằng tôi mà còn không nhận ra người vợ “tay ấp đầu gối” của mình đâu nữa, nói gì đến Cộng đồng mạng.
Các mụ làm quen với một nhóm trai trẻ, ngày nào cũng chat chit đến tận khuya…
Trưa hôm ấy, tôi và mụ đang cho thằng cháu nội ăn trưa, có tiếng chuông bấm cửa, tôi nhìn lên màn hình , thấy một chàng trai trẻ, liền hỏi:
- Cậu gặp ai?
Cậu ta trả lời :
- Cháu chào bác, cháu muốn gặp con gái bác , em Tệ!
Tệ là tên mụ ấy. Nick name là “White Tệ”…chết không kia chứ ! Tôi hiểu liền câu chuyện….Nhân lúc, mụ đang lúi húi cho cháu ăn, không để ý, tôi liền bấm cửa mở mời cậu ta vào nhà để “bóc phốt” mụ và “dạy” cho mụ một bài học . Chàng trai bước vào, thấy tôi và vợ, liền hỏi :
- Cháu chào bác trai! Chào bà! Em Tệ đi vắng ạ ?
Lúc này, vợ tôi không phải là cô nàng ngoài 35 tuổi rưỡi nữa mà là một bà lão ngoài 69, đầu bù tóc rối , quần áo xộc xệch, da dẻ nhăn nheo… Mụ có vẻ bất ngờ và bối rối, nhưng trấn tĩnh được ngay và nhanh nhảu:
- Tệ nào ? Cậu nhầm địa chỉ rồi.
Tôi định mở mồm nhưng mụ đã đá vào chân tôi, ra hiệu im lặng, tôi chỉ cười không dám hó hé gì, không khéo , tý nữa khách ra khỏi cửa là lại phải “chịu trận” cuồng phong. Thôi , tốt nhất là im lặng cho lành !
Tôi bâng quơ hỏi:
- Thế sao cậu biết địa chỉ của cô gái mà tìm đến nhỉ?
- Dạ, cô ấy seo phì trước nhà, cháu đọc được số.
Chàng trai ấy ngập ngừng :
- Chắc cháu lộn địa chỉ, nhà cô ấy không thuê người giúp việc!
Tôi không nhịn được cười, phải giả vờ đưa tay nhổ râu…
Chàng trai vừa ra khỏi cửa mụ thốt lên :
- Gớm ! Tìm được đến đây cơ à !
Dại của các mụ giải trí chat, chit trên face lại lộ địa chỉ thật của mình. Mà thôi như thế cũng may, để cho mụ vợ tôi xuống mặt đất, suốt ngày mụ ở trên mây, trên mạng , mệt lắm !
1-Thở là gì?
Mỗi ngày ta hít thở khoảng 18,925 lít không khí.
Thở có hai nhiệm vụ:
Thứ nhất là nó cung cấp cho cơ thể dưỡng khí cần để đốt thực phẩm và cho dưỡng khí. Thứ hai là nó thải ra thán khí là chất không cần của đời sống.
Dưỡng khí là chất hơi chiếm khoảng 20 phần trăm không khí mà ta hít vào phổi. Không khí thở ra chứa nhiều thán khí.
Mặc dù thở là không tự chủ, tuy nhiên ta có thể du di nó một phần nào. Thí dụ ta có thể lấy hơi thật lớn trước khi lặn ở dưới nước.Ta cũng có thể ngưng thở nhưng đừng ngưng lâu quá; phản ứng không tự chủ bắt con người thở quá mạnh khiến ta không thể tự tử bằng cách ngưng thở.
2-Khi ta “hết hơi” thì chuyện gì xẩy ra?
Trong khi vận động mạnh, bắp thịt của ta có thể đã dùng hết dưỡng khí mau hơn là tim cung cấp và phổi có thể thay thế.Tạo hóa đã cung gắn sự cấp cứu này bằng cách cho phép các cơ bắp mắc nợ dưỡng khí một thời gian ngắn. Khi món nợ này đã được trả, ta có thể ở trạng thái “hết hơi” và chúng ta sẽ tiếp tục thở hổn hển.
3-Tại sao ta ngáy và có cách điều trị không?
Ngáy là hơi thở mạnh và khó khăn trong khi ngủ.Người lớn đôi khi ngáy khoảng 45 lần nhưng trung bình là 25 lần.
Nguyên nhân là do nghẹt mũi, lớn lên của lưỡi hoặc cục thịt dư, lệch vách ngăn của mũi, nằm ngửa và lưỡi cản trở hơi thở.
Ngáy có thể nguy hiểm và gây ra nghẹt thở tạm thời. Nếu có khoảng sáu hoặc bẩy cơn như vậy trong vòng một giây đồng hồ sẽ gây ra nghẹt thở và cần đi thăm bác sĩ. Thiếu dưỡng khí có thể đưa tới cao huyết áp và mất ngủ kinh niên.
Ngáy vừa phải có thể được chữa bằng vận đông và giảm cân hoặc không uống rượu, thuốc ngủ hoặc thuốc an thần trước khi ngủ.
4- Tại sao ta ngáp?
Nếu chúng ta thấy một người ngáp khi bước ra khỏi rạp chiếu bóng, đừng cho là tại phim dở. Trái với ý kiến chung, ngáp không phải là dấu hiệu của sự buồn chán.Nếu ta ngáp, giản dị là chúng ta cần dưỡng khí và khi ngáp, dưỡng khí sẽ vào phổi nhiều hơn.
Dưỡng khí của cơ thể sẽ thiếu sau một thời gian dài thở nhẹ, bị căng thẳng hoặc ngồi bất động một thời gian lâu.Ngáp không phải là dấu hiệu của một bất thường nào. Điểm đặc biệt là ngáp không xẩy ra khi con người bị bệnh về thể chất hoặc tâm thần.
38 Bí Quyết Vàng Về Sức Khỏe Ngàn Đời Của Danh Y Hoa Đà
1,Tỏi là một kho báu quý giá, ăn chúng thường xuyên sẽ rất tốt sức khỏe.
2, Mỗi ngày ăn 2 quả táo, bệnh tật trong cơ thể sẽ không tìm đến bạn.
3, Mỗi ngày ăn một quả táo tàu, trường sinh bất lão không phải là chuyện xa vời.
4, Quả óc chó giống như một kho báu của núi rừng, ăn vào vừa bổ thận, vừa tốt cho não
5, Sắt không nấu chảy không thành thép, người không chăm sóc sức khỏe thì không thể khỏe mạnh
6, Cà rốt chính là "tiểu nhân sâm", ăn thường xuyên sẽ có tinh thần và thể lực tốt.
7, Cà chua là trái cây có dinh dưỡng tốt, ăn vào sẽ trẻ đẹp và ít bệnh.
8, Dưa chuột nhỏ là một kho báu cho sức khỏe, ăn hàng ngày có thể giúp giảm cân và dưỡng nhan rất tốt.
9, Ăn cần tây nhiều hơn mà không cần hỏi lý do, vì đây là thực phẩm hạ huyết áp rất hữu ích.
10, Hành lá chấm nước sốt, càng ăn càng béo.
11, Ăn một bát cháo đậu xanh vào mùa hè, là một bài "thuốc tiên" trong việc giải độc, thanh nhiệt, giảm nóng.
12, Buổi sáng ăn 3 lát gừng, tốt như việc uống canh nhân sâm.
13, Phụ nữ nên ăn ngó sen 3 ngày liên tiếp, nam giới nên ăn gừng 3 ngày liên tiếp.
14, Ba ngày không ăn thực phẩm màu xanh lá cây, hai mắt sẽ vàng đi.
15, Thà ăn cơm không có thịt, nhất định không được ăn cơm mà không có canh.
16, Ăn canh trước bữa ăn, tốt hơn so với uống thuốc.
17, Ăn mì/miến nên ăn nhiều nước, để tránh việc (bác sĩ) phải khai đơn thuốc.
18, Buổi sáng ăn muối thì tốt, buổi tối ăn muối thì độc.
19, Thà thừa đồ ăn trong nồi, còn hơn tích đầy thức ăn trong dạ dày.
20, Mỗi bữa ăn nhịn đi một miếng (ý nói ăn ít) thì có thể sống đến 99 tuổi (ý nói sống thọ).
21, Thường xuyên ăn thực phẩm chay, giống như thường xuyên chăm sóc cái bụng của bạn (tốt cho đường tiêu hóa).
22, Thà không có thịt để ăn, chứ không thể thiếu đậu để ăn (ăn đậu tốt hơn ăn thịt).
23, Ăn cơm cho chút đường, vừa giàu dinh dưỡng vừa tốt cho sức khỏe.
24, Phải ăn sáng cho tốt, ăn trưa cho no, ăn tối cho khéo.
25, Ăn quá nhiều sẽ bị bệnh, ăn uống đúng mức, đúng giờ, đúng tiêu chuẩn thì sẽ an toàn sức khỏe.
26, Ăn uống vội vàng, nuốt thức ăn thô (không nhai kỹ) thì sẽ làm tổn thương dạ dày, gây hại đường ruột.
27, Nếu bạn muốn khỏe mạnh, thức ăn nên được nhai thành bột giấy (ăn chậm nhai kỹ trước khi nuốt).
28, Nếu bạn muốn bách bệnh tiêu tan, nên ăn uống để đói 3 phần (ý khuyên ăn no 70% nhu cầu).
29, Cứ để nước mắt chảy, bệnh tự nhiên sẽ giảm nhẹ (ý nói về tác dụng của khóc, không nên kìm nén cảm xúc).
30, Bậc trượng phu cũng có lúc phải rơi nước mắt, anh hùng bị chảy máu cũng phải rơi lệ (ý nói không nên kìm nén đau đớn, ngăn chặn cảm xúc tự nhiên).
31, Trong giấc ngủ, nên để cho trái tim ngủ trước, đôi mắt ngủ sau (thư giãn tinh thần trước khi ngủ).
32, Dùng thuốc bổ hay thực phẩm bổ, cũng không bằng việc làm cho trái tim khỏe.
33, Cơm chăm sóc cơ thể, âm nhạc lời ca chăm sóc trái tim và tâm hồn.
34, Mang trong mình một trái tim trẻ trung, cả đời bạn sẽ không biết đến sự già nua. Tâm hồn vui vẻ thì nhan sắc thanh xuân.
35, Một nụ cười có thể trẻ ra 10 tuổi.
36, Mỗi ngày cười 3 lần, khó khăn nào cũng qua, tuổi già sẽ chậm đến.
37, Thường xuyên mở miệng cười tươi, thanh xuân luôn tồn tại trên khuôn mặt bạn.
38, Một tiếng kêu khóc sẽ giúp bạn loại bỏ u sầu.
Trên đây là những lời khuyên của Danh y Hoa Đà dành cho người dân cách đây đã hơn 18 thế kỷ, tuy nhiên cho đến nay, hầu như chúng vẫn còn giá trị khoa học và ứng dụng rất cao. Nếu cảm thấy bổ ích, hãy chia sẻ cho bạn bè của bạn cùng tham khảo.
Đời Người, Có 5 Việc Càng Nói Không, Càng Ít Tai Họa
Đây là 5 việc mà dù bạn là ai cũng nên ghi nhớ để thực hiện nếu muốn có một cuộc sống thanh thản, tự tại, tránh xa được tai ương, họa hại.
1. Không đòi hỏi quá nhiều
Cuộc đời là một chuyến du lịch cô đơn. Từ đầu đến cuối, trong thế giới của bản thân đều chỉ có mỗi một mình, phải tự mình bước đi, phải tự mình làm việc, phải tự mình hoàn thành ước mơ.
Sinh ra là con người, mỗi chúng ta đều có những điểm khiến người đời ngưỡng mộ nhưng cũng có nhiều điểm còn thiếu sót. Chẳng ai luôn được như ý muốn, cũng chẳng ai sống được dễ dàng hơn kẻ khác.
Trong cuộc sống có quá nhiều phiền muộn và rắc rối. Xưa nay, không phải người khác mang đến lo âu và đau khổ cho chúng ta mà chính thái độ và tâm trạng của chúng ta quyết định việc này.
Nếu như chúng ta đòi hỏi quá nhiều, cuộc sống sẽ càng phiền muộn, nếu như chúng ta quá ganh tị, đố kị, cuộc sống sẽ càng đau khổ.
Thật ra mỗi người chúng ta nên hiểu một điều: Sinh mệnh là của chính ta, cuộc sống cũng là của chính ta. Không cần phải chứng minh cho người khác thấy, càng không cần phải so bì cao thấp với kẻ khác. Đừng lãng phí quá nhiều thời gian vì ánh mắt và lời nói của người khác.
Hãy sống tốt cuộc đời của mình, cứ kệ người ta nói gì thì nói.
2. Không giải thích với người không hiểu mình
Cuộc đời con người kiểu gì cũng sẽ có lúc phải trải qua những lời bịa đặt gièm pha. Trong cuộc sống luôn có những người thích nói xấu sau lưng người khác và càng không thiếu người bị người khác nói xấu sau lưng. Bởi vậy không cần phải giải thích, càng không cần tranh cãi với người khác.
Việc giải thích cũng cần có 'vốn', thay vì lãng phí vốn liếng là thời gian quý báu và sức lực của bản thân vào việc giải thích cho người khác hiểu mình, thà rằng tập trung làm việc mà mình coi trọng, đi con đường mình đã chọn. Chúng ta không cần lãng phí lời nói và thời gian quý báu của mình.
Trên thế giới này, mỗi người chúng ta đều là một bản thể độc nhất vô nhị, là một tia pháo hoa khác biệt, dù chỉ rực rỡ trong một khoảnh khắc cũng chiếu sáng cả một khoảng trời, không cần ép mọi người đều phải hiểu.
Làm người hãy giống như một đoá hoa, dù chẳng ai ngắm cũng nhất định phải nở rộ, chẳng phải vì ai khác mà là vì chính mình, chẳng cần làm món đồ cho người khác thưởng thức, cứ tươi đẹp theo cách của mình.
Trên thế gian này, có những người coi bạn như câu chuyện cổ tích, có những người coi bạn là câu chuyện thần thoại, lại có những người coi bạn là chuyện cười. Cứ để họ nói vậy đi.
Người thật sự ưu tú sẽ chẳng bao giờ bận tâm xem người khác nghĩ gì.
Họ chỉ bận tâm trở thành một bản thể ưu tú nhất, không tìm kiếm cái bóng của mình sau lưng người khác, không hèn mọn tìm kiếm giá trị tồn tại của mình trong mắt của người khác.
Họ sẽ tự mình phấn đấu không ngừng, tự toả ra ánh sáng và sống là chính mình.
3. Không tranh giành
Con người đến một độ tuổi nhất định sẽ học được cách không tranh đoạt. Cuộc đời cứ phải tranh qua tranh lại làm gì? Tới cuối cùng có thứ gì là của bạn, và bạn có thể mang theo thứ gì?
Đừng tranh giành. Thứ gì đã là của bạn thì chẳng phải tranh, bởi trời đã định sẵn; thứ không phải của bạn, dù có tranh cũng không được, vậy hà tất phải đòi hỏi quá đáng?
4. Không tranh cãi
Đối mặt với loại người ngang ngược vô lý, lùi một bước là cách để đôi bên cùng yên ổn, cũng là cách để bảo vệ bản thân.
Dù có lấy lý lẽ ra tranh cãi thì cũng chỉ khiến mình phiền lòng, mất hứng. Cuối cùng kẻ đó vẫn coi trời bằng vung, thậm chí gây nên ảnh hưởng không tốt đối với cuộc sống của mình.
Người xưa từng nói: Mười người biết điều cũng không thắng nổi một kẻ ngang ngược. Bởi vậy cần gì phải tranh cãi đúng sai với kẻ ngu dốt?
Có đôi khi giải thích trong tuyệt vọng sẽ khiến bạn nhận ra: Khoảng cách giữa người với người là gần ngay trước mắt lại xa tận chân trời.
Không tranh cãi là biết cách giữ mồm miệng, biết bảo vệ tâm hồn mình. Người nói vô tình, người nghe có ý. Hãy tránh hoạ từ miệng mà ra, đừng gây chuyện thị phi.
Có đôi khi im lặng không nói gì mới là thứ âm thanh có sức tấn công mạnh mẽ nhất. Người không nói sẽ dùng nhiều thời gian để suy ngẫm, để quan sát người khác hơn, có thời gian để làm việc, trở thành một người trong cuộc sáng suốt.
Bởi vậy hãy khép miệng lại tu tâm, yêu thương lấy bản thân.
Người không tranh giành mới thật sự là người chiến thắng trong cuộc sống. Hãy buông bỏ sự tranh cãi, tránh xa những phiền muộn, trốn khỏi những người, những việc tệ hại. Khi có được sự tự tại, an nhiên, lòng sẽ luôn thấy vui vẻ. Lúc đến tuỳ duyên, lúc đi tuỳ ý.
5. Không khoe khoang
Con người đến một độ tuổi nhất định sẽ học được cách không khoe khoang.
Bạn và tôi đều là con người, cuộc sống sẽ không thể luôn luôn tốt đẹp, đừng tùy tiện đắc ý, cho dù ở vị trí nào cũng đều không nên đắc ý mà khoe khoang tới mức vênh váo.
Bạn càng khoe khoang thứ gì thì sẽ càng dễ mất đi thứ ấy. Vào thời điểm bạn bộc lộ tài năng của mình, đó có thể cũng chính là lúc kẻ khác ghen ghét bạn. Kẻ tiểu nhân thường dễ ra tay vào những lúc bạn đắc ý mà mất cảnh giác nhất. Bởi vậy, chúng ta nên học được cách giấu mình, không khoe khoang.
Người đời thường nói: Núi cao còn có núi cao hơn.
Làm người nhớ đừng khoe khoang. Khiêm tốn sẽ giúp bạn bay cao hơn, khiêm nhường sẽ giúp bạn đi xa hơn.
Con người đến một độ tuổi nhất định sẽ học được cách không tranh cãi, thản nhiên hoà nhã nói chuyện, bình tĩnh điềm nhiên chấp nhận, mỉm cười ung dung cho qua.
Làm người cứ lo cho chính mình là đủ, thay vì thao thao bất tuyệt tranh cãi, hãy cứ yên lặng rèn luyện bản thân, cứ lặng lẽ làm tốt việc của mình, hoàn thiện chính mình, đó mới là việc nên làm nhất.
Theo S Day Olshansky, Trung Tâm Lão Khoa của Đại Học Chicago thì “mọi sự vật tan rã dần theo thời gian, cho nên lão hóa là diễn biến không thể đảo ngược được. Đây la sự tích lũy của các hư hao, thoái hóa diễn ra ngay trong cấu trúc căn bản của các phần tử tạo thành cơ thể. Thoái hóa là sản phẩm của sự Dinh dưỡng với lão hóa.
Dinh dưỡng đúng hoặc sai có ảnh hưởng rất lớn tới toàn bộ cơ thể con người, từ tinh thần tới thể chất, từ chức năng các cơ quan nội tại cũng như ngoại vi.
Hãy so sánh một người thiếu dinh dưỡng với một người ăn uống đầy đủ. Một bên thì hồng hào, đầy sinh lực, yêu đời. Bên kia thì ốm yếu, gầy còm, chậm chạp. Thiếu dinh dưỡng kinh niên thì làm sao có năng lượng để sống lâu, chẳng khác chi ngọn đèn cạn dầu, tắt lụi dần dần.
Cho nên biết ăn để mà sống lâu là cả một nghệ thuật. Các cụ ta vẫn nói “Bệnh tùng khẩu nhập”. Bệnh gây ra do những thực phẩm mà ta đưa vào miệng, những thực phẩm quá nhiều hoặc quá ít từ số lượng tới phẩm chất.
Vậy thì ăn như thế nào để vừa khỏe mạnh, vừa sống lâu?
Khi ăn, không phải chỉ để no bụng cho hôm nay, tuần này mà cần nhớ là ăn cho mai sau, cho sức khỏe của những năm sắp tới.
Từ khi nằm trong lòng mẹ, sự dinh dưỡng đầy đủ đã có tác dụng tốt cho khi sanh ra và lớn lên.
Thói quen ăn uống tốt từ tuổi nhỏ, món ăn mà ta tiêu thụ bây giờ có nhiều ảnh hưởng tới sự ta sẽ sống bao lâu và những năm sống đó sẽ mạnh yếu ra sao.
Nhiều người thắc mắc rằng có một chế độ ăn uống mẫu mực, chung cho mọi người không: một chế độ mang lại sức khỏe tổng quát, sức chịu đựng với bệnh hoạn và trì hoãn tuổi gìa.
Câu trả lời sẽ là không có. Nhưng có một số nguyên tắc, một số hướng dẫn mà ta có thể áp dụng để đạt được điều ước muốn.
1- Ăn vừa phải
Ăn vừa phải, đúng với nhu cầu, đừng nhiều quá, ít quá. Các cụ ta vẫn khuyên là nên ăn “ba phần đói, bẩy phần no” là tốt hơn cả, khỏi nặng bụng, lên cân.
Nhu cầu thực phẩm cũng thay đổi tùy từng người, tùy cấu trúc cơ thể to nhỏ, khi làm việc, khi nghỉ ngơi. Con người thường có khuynh hướng ăn quá nhiều, bất cứ lúc nào, coi bao tử như một thùng chứa. Thế là béo phì, tiểu đường, suy tim mạch, giảm tuổi thọ trời cho. Lên cân vừa phải vào tuổi 60 có thể chấp nhận được vì đó là diễn tiến bình thường, nhưng “mập mạp” quá không bao giờ là dấu hiệu của sức khỏe.
2- Cân bằng
Thực phẩm cần có sự cân bằng giữa các chất dinh dưỡng căn bản. Không nhất thiết là phải cân bằng ở mỗi bữa ăn, mà có thể trong ngày, trong tuần.. Các chuyên gia dinh dưỡng vẫn khuyên nên theo tỷ lệ 30% béo, 15-20% đạm, 45-50% carbohydrat.
3- Đa dạng
Đừng sở thích chi phối hoàn toàn việc chọn lựa món ăn, mà cần phải lưu ý đến việc ăn nhiều món ăn khác nhau. Mỗi một thực phẩm có chất dinh dưỡng với công dụng riêng mà những món khác không có và không thay thế được. Bỏ quên một chất dinh dưỡng nào đó quá lâu sẽ đưa tới thiếu dinh dưỡng.
Sau đây là vài hướng dẫn về việc sử dụng các chất dinh dưỡng:
a. Chất đạm
Đạm gồm có nhiều các amino acid, trong đó có một số cơ thể không tự tổng hợp được và phải do thực phẩm cung cấp. Đạm đông vật có hầu hết các amino acid. Thực vật có thể thiếu một vài loại nhưng khi ăn nhiều rau trái khác nhau ta sẽ bổ sung đầy đủ. Khi sử dụng đạm động vật, chúng ta cũng cần lưu ý:
– Thịt bò, heo, cừu thường có nhiều béo;
– Thịt gà, gà tây ít hơn nếu bỏ da;
– Cá tốt hơn nữa, tôm hơi nhiều cholesterol;
– Sữa, trứng, pho mát loại ít chất béo thì tốt hơn;
– Sữa chua giảm cholesterol.
Hạn chế các món chiên rán. Hấp, nướng bỏ lò tốt hơn.
b. Chất béo
Cơ thể rất cần chất béo, nhưng nhiều quá thì lại có nguy cơ gây bệnh. vì thế, cần để ý hạn chế ở mức vừa phải khi ăn, nhất là các chất béo bão hòa.
Chất béo tạo ra nhiều phản ứng oxy hóa ở tế bào, sản xuất nhiều gốc tự do. Các gốc tự do này đưa tới nhiều hư hao cho tế bào và được coi như là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh tim mạch, tiểu đường, một vài bệnh ung thư cũng như sự lão hóa..
c. Carbohydrat
Carbohydrat gồm hai nhóm chính là tinh bột và đường, có nhiều trong bánh mì, cơm, rau và trái cây. Carbohydrat là nguồn cung cấp năng lượng chính cho não bộ. Trong cơ thể, chất dinh dưỡng này được chuyển hóa thành đường glucose. Theo tập quán lâu đời của nhiều dân tộc Á Đông thì carbohydrat trong cơm gạo là nguồn lương thực chính.
d. Chất xơ
Có nhiều trong rau trái cây. Khi thiếu chất xơ, ta thường hay bị táo bón, viêm túi ruột, bệnh túi mật, tăng nguy cơ ung thư ruột già.
Chất xơ giúp giảm cholesterol trong máu, đại tiện dễ dàng. Nhưng dùng quá nhiều có thể gây đầy bụng, giảm hấp thụ sắt, kẽm, calcium
đ. Đường
Do sự hấp dẫn của vị ngọt nên có rất nhiều người ăn quá số lượng mà cơ thể cần.
Đường trắng không cung cấp các acid amin và sinh tố cho sự dinh dưỡng mà chỉ cho năng lượng. Khi được cung cấp quá nhiều, năng lượng thừa sẽ chuyển thành ra mỡ béo, dẫn đến béo phì.
Tiêu thụ nhiều đường cũng gây sâu răng, làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường khi tuổi lên cao, làm tăng cholesterol và bệnh tim mạch…
e. Muối ăn
Muối ăn là thành phần quen thuộc và không thể thiếu trong hầu hết các bữa ăn. Nhưng ăn nhiều muối quá có thể bị huyết áp cao. Thường thì chúng ta ăn nhiều hơn nhu cầu cần thiết của cơ thểchỉ để thỏa mãn khẩu vị, và như vậy là buộc thận phải hoạt động nhiều hơn để bài tiết lượng muối thừa. Khi điều này thường xuyên xẩy ra, thận sẽ suy yếu, hư hao.
g. Sinh tố và khoáng chất
Sinh tố và khoáng chất rất cần thiết cho cơ thể, nhưng điều đó không có nghĩa là việc bổ sung các chất này bao giờ cũng tốt cho sức khỏe. Trong thực tế, một người khỏe mạnh áp dụng chế độ dinh dưỡng cân bằng, đa dạng thì không cần uống thêm sinh tố và khoáng chất. Người ăn chay thuần túy rau trái có thể cần dùng thêm sinh tố B12; phụ nữ có thai cần thêm sắt, folate.
Một số sinh tố như sinh tố C, E, Beta carotene hiện nay rất phổ biến. Nhiều người dùng vì tác dụng chống oxy hóa, nhưng nên tránh dùng liều lượng quá cao.
h. Nước
Nước rất cần cho hầu hết các chức năng của cơ thể. Nước điều hòa thân nhiệt, chuyên chở chất dinh dưỡng và dưỡng khí tới tế bào, thu thập chất phế thải để bài tiết ra ngoài. Nước cũng là chất đệm cho các khớp xương và bảo vệ các bộ phận.
Nhu cầu nước của cơ thể được thỏa mãn khi ta uống khoảng 8 ly nước mỗi ngày. Khi uống ít hơn mức này, cơ thể vẫn hoạt động nhưng nhiều biện pháp “tiết kiệm nước” sẽ được cơ thể áp dụng dẫn đến giảm khả năng họat động và phát triển bình thường.
Có nhiều loại nước ống để cung cấp nước hàng ngày cho cơ thể. Sữa là nguồn cung cấp nhiều nước mà lại kèm theo nhiều calcium, đạm, sinh tố… Nên dùng sữa đã loại bỏ bớt chất béo.
Các loại nước ngọt có nhiều đường và chất hơi, nên cần giới hạn. Nước ép trái cây, nước khoáng thiên nhiên … đều là các thức uống tốt.
4. Thực phẩm có tác dụng chống lão hóa
Sau đây là tóm tắt một số thực phẩm mà kinh nghiệm cho là có thể làm chậm sự lão hóa. Một số thực phẩm này chủ yếu là có chứa những chất chống sự oxy hóa (anti oxidant). Đây là chất có khả năng ngăn chận các gốc tự do (free radical), nguồn gốc của tiến trình oxy hóa các tế bào và là một trong nhiều nguy cơ đưa đến lão suy.
1. Thực phẩm có nhiều Beta-Carotene (tiền tố sinh tố A) đều từ gốc thực vật như dưa, hồng qua, ớt đỏ, khoai lang, đu đủ, ớt cay, cà rốt, xoài, bí ngô, cải xanh lục… Dưa hấu, quít, trái bơ, bắp su, dâu, cam đào, cà chua… chứa một lượng beta carotene ít hơn nhưng cũng là nguồn cung cấp không kém quan trọng.
2. Thực phẩm có sinh tố B 5 (pantothenic acid) có khả năng vừa chống gốc tự do vừa hạ cholesterol, chống ô nhiễm, bảo vệ gan. Sinh tố B6 có nhiều trong men, gạo lức, hạt bí ngô, hạt mè…
3. Sinh tố C là chất chống oxy hóa rất tốt và có trong trái cam, chanh, dâu, cải lá xanh lục, cà chua, su lơ xanh lục, khoai tây, khoai lang…
4. Sinh tố E có nhiều trong mầm lúa mạch, đậu nành, bắp su, su lơ xanh lục, các loại cải có lá xanh lục.Theo nhiều nhà nghiên cứu, sinh tố E làm chậm tiến trình lão hóa và làm trẻ con người.
5. Thực phẩm chứa nhiều calcium gồm có sữa gạn bớt mỡ, đậu phụng, sữa chua gạn mỡ, quả óc chó, phó mát, hạt hoa hướng dương, đậu nành, các loại đậu khô, cá mòi đóng hộp (ăn cả xương), các loại cải xanh lục, cá hồi, su lơ xanh lục…
6. Khoáng chất iodine có trong tảo bẹ, hành, hải sản, đa số cải xanh lục…
7. Khoáng chất sắt có nhiều trong sò hến, quả hạch, đào sấy khô, các loại đậu, thịt tươi không mỡ, măng tây, gan, mật mía, trứng, bột yến mạch (oatmeal)…
8. Mầm lúa mạch, cám, cá tuna, hành, cà chua, su lơ xanh lục chứa khoáng chất selenium.
9. Thực phẩm giầu chất đạm gồm có: cá tươi hoặc đông lạnh, tôm cua, sữa gạn mỡ, sữa chua gạn mỡ, thịt gà (đút lò hay nướng), thịt cừu, thịt bò lọc bỏ bớt mỡ, hạt cây hướng dương, hạt bí ngô, đậu phụng rang, bơ đậu phụng không pha đường hoặc muối.
10. Trái cây chống lão suy gồm có: quả kiwi, nho đen Hylạp, hồng qua, đu đủ, các loại quả thuộc giống cam quít, dâu ổi, đào lông, quả xuân đào (nectarine) dưa hấu. Những loại quả này có lượng sinh tố C rất lớn.
Ngoài ra còn phải kề đến những loại quả có chứa bioflavonoisd, một chất chống oxi-hóa mạnh, như: quả mơ (apricot), nho, dâu đen, quả anh đào (cherry), quít, bưởi cam…
Kết luận
Để trì hoãn sự lão hóa, con người đã thử qua nhiều cách khác nhau. Có những phương thức phải tốn nhiều tiền, có những loại thuốc có thể mang tới kết quả, cũng có những nghiên cứu với nhiều hứa hẹn.
Nhưng phương thức mà mọi người có thể áp dụng được, có kết quả chắc chắn mà lại ít tốn kém. Đó chính là áp dụng một chế độ dinh dưỡng đúng đắn, hợp lý, cân đối, đa dạng kết hợp với sự vận động, rèn luyện thể lực.
Saturday, September 19, 2020
Đau Cổ, Vai, Gáy, Lưng, Và Xương Khớp Từ Đầu Đến Chân: Chỉ Cần Tập 5 Động Tác Này Là Sẽ Đỡ Hẳn.....
Bạn bị đau xương khớp cổ vai gáy, đau lưng và đầu gối? Bạn đang tìm một bài tập thể dục giúp phòng và chữa bệnh này? Đây chính là gợi ý tuyệt vời nhất mà bạn nên thử tập ngay.
Bệnh đau xương khớp không quá nguy hiểm, nhưng giảm chất lượng sống, bạn đừng chủ quan.
Bệnh xương khớp được xem là một trong những căn bệnh phổ biến, càng ngày càng trẻ hóa với tỉ lệ người mắc bệnh tăng cao. Nhưng do các dấu hiệu bệnh xuất hiện ở mức từ nhẹ đến nặng, từ không rõ ràng đến đau đớn có trải qua một quãng thời gian khá dài nên nhiều người hầu như không để ý, thậm chí coi nhẹ căn bệnh nguy hiểm này.
Tuy nhiên theo các chuyên gia sức khỏe, đây là căn bệnh có thể làm giảm chất lượng sống, gây đau đớn và rất khó để điều trị triệt để trong khi bệnh có xu hướng nặng lên theo thời gian. Cách tốt nhất để giải quyết các chứng đau xương khớp chính là tập thể dục.
Trong muôn vàn bài tập, bạn biết chọn tập động tác nào khi thời gian có hạn mà lại muốn tăng nhanh hiệu quả tập luyện? Hãy tham khảo 5 động tác đơn giản dưới đây. Nếu bạn muốn cải thiện các chứng đau, việc của bạn là phải kiên trì tập, sáng và tối hoặc bất kỳ lúc nào rảnh rỗi.
Bệnh đau cổ vai gáy, đau lưng hay đầu gối… không chỉ tác động tại điểm đau, mà còn là nguyên nhân gây ra các bệnh khác như đau đầu chóng mặt, ù tai, đi lại khó khăn, vóc dáng vì ảnh hưởng, khiến cho người bệnh khó chịu và khổ sở.
Bài tập sau đây được xem là thuốc "giảm đau" cho những người bị bệnh về xương khớp
1. Bài tập chữa đau đốt sống cổ
Mỗi ngày bạn nên tập động tác này đều đặn, vừa đi bộ vừa giơ tay lên cao. Đi khoảng 200 bước.
Bài tập này có tác dụng phòng và trị bệnh đau cổ. Ngoài ra, trong khi làm việc, cứ ngồi 1 giờ đồng hồ, bạn nên dừng lại hoạt động một chút, tập xoay vai cổ, bất kỳ lúc nào rảnh có thể xoa bóp vùng cổ, xoa cho đến khi nóng ấm vùng da bên ngoài là sẽ có hiệu quả.
2. Bài tập chữa đau đốt sống lưng
Bị đau đốt sống lưng, khó chịu vùng lưng dưới, người mỏi thường xuyên, bạn có thể tập động tác này. Người muốn phòng bệnh cũng nên tập, vừa tránh bệnh, vừa đẹp dáng.
Thay đổi chân khi tập, lặp lại 50 lần. Mỗi ngày tập 2 lần vào buổi sáng và tối.
Khi tập động tác đá chân ra sau, có thể cảm thấy vùng lưng dưới hơi đau một chút. Nếu người bị đau nhiều hoặc muốn tăng hiệu quả nhanh, nên tập bất kỳ thời gian nào trong ngày, bất kỳ nơi nào bạn đứng và có thời gian rảnh. Đá chân khoảng 100 cái.
3. Bài tập bảo vệ các khớp
Thực hiện động tác đứng dựa vào tường hoặc một mặt phẳng, ngồi xuống đứng lên khoảng 30 lần. Có thể tập 2 lần vào sáng và tối.
4. Bài tập chữa đau đầu gối
Khi bị đau đầu gối, mỏi hoặc khó chịu, kể cả người đi lại nhiều, ngồi nhiều, muốn phòng chữa đau đầu gối có thể thực hiện động tác vỗ đầu gối bằng cách dùng 2 tay vỗ nhẹ vào phía trước đầu gối, phía 2 bên và phía sau. Mỗi một vị trí quanh đầu gối nên vỗ nhẹ khoảng 30 cái.
Việc vỗ đầu gối tưởng đơn giản nhưng nếu làm thường xuyên, sẽ giúp cho các kinh mạch và mạch máu được kích thích, giúp chúng hoạt động hiệu quả, máu lưu thông thuận lợi, giúp tăng cường và sản xuất dịch ở xương khớp.
Khi bạn ngồi trên xe ô tô hoặc ngồi xem ti vi cũng có thể xoa bóp vùng đùi, chân, đầu gối, việc này vô cùng hữu ích trong việc giúp sản sinh dịch cung cấp cho khớp và tuần hoàn máu nhanh hơn, giảm đau hiệu quả.
5. Bài tập chữa đau xương hông
Đứng thẳng người, dang hay tay ngang sang hai bên thẳng bằng vai. Đứng một chân làm trụ, nhấc chân còn lại đá sang hai bên. Mỗi lần tập tối thiểu kéo dài khoảng 1 phút, mỗi ngày nên tập từ 2-3 lần.
Ngoài ra, hàng ngày, bất kỳ khi nào bạn rảnh rỗi, đều nên vỗ vào vùng xương hông nhẹ nhàng. Mỗi lần vỗ khoảng 80 cái, đây là cách tốt nhất để giảm tình trạng đau mỏi.
Hầu hết các cơn đau trong cơ thể là do tình trạng bị nhiễm lạnh và ẩm ướt gây ra, từ đó lưu thông máu không tốt, và cơn đau sẽ được tạo ra theo thời gian. Cách tốt nhất để thực sự giải quyết cơn đau là:
- Ít ngồi hơn
- Chơi nhiều môn thể thao hơn.
Tóm lại, nghe nói đến bệnh xương khớp, sẽ không khiến bạn sợ hãi ngay lập tức, nhưng nếu mắc bệnh, rất khó điều trị, giảm chất lượng sống, ảnh hưởng sinh hoạt và công việc cũng như tuổi thọ. Vì vậy, hãy siêng năng chăm sóc cơ thể hàng ngày để phòng bệnh. Nếu có bệnh, càng phải chăm sóc tốt hơn.
Nếu thấy bài viết bổ ích, hãy chia sẻ cho bạn bè của bạn.
Chất độc thầm lặng (Nên đọc để mà tránh)
Những Chất Phụ Gia TrongThực Phẩm Đầu Độc Trong Thầm Lặng
Ông Huỳnh Chiếu Đẳng, (Ông HCĐ) cựu giáo sư bộ môn Lý-Hoá nhiều năm giảng dạy tại Việt Nam, nay đang định cư tại Mỹ. Ông là người thường xuyên nghiên cứu và có nhiều bài viết về đề tài an toàn vệ sinh thực phẩm. Dưới đây là phát biểu của ông.
Ông HCĐ: Chất phụ gia là những chất được người ta thêm vào trong thục phẩm với mục đích tạo ra màu sắc, hoặc tạo ra mùi thơm, hoặc bảo quản những thực phẩm chế biến sẵn cho lâu hư.
Từ lâu đời rồi người ta đã biết dùng các chất phụ gia như giấm để ngâm rau cải, củ kiệu, như muối ăn dùng muối thịt, cá, hoặc chất tạo ra màu là lá dứa để tạo ra mùi thơm và màu xanh, hay trái gấc tạo ra màu đỏ cho xôi gấc, hoặc hoa lài, hoa sen được dùng để ướp trà. Tất cả những chất đó có thể được coi như là chất phụ gia.
Nhưng lúc sau này người ta dùng những chất hoá học trong kỹ nghệ làm chất phụ gia cho thực phẩm. Bây giờ những chất hoá học lọt vào tay những người không chuyên môn quá nhiều. Thí dụ chuyện dùng phân ure để ướp cá cho tươi lâu là chuyện chắc chắn không nên làm.
TM : Có hai nguồn gốc, một là chất phụ gia từ thiên nhiên, hai là chất phụ gia từ các hoá chất, vậy chắc có lẽ không phải tất cả các loại phụ gia đều không an toàn, không có lợi cho sức khoẻ?
Ông HCĐ: Chất phụ gia cũng cần thiết. Nếu không có chất phụ gia thì mình gần như là không thể nào có kỹ nghệ đồ hộp hoặc là những thực phẩm chế biến sẵn. Hiện bây giờ ở tất cả mọi quốc gia chúng ta không thể nào tìm được một món thực phẩm chế sẵn mà không có chút xíu chất phụ gia trong đó.
Chất phụ gia tự bản thân nó nếu được dùng đúng thì là cần thiết. Nhưng hiện giờ trong các quốc gia kỹ nghệ thực phẩm mới vừa phát triển (Trung Quốc, Việt Nam chẳng hạn) người ta dùng những hoá chất rất là nguy hiểm.
Tác hại của chất Formol
TM : Những chất phụ gia nào được dùng một cách phổ biến, thông dụng, nhiều nhất, và nên đặc biệt cần chú ý, thưa ông
Ông HCĐ: Danh sách này thì gần như là vô tận. Nhưng bây giờ sự kiểm soát những chất phụ gia ở những quốc gia đã có kinh nghiệm, như tại Mỹ, Canada, nhà nước lập ra danh sách những hoá chất nào được dùng trong thực phẩm, những chất nào được dùng khá lâu rồi và người ta thấy chúng không gây ra bất cứ một hiệu quả nào hết, thì người ta đặt tên chúng là "những chất được biết là an toàn".
Thí dụ nhà nước Mỹ lập ra một danh sách rất là dài, trong đó chất nào được bỏ vào thực phẩm với phân lượng bao nhiêu, không được nhiều quá. Nhưng ở Việt Nam hiện bây giờ người ta dùng chất phụ gia mà tôi thấy rất là nguy hiểm. Thứ nhất phải kể tới là hàn the. Hàn the là borax. Chất này không phải là chất dùng để ăn được mà là chất dùng trong kỹ nghệ. Lâu nay người Việt Nam mình dùng hàn the trong bánh đúc, giò chả, hoặc trong hoa quả rau cải ngâm giấm với mục đích làm cho nó giòn. Hàn the nếu mình ăn ít thì nó có hại cho gan, cho thận và cho cơ quan sinh dục
Một chất khác cũng được người Việt Nam dùng rất phổ biến, đó là muối diêm. Muối diêm nói chung là tất cả những chất của nhóm nitric. Ở Hoa Kỳ người ta cấm hẳn, không được dùng muối diêm trong thực phẩm. Nhưng tại Việt Nam thì muối diêm được dùng rất là phổ thông để tạo ra màu đỏ của thịt heo. Người ta bỏ muối diêm vào trong lạp xưởng, nem.
TM : Và tác hại của muối diêm trước mắt và lâu dài ra sao, thưa ông?
Ông HCĐ : Muối diêm có tác hại nguy hiểm nhất mà người ta biết được là gây ra bệnh ung thư. Dĩ nhiên không phải thỉnh thoảng mình ăn một vài chiếc nem hay một đôi lạp xưởng mà bị. Điều quan trọng là chúng ta ăn lâu dài, chất này sẽ tích luỹ và tạo ra những bệnh về lâu về dài.
Hiện giờ người ta dùng formol để giữ cho thực phẩm không hư. Formol là khí formoldehyde tan trong nước. Formol được dùng trong phòng thí nghiệm để ngâm xác sinh vật, cũng như trong ngành y khoa là dùng formol để ướp xác người cho sinh viên thực tập. Chất đó nguy hiểm lắm. Theo tôi được biết, trong 20 mẩu bánh phở được đem đi phân chất ở thành phố Hồ Chí Minh thì có tới 16 mẩu có formol với hàm lượng khá cao.
TM : Chúng tôi còn nghe nói là ngay cả bây giờ bánh tráng được phát hiện cũng có formol.
Ông HCĐ : Vâng, đúng vậy. Đó là một điều tôi rất quan tâm.
TM : Họ dùng formol với công dụng gì, thưa ông?
Ông HCĐ : Formol được sử dụng để cho bánh tráng không bị meo mốc. Ngoài formol được dùng trong bánh tráng, người ta còn dùng chất tẩy trắng trong đó nữa. Bản thân bánh tráng không trắng, không trong đẹp. Nhưng không riêng gì bánh tráng, ngay cả bún tàu (miến) cũng rất trong vì có chất tẩy màu.
Người ta dùng chất tẩy màu trong kỹ nghệ để tẩy sạch màu sắc của những sản phẩm mà người thấy không đẹp. Nhưng tại Việt Nam mình người ta dùng chất đó trong thực phẩm, mà dùng một cách rất là liều lĩnh.
TM : Xin được hỏi ông kỹ một chút là khi người ta tiêu thụ phải những thức ăn có chứa formol thì gặp phải tai hại như thế nào?
Ông HCĐ : Formol gây ra bệnh ung thư. Điều đó người ta biết chắc. Theo Tiến sĩ Nguyễn Bá Đức ở Bệnh Viện Ung Bướu Trung Ương, mỗi năm tại Việt Nam có thêm 150.000 người măc bệnh ung thư, trong đó ước lượng có 50.000 người mắc bệnh vì ăn uống.
TM : Tức là một phần ba.
Ông HCĐ : Vâng, một phần ba. Trong đó người ta phải kể formol là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng ung thư tại Việt Nam.
Phân ure
TM : Ngoài formol, hàn the, chất tẩy trắng như ông vừa trình bày thì báo chí Việt Nam dạo gần đây cũng có lên tiếng về việc người ta cho phân ure vào nước mắm.
Ông HCĐ: Ngư dân đánh cá ngoài biển muốn cho cá trữ trên nghe nhiều ngày mà trông vẫn còn tươi, đem về nhà còn bán được, thì người ta ướp cá này bằng phân ure, tức là phân đạm. Khi chất này thấm vào cá thì nó giữ cho cá được cứng và tươi lâu. Khi về đất liền người ta bán cá đó lại cho các hãng làm nước mắm. Những hãng nước mắm này không đủ nước để rửa cá mà dù có rửa cho sạch đi nữa thì cùng không làm sạch hết ure vì nó đã thấm vào cá. Cho nên khi làm nước mắm thì vẫn còn hàm lượng ure trong nước mắm. Đó là một lý do.
Ngoài ra tôi được biết người ta dùng "pin" có chứa những chất chứa kim loại nặng như chì, thuỷ ngân, cadmium, thạch tín. Những chất này nằm trong cái người ta gọi là "pin" đó có mục đích là làm cho lá bánh chưng được xanh tươi, hoặc một số thực phẩm có màu xanh tươi.
Những chất này rất là nguy hiểm, nhất là chì. Chì là chất ảnh hưởng lên trí óc, nhất là trí óc trẻ con. Kế đó là thuỷ ngân. Cadmium cũng là chất độc và thạch tín là một chất rất là độc được dùng để đầu độc giết người từ xưa nay.
Vừa rồi ở nước Mỹ có hàng triệu đồ chơi trẻ con bị thu hồi, lý do là nước sơn bên ngoài có chứa chì. Sơn pha chì được dùng từ xưa, có tên là sơn bạch diêm. Thế giới cấm dùng từ năm bảy chục năm nay rồi, nhưng mà đồ chơi do Trung Hoa sản xuất thì lại vẫn còn sơn chì.
Thuỷ ngân cũng là một kim loại mà người ta e ngại lắm. Những người mẹ mang thai được khuyên là nên ăn ít cá biển càng tốt.
TM : Những cá biển càng to càng có nhiều thuỷ ngân phải không, thưa ông?
Ông HCĐ: Đúng vậy. Thuỷ ngân có trong thiên nhiên. Lý do cá chứa nhiều thuỷ ngân là do các nhà máy hoá học từ nhiều năm nay đã đổ ra biển, cho nên cá ven biển chứa nhiều thuỷ ngân hơn cá ngoài khơi.
Thường thường những hoá chất trên đây có hại cho các bộ phận bên trong cơ thể, nhất là óc (do kim loại nặng), kế đó là thận, rồi gan, và dĩ nhiên chúng làm thay đổi các tế bào trong cơ thể và đưa tới hậu quả sau cùng là bệnh ung thư.
TM : Tai hại như vậy, nhưng như ông vừa trình bày thì nếu dùng chất phụ gia đó lâu ngày với số lượng nhiều thì mới gây nguy hại đáng kể cho sức khoẻ, chứ còn lâu lâu mới dùng một lần thì không đáng ngại, vậy xin hỏi dùng bao nhiêu được xem là nhiều và thòi gian bao lâu gọi là lâu dài, thì mới đáng lo?
Ông HCĐ : Tình trạng thay đổi tuỳ theo chất. Thí dụ hàn the (borax) chúng ta dùng rất là lâu dài thì số lượng gây chết người là 15 gam dùng cho một lần. Tức là với số lượng 15 gam thì người lớn có thể chết. Với trẻ con là 3 gam. Nhưng không bao giờ chúng ta ăn nhiều như vậy vì hàn the không ngon chút nào hết.
Thứ hai nữa là khi bỏ vào bánh tráng thì người ta cũng chỉ cho một số lượng rất ít, cho nên khi ta ăn vào cơ thể thì nó tích luỹ dần và lâu dài và nó gây bệnh về lâu dài. Điều này rất là nguy hiểm, những chất nào ăn vào chết liền thì người ta sợ nên người ta tránh. Còn những chất mới ăn vào người ta không cảm thấy gì cả, rồi tới khi nó phát ra bệnh thì lúc đó đã trễ rồi.
TM : Đúng là kẻ giết người thầm lặng, phải không ông?
Ông HCĐ: Vâng. Thành thử những chất nào người ta biết được là chất độc thì ở các quốc gia Tây Phương ngưòi ta cấm hẳn, không được có chút xíu nào trong thực phẩm hết.
Thí dụ kẹo sản xuất từ bên Mexico không phải người ta bỏ chì vào trong đó, nhưng các máy móc sản xuất người ta hàn bằng chì. Những vết hàn bằng chì tan rất ít vào trong đường, trong kẹo. Đem qua Mỹ bán, chính phủ Mỹ phân chất thấy có chút xíu lượng chì trong đó và ra lệnh thu hồi liền.
Bột ngọt
Hoá ra bột ngọt (MSG) không có hại. Tuỳ theo người bị allergy hay không.
TM : Lâu nay vẫn có nhiều người bán tín bán nghi về tính lợi hại của bột ngọt. Nhiều người không dám dùng bột ngọt trong nêm nếm thức ăn vì nghe nói là độc hại cho sức khoẻ. Bột ngọt có tác hại thực sự ra sao? Có độc hay không, thưa ông?
Ông HCĐ : Huyền thoại về bột ngọt đã có từ lâu lắm, từ khoảng hai ba mươi năm nay. Chính nó là chất mà tôi theo dõi nhiều nhất, thành thử nếu nói về bột ngọt thì tôi rành nó lắm. Nó chỉ là một huyền thoại thôi.
Thực sự bột ngọt là một chất phụ gia gần như vô hại. Tôi nói là gần như vô hại nếu chúng ta không ăn với số lượng quá lớn. Bột ngọt là chất đã có tự nhiên ở trong thịt cá, dầu chúng ta có thêm vào hay không thêm vào thì nó vẫn có bột ngọt. Thí dụ như chúng ta lên men nước tương theo lối cổ truyền thì ở trong đó nó đã có bột ngọt rồi.
Bột ngọt là gì? Đó là acid glutamic mà cộng với sút, mà acid glutamic là một chất có trong thịt cá, có trong protein. Nó là một amino acid, tức là nó có trong tự nhiên.
Ở những nhà máy sản xuất bột ngọt người ta dùng phương pháp lên men khoai mì hoặc hiện bây giờ người ta còn lên men một vài thứ củ khác.
Các bà nội trợ có nhiều người tránh bột ngọt, nhưng thực sự chúng ta vào quán ăn chúng ta không thể nào mà không ăn bột ngọt hết. Tôi có một người quen làm trong tiệm phở. Người này cho biết một thùng nước lèo to của tiệm phở, người ta bỏ vào đó 2 bịch bột ngọt, hoặc có khi 3 bịch. Một bịch bột ngọt là nửa ký lô. Thành ra khi chúng ta vào một tiệm phở, ăn phở về, những người nhạy cảm một lúc sau họ thấy khô miệng, họ thấy đầu hơi choáng váng một chút, tê lưỡi. Có người bị ngứa ngoài da nữa. Những người đó được biết là những người dị ứng với bột ngọt.Theo thống kê, cứ 100 người thì có 1 người bị dị ứng. "Hội chứng quán ăn Tàu" .
TM : Chính những phản ứng tức thì làm cho người ta lo sợ?
Ông HCĐ: Đúng vậy. Và triệu chứng đó, người Mỹ gọi là "hội chứng quán ăn Tàu", tại vì trong tất cả quán ăn Á Đông nói chung thì người ta luôn luôn dùng bột ngọt bởi lý do cạnh tranh. Nếu không gia thêm bột ngọt (vào thức ăn) thì thực khách ăn không thấy ngon.
Nhưng có điều là những chủ quán ăn lẫn người đầu bếp không rõ là bột ngọt gây thêm hương vị, nó làm cho vị ngọt thịt cá tăng lên. Nhưng bỏ càng nhiều thì hương vị tăng lên không nhiều. Nó chỉ đên một giới hạn nào đó thôi, rồi nó không tăng lên nữa. Cho nên số lượng bột ngọt dùng trong nấu ăn không nên bỏ nhiều, chỉ đến một giới hạn nào đó rồi thôi. Ngoài giới hạn đó thì nó không có lợi ích gì hết.
Nếu mình nói vô hại hoàn toàn thì không đúng, nhưng nó là chất phụ gia an toàn và được biết là không gây bệnh về lâu về dài.
Tuy nhiên, chính phủ Mỹ có khuyên hẳn hoi là những bà mẹ đang mang thai và trẻ sơ sinh còn quá nhỏ thì không nên cho ăn những thực phẩm mà trong đó có bột ngọt.
Chính bản thân bột ngọt, tôi biết lúc xưa người Pháp dùng nó để làm thuốc bổ óc. Mà ngay như chúng tôi lúc còn đi học ở trung học thì vẫn mua những viên thuốc bổ óc để uống. Những viên này là acid glutamic. Và người Pháp còn chế dưới dạng nước, dạng ống, đó là acid glutamic dưới dạng nước mà người ta gọi tên là glutaminol. Nếu nó là chất gây bệnh hay là chất có hại về lâu về dài thì người Pháp họ đã biết và họ không dùng như vậy đâu.
TM : Có những tin đồn rằng bột ngọt được chế biến bằng khoai mì công nghiệp có nhựa độc thành ra người ta sợ bột ngọt không bảo đảm chất lượng.
Ông HCĐ: Thưa cô, khoai mì nó độc. Nó độc không phải là ăn khoai mì độc hay gì đâu. Khoai mì, nhất là lá khoai mì, bông khoai mì có chứa một loại acid gọi là acid cyanhydric. Đó là loại acid mà ngày xưa Đức Quốc Xã dùng để giết người Do Thái. Hiện bây giờ vẫn còn những nơi người ta dùng chất đó để xử những tội nhân bị tử hình.
Trong khoai mì có một hàm lượng nhỏ acid cyanhydric, cũng giống như là trong măng tre. Măng tre cũng có một hàm lượng nhỏ acid cyanhydric.
Nếu khoai mì được luộc ít nước hoặc chúng ta ăn đọt khoai mì thì có khi bị ngộ độc vì chất acid đó. Nhưng nếu khoai mì được luộc nhiều nước hoặc chúng ta lấy bột khoai mì để cho lên men thành bột ngọt thì không còn có dính dáng gì tới acid cyanhydric.
Bột ngọt là chính do những con men sinh sống bằng khoai mì tạo ra, chứ không phải ngay từ bản thân khoai mì.
Nếu người ta luộc đọt khoai mì để ăn thì có thể bị ngộ độc. Hoặc là măng tre mà không được luộc hai ba nước và cứ để như vậy mà ăn thì cũng có thể bị ngộ độc.
Món mắm các loại
TM : Xin được hỏi thêm là một món ăn cổ truyền rất phổ biến tại Viẹt Nam, rất quen thuộc với mọi người, đó là mắm các loại. Đối với nhiều người Việt Nam, thưỏng thức các loại mắm cũng không khác gì các món sơn hào hải vị. Nhưng bây giờ người ta nghi ngờ trong các loại mắm cũng có chứa những chất phụ gia độc hại. Thưa, có phải như vậy không?
Ông HCĐ : Cảm ơn cô đã hỏi câu này. Vâng, tôi xin nói một chút xíu về mắm. Mắm theo ông bà chúng ta làm ngày xưa đó thì tự bản thân nó cũng là chất rất là độc. Thậm chí đến nỗi cơ quan USDA của Hoa Kỳ khuyên người dân khi đi du lịch ở Trung Hoa hay ở các nước Á Châu thì đừng ăn những chất protein ngâm muối. Tức là chính phủ Mỹ có ý muốn nói rằng đừng ăn thịt muối hay là cá muối, là mắm, là khô, là những loại rau cải được ngâm muối.
Nếu tôi nhớ không lầm thì chính phủ Trung Hoa cũng đã khuyến cáo dân chúng là đừng ăn quá nhiều rau cải ngâm muối. Rau cải được ướp muối, được ngâm chua, được ngâm muối là món ăn truyền thống của người Trung Hoa. Và chính phủ Trung Hoa biết rằng nó gây ra bệnh ung thư.
Tôi trở lại với món mắm. Mắm tự bản thân nó là protein được ngâm muối, trong đó có nhiều chất độc được coi như chất tạo ra bệnh ung thư về lâu về dài. Thứ hai, lượng muối quá nhiều. Theo các nhà chuyên môn, hiện giờ mỗi ngày một người lớn chỉ được ăn chừng 1 tới 5 gam muối mà thôi. Đó là một số lượng rất ít, so với số lượng mà người Việt Nam tiêu thụ hiện giờ.
Ngay người Âu Châu, người Pháp làm thống kê, ngưòi ta thấy số lượng muối ăn vào đã gấp 5-6 lần số lượng 1-5 gam. Và người ta biết rằng khi ăn muối nhiều như vậy thì bệnh sẽ xảy ra về tim mạch.
Thành thử nếu chúng ta ăn mắm, ăn nước mắm quá nhiều thì đã là không tốt rồi. Nhưng hiện bây giờ người ta bỏ thêm vào mắm nhiều chất phụ gia khác nữa, mà các chất phụ gia đó thì chúng ta không kiểm soát được. Nó do sáng kiến từ nơi sản xuất: người ta muốn làm thế nào thì làm miễn là trông tươi, trông ngon, trông đẹp thì người ta ăn.
Tôi được biết khô cá, như khô cá thiều, theo một phóng sự mà tôi đọc được từ báo trong nước, thì người ta dùng một loại cá biển không ngon đem về xay ra, xong rồi trộn chất phụ gia nào đó rất là nhiều. Xong người ta ép lại cho giống như miếng khô cá thiều rồi đem phơi nắng. Theo phóng viên tờ báo, khi đem phơi như vậy chính ruồi nhặng cũng không dám bám vào miếng khô đó nữa. Điều đó cho chúng ta thấy là đáng ngại lắm.
Tôi được biết tôm khô được người ta xịt thuốc trừ kiến vào trong đó để không bị kiến và bị mốc, màu được tươi. Tôi không biết thuốc trừ kiến đó là chất gì, mà con kiến đã sợ chất đó thì dĩ nhiên là con người cũng phải sợ.
Khô mực và các loại cá khô
TM : Thế còn khô mực, cá loại cá khô khác có nên quan ngại không, thưa ông?
Ông HCĐ : Khô mực tới bây giờ tôi không được biết người ta đã bỏ chất gì vào trong đó, nhưng chính con khô mực có thành phần cholesterol rất cao. Khô mực là một trong những thực phẩm có cholesterol cao nhất. Kế đó là óc heo, óc bò.
TM : Mặc dù là không có chất phụ gia thực phẩm?
Ông HCĐ : Mặc dù không có, nhưng khô mực ăn nhiều không tốt đâu, tại vì cholesterol trong đó cao lắm. Nó cao hơn cả tròng đỏ trứng gà nữa.
TM : Dạ. Cholesterol ngày nay cũng là một cái đáng sợ.
Ông HCĐ : Đó là một cái mà người ta khuyến khích không nên đem vào cơ thể nhiều. Số lượng mà cơ quan USDA của Mỹ khuyên người dân là một người lớn trung bình mỗi ngày chỉ nên đem vào cơ thể chừng 300 miligam trở lại. Một trong đỏ hột gà chứa từ 250 tới 300 milgam. Còn nếu trứng vịt thì hàm lượng cholesterol còn cao hơn nhiều.
Parkinson là bệnh thoái hóa dần dần của hệ thần kinh trung ương, thường thấy ở lớp người ngoài 50 tuổi, rất ít khi thấy ở tuổi trẻ. Nam giới bị bệnh nhiều hơn nữ giới một ít. Bệnh vừa mãn tính vừa tăng lên đều đều. Mãn tính vì bệnh kéo dài một thời gian lâu. Tăng đều đều có nghĩa là bệnh trở nên trầm trọng với thời gian. Diễn tiến và các triệu chứng của bệnh thay đổi tùy cá nhân.
Nguyên nhân
Parkinson vẫn còn là một bệnh mà nguyên nhân chưa được biết rõ.
Một số yếu tố được coi như có liên hệ với bệnh liệt trung là tác dụng phụ của vài loại thuốc trị bệnh tâm thần (phenothiazine, thioxanthene, reserpine…), viêm nhiễm virus não, ngộ độc khí carbon monoxide, khoáng manganese, một loại thuốc gây nghiện tổng hợp từ chất gây mê (narcotic), thiểu tuần hoàn não, tuổi cao, di truyền…
Ðiều mà y khoa học biết rõ về bệnh Parkinson là: não bộ người bệnh không sản xuất được chất dopamine.
Dopamine là một trong nhiều chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter), chuyển tín hiệu điện năng giữa các tế bào thần kinh, tới các cơ quan để tạo ra hành động. Các công việc như học hỏi, suy nghĩ, cất bước đi, giơ tay cầm đồ vật… đều do não bộ điều khiển và chất dẫn truyền thần kinh chuyển mệnh lệnh tới các bộ phận liên hệ để hành động.
Dopamine do một nhóm tế bào não gọi là substantia nigra sản xuất.
Trong bệnh Parkinson, tế bào của vùng xám đen này bị hủy hoại và không sản xuất ra dopamine. Các tín hiệu xuất phát từ não bảo cơ thể khi nào cử động, cử động ra sao… bị gián đoạn, khiến cho người bệnh không khởi sự và kiểm soát được các cử động, dáng điệu… của mình một cách bình thường.
Nhưng nguyên do gây ra sự hủy hoại các tế bào của substantia nigra vẫn chưa được biết rõ.
Bs. NYĐ
Nhân sâm nguyên thủy mọc hoang trên rừng núi, ở những nơi có khí hậu lạnh như Trung Hoa, Nhật Bản, Ðại Hàn, Việt Nam, miền đông nước Nga, Bắc Mỹ, đặc biệt là tiểu bang Wisconsin và Gia Nã Ðại.
Người Trung Hoa là dân tộc đầu tiên biết sử dụng sâm để trị các bệnh của tuổi già và họ giữ kín điều này. Cho tới thế kỷ thứ 18, công dụng của sâm mới được các quốc gia Âu Mỹ biết tới.
Theo American Botanical Council thì có ba loại sâm chính: Sâm Á châu, sâm Mỹ châu và sâm Siberian.
Sâm Á Châu:
Thường được gọi là Nhân sâm, tên thực vật học là Panax ginseng C.A.Meyer. C.A. Meyer là nhà thảo mộc học đầu tiên đã nghiên cứu sâm này vào năm 1842. Panax gốc Hy Lạp có nghĩa là tất cả, và alkos là chữa lành, tức là trị nhiều bệnh. Còn ginseng theo nghĩa tượng hình Trung Hoa là “tinh túy của đất trong hình dạng người”.Ðây là loại sâm nổi tiếng của Trung Hoa ở miền Mãn Châu, của Ðại Hàn và đã được coi là đứng đầu các vị thuốc bổ (sâm, nhung, quế, phụ). Theo Ðông y, sâm để tu bổ ngũ tạng, làm dịu cảm xúc, bớt náo động, loại trừ chất độc trong cơ thể, làm thị giác tinh tường, tăng trí nhớ và tinh thần minh mẫn và nếu dùng liên tục thì sẽ sống lâu. Y học Á châu đã dùng nhân sâm từ nhiều ngàn năm.
Sâm Mỹ châu:
Sâm Mỹ Châu, tên khoa học là Panax quinquefolius, được tu sĩ Joseph Francois Lafitau khám phá ra cách đây gần ba trăm năm, ở vùng Montreal, Gia Nã Ðại. Vị tu sĩ này đã khai thác, xuất cảng rất nhiều sâm sang Trung Hoa từ thế kỷ thứ 18.
Sâm mọc hoang ở miền Ðông Bắc Mỹ châu, từ Quebec, Ontario xuống Wisconsin, Minnesota, Florida, Alabama, Oklahoma.
Không như sâm Á châu bị khai thác gần hết, sâm Mỹ châu hiện vẫn còn nhiều và được các quốc gia Hoa Kỳ, Gia Nã Ðại coi là cây hiếm quý cần được bảo vệ.
Sâm Siberian:
Mọc chủ yếu ở vùng Siberi, nước Nga.
Chọn mua sâm
Hồng sâm và Bạch sâm là hai loại rất phổ biến và được nhiều người ưa thích. Hồng sâm củ to mập, dáng đẹp. Bạch sâm nhỏ hơn, màu trắng và khô.
Theo nhiều chuyên gia, sự khác biệt giữa ba loại sâm này như sau:
Sâm Á châu: Có tính kích thích, làm nóng cơ thể, tăng cường sức khỏe. Sâm được dùng với người lớn tuổi, người suy yếu tổng quát, người cần dùng nhiều sức lao động bền bỉ.
Sâm Mỹ châu: Có hàn tính, êm dịu, thích hợp cho người năng động, nhưng cũng giúp cơ thể tăng cường sự dẻo dai, sức chịu đựng.
Sâm Siberian: thì dung hòa giữa hai loại trên và có cùng đặc tính tăng cường sức khỏe.
Áp dụng thực tế
Sâm đã được dùng ở nhiều quốc gia Á châu từ mấy ngàn năm và đang được y học hiện đại nghiên cứu, sử dụng. Cũng như các dược thảo khác, tác dụng của sâm nhẹ nhàng, thấm từ từ nhưng kéo dài chứ không mau và mạnh như Âu dược.
Theo Ðông y, Sâm không phải là thuốc chữa lành bệnh, mà được coi là chất bồi bổ sức khỏe, duy trì sinh lực. Sâm rất công hiệu khi cơ thể suy nhược; căng thẳng thể xác và tâm hồn, phục hồi sinh lực sau khi bị trọng bệnh.
Việc dùng sâm thay đổi tùy theo điều kiện cấu tạo cơ thể và tình trạng sức khỏe của mỗi cá nhân. Người trên 45 tuổi nên dùng sâm Á châu vì sâm có tính kích thích mạnh; dưới 45 tuổi có thể dùng hai loại sâm ôn hòa kia.
Người cần sức lao động cao thì sâm Á châu giúp bền bỉ, sung sức hơn.
Nữ giới thích hợp với sâm Mỹ châu. Nam giới nên dùng sâm Á châu.
Cũng như với các dược thảo khác, nên bắt đầu dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần để theo dõi sức chịu đựng của mình cũng như lượng định công hiệu và tác dụng không tốt của sâm.
Trước khi dùng sâm, nên tham khảo ý kiến các vị Ðông Y Dược sĩ.
Nếu đang dùng sâm thì nên cho bác sĩ gia đình biết để tránh tương tác giữa sâm và các loại thuốc điều trị khác.
NYD
TẢN MẠN VỀ SỨC KHOẺ
Mọi người thường nói: mình sẽ không biết quý trọng cái gì đó cho đến khi nó bị mất.
Có rất nhiều thứ từ vật chất đến tinh thần đúng với nhận định đó, trong đó có một phạm trù rất quan trọng: SỨC KHỎE.
Không phải vì mình là bác sĩ nên đề cao vấn đề sức khỏe mà vì mình đã từng trải nghiệm về nó trong nhiều vai trò khác nhau.
1. Khi là sinh viên Y khoa:
Khi là sinh viên, hàng ngày mình tiếp xúc với bệnh nhân thường xuyên hơn bác sĩ vì phải khai thác càng nhiều thông tin của bệnh nhân càng tốt – không đơn thuần chỉ là các triệu chứng về bệnh tật mà còn về công việc, hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, môi trường làm việc … để có thể chẩn đoán bệnh được chính xác, để có một bộ hồ sơ bệnh án đầy đủ nhất phục vụ cho công việc học tập.
Suốt 4-5 năm dài như thế, mình nhận thấy có rất nhiều người đã bỏ lỡ khoảng thời gian vàng để điều trị bệnh. Do thiếu kiến thức cũng có, do phải vất vả mưu sinh không có thời gian cho chính bản thân mình cũng có, do điều kiện kinh tế hạn hẹp cũng có và do chủ quan cũng có … để rồi khi nghe bác sĩ thông báo thì đã quá muộn. Một sự hối hận muộn màng!
Kinh nghiệm rút ra: Cần phải biết LẮNG NGHE CƠ THỂ và QUAN TÂM ĐẾN SỨC KHỎE ĐÚNG LÚC NHẤT.
2. Khi là Bác sĩ:
Trực tiếp tham gia khám bệnh, điều trị, phẫu thuật mình mới nhận ra: “Ông trời” đôi khi cũng đánh đố con người! Có những bệnh không hề lên tiếng nên không thể lắng nghe, có những bệnh xuất hiện đột ngột không kịp lắng nghe, có đôi khi cơ thể phát tín hiệu giả nên bị nghe nhầm và cũng có khi lắng nghe quá kỹ rồi lầm tưởng vấn đề trầm trọng nên bị stress - nhất là hiện nay khi có thêm sự xuất hiện của bác sĩ Google.
Kinh nghiệm rút ra: nên duy trì KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ, quản lý tốt HỒ SƠ SỨC KHỎE của chính mình và đừng chần chừ, hãy đến GẶP BÁC SĨ ngay khi cảm thấy sức khỏe có vấn đề.
3. Khi đưa người nhà đi khám bệnh:
Người thân của bác sĩ cũng mắc bệnh và nếu bệnh thuộc lĩnh vực chuyên khoa khác, bác sĩ cũng phải đưa người nhà đến bệnh viện.
Thời gian chờ đợi người nhà đi khám và làm cận lâm sàng là thời gian bác sĩ quan sát, ngầm so sánh dịch vụ ở đó với nơi mình làm việc. Nó có thể tốt hơn, có thể tệ hơn nhưng nói chung là: mệt mỏi!
Kết luận: dù là trải nghiệm tốt hay xấu, tốt nhất là CẢ NHÀ CÙNG KHỎE MẠNH để đừng có dịp trải nghiệm tại bệnh viện.
4. Khi là người nuôi bệnh:
Người nhà bệnh nặng nằm trong ICU, tôi cũng trải chiếu nằm lăn lóc ở hành lang. Hàng ngày, chờ đợi gọi tên đi đóng thêm tiền tạm ứng, gọi tên đưa thêm khăn tả, chờ đợi đến giờ các cô điều dưỡng kéo rèm để được nhìn người nhà qua tấm vách kính vài phút. Trong phòng ICU, những bệnh nhân còn tỉnh cũng mong đến giờ kéo rèm để dáo dác nhìn qua vách kính tìm gương mặt người thân như những người bên ngoài. Cảnh tượng đau lòng làm sao!
Sau này người nhà tôi kể lại: Lúc đó ước ao chỉ cần được là một trong số những người bình thường đứng ngoài kia, bất kể sống ở đâu, bất kể làm nghề gì, giàu cũng được, nghèo cũng không sao, chỉ cần được khỏe mạnh.
Thế mới thấy SỨC KHỎE LÀ TÀI SẢN LỚN NHẤT của mỗi người. HÃY GIỮ GÌN CẨN TRỌNG, không được để mất, chủ động làm cho nó ngày càng dồi dào nếu được; Hoặc chí ít - không để nó bị hao hụt, bào mòn do sử dụng lãng phí hoặc không đúng cách – nhất là khi ta còn trẻ.
5. Khi chính mình là bệnh nhân:
Tôi cũng từng vài lần nằm bệnh viện. Tuy may mắn chỉ là những bệnh thông thường nhưng người nhà cũng phải nghỉ việc vào chăm sóc.
Những lần bệnh nhẹ nằm tại nhà cũng làm mọi người lo lắng, họ đi làm cũng không yên tâm.
Do đó, cần phải KHỎE ĐỂ KHÔNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGƯỜI THÂN, chưa kể nếu bạn là trụ cột - sẽ ảnh hưởng đến kinh tế gia đình.
Lời kết: Mong ước cho mình, cho gia đình mình và mọi người luôn được KHỎE MẠNH, BÌNH AN vượt qua mùa đại dịch.
MỖI LOẠI NẤM CÓ NHỮNG CÔNG DỤNG KHÁC NHAU.
GHI NHỚ ĐỂ "DƯỠNG SINH" CHO CẢ NHÀ
Trên thị trường có rất nhiều loại nấm như nấm hương, nấm bào ngư, nấm hầu thủ, nấm kim châm… Vậy mỗi loại nấm có công dụng như thế nào? Chuyên gia dinh dưỡng sẽ chỉ cho bạn 5 loại nấm tốt cho sức khỏe dưới đây nhé!
1. Nấm hương: Vua của các loại nấm, giúp hấp thụ canxi rất tốt
Nấm hương được mệnh danh là “thần dược” ngon miệng. Nấm hương giàu dinh dưỡng, có thể cải thiện khả năng miễn dịch của bệnh nhân mắc bệnh tim, giảm cholesterol có hại, ngăn ngừa xơ vữa động mạch, do đó có tác dụng bảo vệ hệ thống tim mạch.
Cơ thể con người cần 8 loại axit amin cần thiết thì trong nấm hương chiếm tới 7 loại. Ngoài ra, vitamin D trong nấm hương cao hơn đáng kể so với các loại nấm khác và hàm lượng của nó cao gấp 20 lần so với đậu nành. Ăn nấm hương giúp cơ thể hấp thụ canxi rất tốt và ngăn ngừa loãng xương.
Lưu ý: Khi ngâm nấm hương, các vitamin nhóm B và polysacarit rất dễ tan trong nước. Nhiều người không biết điều này, sau khi ngâm nấm hương thường đổ nước đi, làm lãng phí nhiều chất dinh dưỡng. Cách tốt nhất là dùng nước lạnh để rửa sạch bề mặt của nấm hương khô, sau đó cho nấm vào nước ấm 20-35 độ để ngâm, nước ngâm nấm không phải đổ đi, có thể dùng để nấu.
2. Nấm bào ngư: “Thuốc giảm đau” thực vật
Nấm bào ngư có màu trắng trông như vỏ sò, loại nấm này chứa các chất dinh dưỡng đa dạng, thường xuyên ăn rất có lợi đối với sức khỏe. Nó có thể cải thiện sự trao đổi chất của cơ thể, tăng cường khả năng miễn dịch, điều hòa các triệu chứng ở thời kỳ mãn kinh của phụ nữ. Nấm bào ngư có chứa proteoglycan có thể ức chế khối u, cũng có tác dụng nhất định trong việc giảm cholesterol trong máu và ngăn ngừa sỏi niệu đạo.
Ngoài ra, theo quan điểm của y học Trung Quốc, nấm bào ngư còn có tác dụng phòng ngừa cảm lạnh, thư giãn kinh mạch. Đối với người già và người trung niên, nấm bào ngư có tác dụng điều trị chứng đau thắt lưng, tê chân tay.
Lưu ý: Khi chế biến nấm bào ngư không cắt bằng dao, dùng tay xé trực tiếp.
3. Nấm hầu thủ: Thực phẩm nuôi dưỡng dạ dày rất tốt
Nấm hầu thủ có thể bảo vệ niêm mạc dạ dày bằng cách làm giảm axit dạ dày, rất tốt cho người bị loét dạ dày, viêm dạ dày mãn tính, tăng axit dạ dày… Ngoài ra, ăn nấm hầu thủ còn có tác dụng trì hoãn lão hóa và tăng cường khả năng miễn dịch.
Nghiên cứu y học hiện đại đã chỉ ra rằng nấm hầu thủ có tác dụng ức chế tốt đối với Helicobacter pylori (HP), thủ phạm gây ra bệnh dạ dày. Cách tốt nhất để ăn nấm hầu thủ là nấu canh. Ví dụ như nấu canh nấm gà, canh nấm sườn heo.
4. Nấm đùi gà: Giúp hạ đường huyết
Nấm đùi gà có chất thịt giòn, hương vị thơm, rất giàu chất xơ, carbohydrate, protein, vitamin, khoáng chất và hơn một chục loại axit amin. Nấm đùi gà không chỉ làm giảm lượng đường trong máu sau bữa ăn, bảo vệ các mạch máu, mà còn có tác dụng chống ung thư, giữ ẩm và làm đẹp.
5. Nấm kim châm: Tăng cường trí thông minh
Các axit amin thiết yếu có trong nấm kim châm cao hơn các loại nấm thông thường, đặc biệt là lysine và arginine có hàm lượng rất cao, có lợi cho sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngoài ra, nấm kim châm còn có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm và chống mệt mỏi. Những người khí huyết không đủ, suy dinh dưỡng, những người bị bệnh gan, loét đường tiêu hóa và các bệnh về tim mạch nên bổ sung nấm kim châm vào chế độ ăn.
6 loại thảo mộc và chất bổ túc chống lại bệnh trầm cảm
.
Trầm cảm là một chứng rối loạn tâm trạng ảnh hưởng đến hơn 17 triệu người trưởng thành chỉ riêng ở Mỹ.Tuy nhiên, con số thực tế được cho là cao hơn nhiều, do nhiều người bị trầm cảm không tìm cách điều trị vì nhiều lý do khác nhau. Rối loạn trầm cảm được điều trị bằng thuốc, liệu pháp tâm lý, thay đổi lối sống, bao gồm cả việc ăn uống.
Các nghiên cứu cho thấy rằng vitamin, khoáng chất, thảo mộc và một số hợp chất đặc biệt hiệu quả trong việc cải thiện triệu chứng trầm
cảm, theo trang mạng Healthline.
1. Acid béo Omega-3.
Một số nghiên cứu cho thấy bổ túc omega-3 có thể giúp điều trị chứng trầm cảm. Trong một bảng phân tích năm 2020 về các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên của 638 phụ nữ cho thấy rằng các chất bổ túc acid béo omega-3 cải thiện đáng kể các triệu chứng trầm cảm ở phụ nữ mang thai và sau khi sinh.
2. NAC (N-acetylcysteine)
NAC là tiền thân của các acid amin L-cysteine và glutathione, được coi là một trong những chất chống oxy hóa quan trọng nhất trong cơ thể. Bên cạnh đó, L-cysteine và glutathione còn điều chỉnh tình trạng viêm và bảo vệ tế bào chống lại tác hại của quá trình oxy hóa.Uống NAC đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích cho sức khỏe, bao gồm tăng mức độ glutathione trong cơ thể. Hơn nữa, NAC cải thiện chứng rối loạn điều hòa dẫn truyền thần kinh ở những người bị rối loạn tâm thần.
3. Vitamin D
Vitamin D là một chất dinh dưỡng quan trọng đóng nhiều vai trò thiết yếu trong cơ thể. Thật không may, nhiều người không có đủ lượng vitamin D, bao gồm cả những người bị trầm cảm.
Nghiên cứu cho thấy rằng những người bị trầm cảm có nhiều khả năng bị thấp hoặc thiếu vitamin D. Vitamin D có thể chống lại chứng trầm cảm thông qua một số cơ chế, bao gồm giảm viêm, điều chỉnh tâm trạng và bảo vệ chống lại rối loạn chức năng nhận thức thần kinh.
Một đánh giá năm 2019 về bốn thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy bổ túc vitamin D dẫn đến lợi ích lâm sàng ở những người bị trầm cảm nặng.
4. Saffron
Nghệ tây là một loại gia vị chứa các hợp chất chống oxy hóa, bao gồm cả carotenoid crocin và crocetin.
Các nhà khoa học từng làm năm thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy rằng việc bổ túc nghệ tây làm giảm đáng kể các triệu chứng trầm cảm ở người lớn mắc chứng MDD so với phương pháp điều trị khác.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng cần phải có những thí nghiệm sâu hơn với thời gian theo dõi dài hơn để đánh giá tốt hơn khả năng của nghệ tây trong việc giúp điều trị chứng trầm cảm.
5. Rhodiola (Rhodiola rosea)
Rhodiola là một loại thảo mộc có liên quan đến nhiều lợi ích sức khỏe tiềm năng khi được dùng ở dạng bổ túc. Chúng bao gồm giảm các triệu chứng trầm cảm và cải thiện phản ứng với căng thẳng, giúp cơ thể bạn thích nghi với các tình huống căng thẳng.
Loại thảo mộc này phát huy tác dụng chống trầm cảm thông qua khả năng tăng cường giao tiếp tế bào thần kinh và giảm hoạt động quá mức của trục dưới tuyến yên-vỏ thượng thận (HPA). Trục HPA là một hệ thống phức tạp điều chỉnh phản ứng căng thẳng của cơ thể con người. Khi trục HPA hoạt động quá mức, nó sẽ dẫn đến bệnh trầm cảm.
Khi cơ thể nạp chất bổ túc bao gồm rhodiola và nghệ tây có thể làm giảm đáng kể các triệu chứng trầm cảm và lo lắng ở người lớn bị trầm cảm nhẹ đến trung bình sau sáu tuần.
6. Vitamin nhóm B
Vitamin B đóng vai trò quan trọng trong chức năng thần kinh và điều hòa cảm xúc. Các vitamin B, bao gồm folate, B12 và B6, cần thiết cho việc sản xuất và điều chỉnh chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, acid gamma-aminobutyric (GABA) và dopamine.
Khi thiếu hụt vitamin B12 và folate có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm, và việc bổ túc những chất dinh dưỡng này có thể giúp giảm các triệu chứng trầm cảm ở một số nhóm dân số nhất định.
Ví dụ, bổ túc folate có thể làm giảm các triệu chứng của bệnh trầm cảm kháng điều trị ở trẻ em và người lớn bị đột biến gene ảnh hưởng đến chuyển hóa folate.
Vitamin B6 cũng được tìm thấy cải thiện các triệu chứng trầm cảm khi được sử dụng kết hợp với các chất dinh dưỡng khác, bao gồm tryptophan và một dạng vitamin B3 được gọi là nicotinamide.
Uống nước nhiều có tốt không?
Hạ natri máu: Bạn có biết uống quá nhiều nước có thể gây tử vong khi mức điện giải giảm xuống?
Chúng ta vẫn thường được khuyến cáo là uống thật nhiều nước. Tuy nhiên, trong trường hợp hạ natri máu, uống nhiều nước có thể rửa trôi hết các chất điện giải trong cơ thể và dẫn đến suy tim.
Các chất điện giải trong cơ thể chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của tim, thận, gan và não. Khi tiêu thụ quá nhiều nước, nó sẽ rửa trôi muối trong tế bào và máu và nếu không được khắc phục sớm có thể gây tử vong. Điều quan trọng là phải biết về hạ natri máu, ngộ độc nước và cân bằng điện giải đúng cách.
Đã từng có một trường hợp tử vong trong cuộc thi uống nước do một đài phát thanh ở Mỹ tổ chức vào năm 2007. Nạn nhân là một người phụ nữ, tên Jennifer Strange. Đài phát thanh đã bị phạt 16,5 triệu đô la tiền bồi thường phải trả cho chồng của người phụ nữ.
Strange bị hạ natri máu, hoặc nhiễm độc nước cấp tính. Cô đã uống nước gần ba giờ đồng hồ mà không đi tiểu trong cuộc thi và chết vì ngộ độc nước.
Nhiễm độc nước có thật không? Và hạ natri máu là gì?
Trường hợp đó thực sự thức tỉnh mọi người nhận ra rằng có một thứ gì đó như ngộ độc nước và hạ natri máu. Hạ natri máu là một tình trạng xảy ra khi nồng độ natri trong máu của bạn thấp bất thường. Natri là một chất điện giải và nó giúp điều chỉnh lượng nước trong và xung quanh tế bào của bạn.
Trong hạ natri máu, một hoặc nhiều yếu tố, từ tình trạng bệnh lý tiềm ẩn đến uống quá nhiều nước, khiến natri trong cơ thể bạn bị loãng. Khi điều này xảy ra, mức nước trong cơ thể bạn tăng lên và các tế bào của bạn bắt đầu sưng lên. Vết sưng này có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe, từ nhẹ đến nguy hiểm đến tính mạng.
Hạ natri máu và kết nối natri thấp:
Natri đóng một vai trò quan trọng trong cơ thể bạn. Nó giúp duy trì huyết áp bình thường, hỗ trợ công việc của các dây thần kinh và cơ bắp của bạn, đồng thời điều chỉnh sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể bạn. Mức natri trong máu bình thường là từ 135-145 mili đương lượng mỗi lít (mEq/L). Hạ natri máu xảy ra khi natri trong máu của bạn giảm xuống dưới 135 mEq/L.
Điều gì có thể gây ra Hạ natri máu hoặc natri trong máu thấp một cách nguy hiểm:
– Một số loại thuốc: Thuốc lợi tiểu, thuốc chống trầm cảm và thuốc giảm đau, v.v. có thể can thiệp vào quá trình nội tiết tố và thận bình thường, quá trình mà giữ cho nồng độ natri trong phạm vi bình thường khỏe mạnh.
– Các vấn đề về tim, thận và gan: Suy tim sung huyết và một số bệnh ảnh hưởng đến thận hoặc gan có thể khiến chất lỏng tích tụ trong cơ thể, làm loãng natri trong cơ thể, làm giảm mức tổng thể.
– Hội chứng tiết hormone chống bài niệu không thích hợp (SIADH): Trong tình trạng này, lượng hormone chống lợi tiểu (ADH) được sản xuất cao, khiến cơ thể bạn giữ nước thay vì bài tiết bình thường qua nước tiểu.
– Nôn mửa hoặc tiêu chảy mãn tính và các nguyên nhân khác gây mất nước: Điều này khiến cơ thể bạn bị mất chất điện giải, chẳng hạn như natri và làm tăng nồng độ hormone chống lợi tiểu.
– Uống quá nhiều nước: Điều này xảy ra khi một người chạy bộ nhanh hoặc tập thể dục cường độ cao dẫn đến mất nhiều natri qua mồ hôi. Đồng thời, uống quá nhiều nước khi tập thể dục cũng có thể làm loãng hàm lượng natri trong máu của bạn vì uống quá nhiều nước có thể gây ra tình trạng natri thấp bằng cách lấn át khả năng bài tiết nước của thận.
– Thay đổi nội tiết tố: Suy tuyến thượng thận (bệnh Addison) ảnh hưởng đến khả năng sản xuất hormone của tuyến thượng thận giúp duy trì cân bằng natri, kali và nước trong cơ thể. Mức độ thấp của hormone tuyến giáp cũng có thể gây ra mức natri trong máu thấp.
– Tuổi tác: Ở tuổi già, một số loại thuốc, thay đổi cơ thể, v.v. cũng như mắc bệnh mãn tính có thể làm thay đổi sự cân bằng natri của cơ thể.
– Các tình trạng làm giảm bài tiết nước của cơ thể: Những người bị bệnh thận, suy tim,… cần cảnh giác về tình trạng hạ natri máu.
Uống bao nhiêu nước mỗi ngày để an toàn?
Viện Hàn lâm Khoa học, Kỹ thuật và Y học Quốc gia Hoa Kỳ đã xác định rằng lượng chất lỏng nên hấp thụ hàng ngày là:
– Khoảng 3,7 lít chất lỏng mỗi ngày đối với nam giới
– Khoảng 2,7 lít chất lỏng mỗi ngày cho phụ nữ
Những khuyến nghị này bao gồm chất lỏng từ nước, đồ uống khác và thực phẩm. Khoảng 20% lượng chất lỏng hàng ngày thường đến từ thức ăn và phần còn lại từ đồ uống. Về cơ bản, hãy lắng nghe cơ thể của bạn. Uống khi bạn cảm thấy khát, dừng lại khi cơ thể cho bạn biết rằng bạn đã uống đủ
Phong Vũ (Theo Người đưa tin)
Về phương diện sinh vật học, lão hóa là đặc điểm của các sinh vật “cao cấp”, trong đó có loài người.
Những sinh vật nguyên sinh ở cấp thấp như vi khuẩn (bacteria), loại chỉ có một tế bào như protozoa đều không già! Những sinh vật này sinh sôi nảy nở mà không cần phải có sự phối hợp của giống cái và giống đực, và đặc biệt chúng chỉ có một hệ thống nhiễm sắc thể trong nhân tế bào. Những sinh vật khác đều có hai hệ thống nhiễm sắc thể, sinh sản qua sự phối hợp của giống cái và giống đực, và bị chi phối bởi tiến trình lão hóa thiên nhiên. Trong các sinh vật này, chỉ những yếu tố di truyền trong nhân của tinh trùng ở giống đực và trứng ở giống cái là có khả năng bất tử, truyền từ đời này qua đời khác.
Ngoài ra, mọi tế bào đều có tuổi thọ riêng. Có nhiều tế bào không có khả năng phân thân và do đó không thể tự sinh sản, như tế bào cơ tim, tế bào mô thần kinh của óc và tủy sống. Nhiều tế bào khác có tuổi thọ tương đối ngắn và không ngừng được thay thế bởi những tế bào mẹ được phân thân rất mau. Ðó là những tế bào của máu, của lớp màng lót trong bao tử và ruột, của các lớp da bên ngoài.
Thời gian không làm cho các tế bào già đi nhưng trong/với thời gian có những “đột biến” xảy ra khiến các tế bào bị ảnh hưởng và biến đổi, kéo theo sự thay đổi của cơ thể và sự suy giảm của các chức năng sinh lý.
Những lý do gồm có :
– Đồng hồ sinh lý
Cơ thể con người được “thảo chương” (program) theo những yếu tố di truyền để con người được sinh, trưởng, lão hóa rồi chết trong trật tự thiên nhiên vào một thời hạn đã định trước.
– Sự tích lũy của sai lầm
Ðây là sai lầm của các phần tử trong các tế bào cơ thể. Trong tế bào và mô lành mạnh luôn luôn có một sự luân chuyển các thành phần hệ trọng như enzymes, kích thích tố (hormones) và hóa chất truyền tín hiệu thần kinh (neurotransmitters).
Trong mỗi quá trình luân chuyển thường có khả năng xảy ra những sai lầm và nếu những sai lầm đó tích lũy tới một mức độ thì những tế bào hoặc mô trở thành bất khả dụng và có thể chết.
Ví dụ: nếu một hóa chất nào đó ở tế bào não bộ bị suy thoái thì dù cho những tế bào ấy còn sống nhưng não bộ cũng mất khả năng điều khiển các bộ phận cơ thể, hậu quả là dẫn đến sự chết của cơ thể. Nếu những tế bào khiếm khuyết sinh sôi nảy nở thì dù chúng không nằm trong những cơ quan điều khiển cơ thể, toàn bộ cơ thể cũng có thể bị hủy hoại đưa tới tử vong, như trường hợp các bệnh ung thư.
– Sự tích lũy của chất phế thải
Trong quá trình biến hóa của từng tế bào, có sự tích lũy các chất phế thải. Sự tích lũy này có thể xem như một phần của tiến trình lão hóa.
Về phía các tế bào không có khả năng phân thân như tế bào cơ tim, thận và não, có sự tích lũy dần dần của nhiều chất có thể nhận ra dưới kính hiển vi. Một trong những chất đó là “lipofuscin”, một chất mềm biểu hiện tình trạng “hao mòn tả tơi” của mô tế bào về già. Hiện nay khoa học chưa tìm được nguồn gốc và ảnh hưởng của lipofuscin, chỉ biết rằng chất đó tích lũy trong não bộ già và có thể loại khỏi cơ thể bằng vài thứ dược phẩm. Người ta đang nghiên cứu xem sự loại trừ này có lợi hay có hại cho cơ thể.
– Lão hóa của các mô tiếp nối
Mô tiếp nối (connective tissues) là một cấu trúc yểm trợ gồm các chất như nguyên bào sợi (fibroblast), chất tạo keo (collagen), thớ sợi co dãn.
Những dấu hiệu của tuổi già do sự lão hóa mô tiếp nối rất dễ bị phát giác như tình trạng da và xương trở nên mỏng hơn và dễ vỡ; sự kiện phổi, xương sụn, mạch máu mất khả năng co dãn; các bắp thịt và khớp xương trở nên trơ cứng. Sự trơ cứng của các mô tiếp nối bắt nguồn từ phản ứng hóa học tròng chéo (chemical cross linkage) giữa các chuỗi phân tử dính liền nhau trong cấu trúc của các mô xốp (fibrous tissues).
– Sự mất hiệu năng của hệ thống miễn dịch
Nếu có chất lạ xâm nhập cơ thể thì hệ thống miễn dịch sẽ phát giác ra ngay và huy động hệ thống phòng thủ để tiêu diệt hoặc loại trừ các chất lạ đó. Ðó là phương cách mà hệ thống miễn dịch bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, virus, nấm mầm bệnh, đồng thời ngăn chặn sự tích lũy các chất hữu cơ vô dụng trong cơ thể. Các tế bào hay chất liệu nào mà cơ thể không chấp nhận vì bị già cỗi suy yếu hoặc là có ác tính (như ung thư) đều bị phát giác và tiêu hủy.
Khi ta già hoặc khi một vài bộ phận trong hệ thống trở nên suy yếu thì hệ thống miễn dịch mất hiệu quả và khi đó cơ thể dễ bị nhiễm độc và dễ bị bệnh ác tính xâm nhập.
Ngoài ra, hệ thống miễn dịch còn có thể mất khả năng chuyên biệt của nó và đôi khi còn hủy hoại các cơ quan trọng yếu của thân thể. Tiến trình này gọi là bệnh tự hủy miễn dịch (autoimmune disease). Ví dụ bệnh này có thể hủy tuyến giáp trạng (thyroid gland), thượng thận (adrenal gland) và lớp mô lót bao tử, gây nên bệnh myxoedema (hư hạch tuyến giáp), bệnh Addison’s disease (hư tuyến thượng thận), bệnh teo bao tử (gastric atrophy).
Trên đây là tóm tắt các diễn biến xảy ta trong/với thời gian mà hậu quả là sự biến đổi của cơ thể và sự suy giảm của các chức năng sinh lý.
NYD
Tiếp xúc với ánh nắng mặt trời để chống lại bệnh trầm cảm
.
Nếu mùa đông khiến bạn cảm thấy kiệt sức và xuống tinh thần, thì mùa xuân sắp tới là thời điểm tạo thêm cơ hội để nạp năng lượng.
Gần giống như tất cả các sinh vật sống, bạn gắn bó với mặt trời trong một mối liên kết sinh học đặc biệt, từ hệ miễn dịch của bạn, những gì bạn ăn, cho đến những cảm xúc qua chu kỳ các mùa trong năm. Một ví dụ là chứng rối loạn cảm xúc theo mùa (SAD), một dạng trầm cảm do ban ngày ngắn ngủi và bầu trời xám xịt của mùa đông.
Những người trải qua SAD cũng phải chịu thêm sức nặng của đại dịch năm nay. Căng thẳng, lo lắng và buồn bã có thể khiến việc tập trung năng lượng hoặc sự nhiệt tình trở nên khó khăn. Điều này có thể dẫn đến ít thời gian vận động hơn, ăn nhiều hơn và cô lập xã hội hơn.
Tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và kết nối với xã hội là cách quan trọng để thoát khỏi trạng thái này. Giống như việc mặt trời có thể nuôi lớn cây cỏ từ những hạt giống bị chôn vùi trong đất, nó có thể nuôi dưỡng từ bên trong bạn một thứ gì đó mà chỉ cần thêm một chút năng lượng và hơi ấm để vực dậy.
Đối với nhiều người, việc tăng cường sự tiếp xúc với ánh nắng sẽ tăng cường năng lượng và đối với một số người, nó cũng sẽ làm giảm các triệu chứng trầm cảm.
Việc tiếp nhận được càng nhiều ánh sáng mặt trời càng tốt, ngay cả khi chỉ thông qua cửa sổ, đã được chứng minh là có thể giúp những người bị SAD. Vì vậy, khi bạn thức dậy mỗi ngày, hãy mở rèm và màn cửa để ánh sáng tự nhiên tràn vào. Ngay cả khi trời nhiều mây, ánh sáng tự nhiên vẫn có thể giúp ích cho bạn. Thực hành việc này cũng có thể giúp ổn định nhịp sinh học của bạn và hỗ trợ chu kỳ ngủ-thức lành mạnh.
Ngồi gần cửa sổ càng nhiều càng tốt để tiếp xúc ánh nắng trực tiếp. Cố gắng ra ngoài đi dạo mỗi ngày, vì cả ánh sáng và sự vận động đều có thể làm tăng năng lượng cho bạn. Nếu cần nhiều ánh sáng hơn, bạn có thể thử đèn hộp. Đây là những chiếc đèn được thiết kế đặc biệt phát ra quang phổ ánh sáng dịu, ổn định, bắt chước ánh mặt trời và có thể giúp điều trị SAD.
Những việc khác bạn có thể làm để đối phó với những ngày ngắn ngủi của mùa đông bao gồm:
* Tìm cách tăng cường hoạt động thể chất: Khiêu vũ tại nhà, đi bộ, đi bộ trên tuyết, v.v., tất cả đều có thể giúp cải thiện mức năng lượng của bạn.
* Sắp đặt một thời gian biểu nhất quán: Đi ngủ và thức dậy vào cùng một giờ mỗi ngày và tập thành thói quen.
* Đảm bảo rằng bạn được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng mỗi ngày để duy trì năng lượng.
* Dành thời gian mỗi ngày để thư giãn và làm những điều bạn thích.
* Nói chuyện với bạn bè và gia đình để giữ sự kết nối với xã hội.
* Hãy thử đặt trước các cuộc trò chuyện / cuộc gọi ảo để bạn có điều gì đó mong đợi.
Mat Lecompte là một nhà báo tự do về sức khỏe và nếp sống lành mạnh. Bài báo này được xuất bản lần đầu tiên trên Bel Marra Health.
Đã gọi là bệnh tiểu đường tất nhiên liên quan đến trục trặc trong khâu biến dưỡng chất đường. Nhiều người vì thế dù chưa bệnh vẫn bớt món ngọt vì sợ bệnh hơn sợ … ma! Cẩn tắc tuy đúng là vô áy náy nhưng chỉ bấy nhiêu vẫn chưa đủ để cầm chân “cơn đại dịch của thế kỷ”! Kiêng đường đến phát thèm nhưng nếu cuộc sống tẩm đầy stress thì bệnh tiểu đường không mời cũng chực chờ ngoài cửa. Bằng chứng là nhiều người không hề “hảo ngọt” theo nghĩa đen nhưng vẫn bệnh mới đau!
Chuyện gì cũng có lý do. Nhờ tiến bộ nhảy vọt trong mô hình nghiên cứu, thầy thuốc bây giờ đã hiểu rõ hơn về giấc ngủ.Giá trị của giấc ngủ không chỉ khu trú trong phạm vi phục hồi. Giấc ngủ là khoảnh khắc vô cùng quan trọng vì là lúc cơ thể thao diễn nhiều hoạt động đa dạng, tâm cũng như sinh lý, để chủ động bảo vệ sức khỏe. Giấc ngủ đầy đủ chất lượng thậm chí là một trong các yếu tố quyết định để phòng ngừa nhiều bệnh chứng nghiêm trọng. Bằng chứng là kháng thể được tổng hợp nhiều hơn, hồng cầu được tân tạo nhanh hơn, thực bào được huy động mạnh hơn, biến dưỡng được gia tốc gấp nhiều lần… trong khi gia chủ đang say giấc nam kha.
Đi xa hơn nữa chuyên gia ngành nội tiết ở Hoa Kỳ chứng minh mối liên hệ mật thiết giữa giấc ngủ và bệnh tiểu đường. Kết quả của một công trình theo dõi kéo dài hàng chục năm với cả chục ngàn đối tượng cho thấy người thường ngủ không đủ 5 giờ đồng hồ mỗi đêm dễ bị bệnh tiểu đường khi vượt qua độ tuổi 40, nếu so sánh với nhóm đồng niên ít khi mất ngủ.
Lý do rất đơn giản. Cảm giác mỏi mệt do ngủ không đủ khiến hệ thần kinh hiểu lầm là cơ thể thiếu năng lượng. Tuyến yên khi đó ra lệnh cho tụy tạng phóng thích nội tiết tố insulin nhiều hơn nhằm thoái biến chất đường để sinh năng lượng. Không sai về mặt cơ chế tác dụng nhưng tình trạng này nếu cứ lập đi lập lại quá thường do nạn nhân thiếu ngủ thường xuyên thì tụy tạng đến lúc nào đó phải kiệt lực. Bệnh tiểu đường khi đó bất chiến tự nhiên thành.
Thêm vào đó là tác dụng tự tăng đường huyết của tuyến thượng thận dù nạn nhân suốt đêm không ăn nhưng ngủ không yên vì mang công việc, nỗi lo, tính toán vào giấc ngủ. Đây chính là đòn bẩy khiến người phải đồng hành với stress sớm trở thành khách hàng thân thiết của khoa nội tiết. Bệnh tiểu đường loại này càng khó chữa vì bên cạnh rối loạn biến dưỡng còn là bàn tay đánh lén của căng thẳng thần kinh!
Ai cũng hiểu “Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo”. Không riêng gì bệnh tiểu đường, nhiều căn bệnh khác không kém phần nghiêm trọng sở dĩ phát tán, từ cao huyết áp bước qua trầm uất, chỉ vì nạn nhân nhiều đêm không trọn giấc nồng do bàn tay đánh bồi suốt đêm của stress. Rất thường khi nhiều vấn đề trở nên phức tạp một cách oan uổng chỉ vì một điểm khởi đầu tương đối đơn giản nhưng không được giải quyết rốt ráo. Vướng bệnh tiểu đường vì ngủ không ngon, ngủ không đủ là một dẫn chứng rõ hơn ban ngày!
Nhưng nói thế không có nghĩa là phải trả giá quá cao vì phản ứng phụ của thuốc ngủ loại hóa chất tổng hợp. Thầy thuốc ở Âu Mỹ, nơi chắc chắn không thiếu thuốc đặc hiệu, ắt hẳn có lý do chính đáng khi đồng lòng trở về với hoạt chất sinh học như lactium, melatonin, valeriana, gaba… để an toàn tuyệt đối khi dùng dài lâu, thay vì chỉ an thần một chiều, thay vì mua giấc ngủ tạm bợ gượng ép dù biết là trái ngược với qui luật của thiên nhiên.
Thông thường người lớn tuổi dễ bị cao mỡ trong máu, nhưng ngày nay bệnh này cũng xảy ra ở những người trẻ tuổi. Dưới đây là một số biện pháp cần làm để giúp kềm chế lượng mỡ trong máu.
1. Ăn thực phẩm chứa nhiều magnesium.
Nhiều nghiên cứu cho thấy thực phẩm chứa nhiều magnesium giúp kềm giữ lượng cholesterol xấu trong máu và cải thiện sức khỏe của tim. Người thiếu magnesium dễ bị viêm họng, rối loạn nhịp tim, và cả nhồi máu cơ tim.
2. Giữ vững động lực.
Mỗi sáng thức dậy với suy nghĩ tích cực. Tự hỏi bản thân điều gì làm cho mình có động lực. Có thể đó là người mình yêu thương, hoặc một mục tiêu cá nhân mà mình đã đặt ra. Mỗi ngày, cần tự xác định với bản thân lý do tại sao mình cần có một trái tim hoạt động tốt.
3. Đừng sử dụng nhiều đường.
Ai cũng biết ăn nhiều đường dễ có nguy cơ bị tiểu đường loại 2, nhưng ít người biết là đường cũng làm cao mỡ trong máu. Giảm ăn đường không chỉ giữ ổn định cholesterol mà còn làm giảm cân. Nên ăn nhiều thực vật, không ăn quá nhiều thịt và chất bột, và tránh ăn quá ngọt.
4. Cần thêm nhiều chất xơ trong bữa ăn.
Các chất xơ hòa tan giúp hạ thấp cholesterol xấu. Nên chọn những loại thực phẩm có nhiều chất xơ như ngũ cốc, rau cải, trái cây và hạt.
5. Sử dụng đúng thuốc.
Có ít nhất 7 loại thuốc làm giảm cholesterol. Mỗi loại đều có giá bán, hiệu quả và tác dụng phụ khác nhau như đau cơ, chóng mặt…. Nên thảo luận với bác sĩ để thử và chọn loại thuốc phù hợp nhất.
6. Tích cực hoạt động.
Các phương thức tập thể dục như đi bộ (2 miles hay 45 phút mỗi ngày), tập thể dục nhịp điệu (aerobic) hoặc đạp xe đều có ích cho việc hạ thấp cholesterol. Dầu vậy không cần phải tới phòng gym mỗi ngày 2-3 tiếng.
7. Giữ cố định khẩu phần ăn.
Không nên ăn nhiều hơn lượng calories cần cho cơ thể. Khi ăn quá nhiều, không thể nào giữ cho sức khỏe tốt và sẽ bị tăng cân cho dù tập thể dục nhiều đi nữa. Tham khảo bác sĩ hoặc các chuyên viên về dinh dưỡng để biết phần ăn bao nhiêu là đủ cho cơ thể
8. Nên ăn chay.
Nhiều nghiên cứu trong thời gian qua cho thấy ăn chay là phương pháp hiệu quả nhất làm giảm cholesterol và các vấn đề liên quan tới tim mạch. Vì vậy nên ăn nhiều thực vật và các loại thực phẩm không qua chế biến. Được như vậy thì cholesterol có thể giảm xuống mà không cần uống thuốc.
9. Ngưng hút thuốc.
Thuốc lá gây ra nhiều tai hại, trong đó bao gồm cả việc làm giảm lượng cholesterol tốt (HDL) trong máu và đồng thời làm tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch. Các bác sĩ nói rằng ngay cả một điếu thuốc mỗi ngày cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh tim hoặc bị tai biến mạch máu não.
10. Thực phẩm Địa Trung Hải.
Nhiều chuyên viên tim mạch cho rằng ăn thực phẩm theo kiểu Địa Trung Hải (mediterranean) là một trong những cách tốt nhất để chống lại cao mỡ. Kiểu thực phẩm này mang lại chất béo cần thiết với tỉ lệ tốt nhất. Ngoài ra, trong đó còn chứa nhiều omega-3, là chất giúp nâng cao cholesterol tốt, chống viêm và giảm nguy cơ bị bệnh tim mạch
11. Quan hệ tốt với bác sĩ.
Một bác sĩ theo dõi bệnh nhân lâu dài sẽ biết rõ hơn về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân đó để điều trị cao mỡ vì đây là bệnh cần theo dõi nhiều năm. Ngoài ra, họ còn có thể giới thiệu những bác sĩ đáng tin cậy khác.
12. Cần ngủ đủ giấc.
Giấc ngủ phải kéo dài ít nhất 6 tiếng mỗi đêm. Thiếu ngủ sẽ làm tình trạng cao mỡ trầm trọng thêm, dễ đưa tới bệnh tim mạch và tai biến. Nếu có trở ngại hay bất thường về giấc ngủ, nên thảo luận với bác sĩ
13. Giảm căng thẳng.
Nhiều nghiên cứu cho thấy căng thẳng thường xuyên cũng làm tăng cholesterol xấu. Căng thẳng cũng ảnh hưởng tới việc tạo những thói quen nhằm làm ổn định cholesterol. Căng thẳng nhiều cũng sẽ đưa tới nguy cơ bị bệnh tim và tai biến. Tập thể dục, yoga, giao tiếp với bạn bè hoặc tập thiền… cũng giúp làm giảm mỡ trong máu.
14. Lịch sử bệnh của gia đình.
Nên biết rõ những bệnh sử của gia đình và các yếu tố di truyền, nhất là ở những người đã áp dụng nhiều biện pháp điều trị mà cholesterol vẫn cao. Người ta thường quên là di truyền cũng đóng vai trò quan trọng trong chỉ số mỡ trong máu.
15. Kiểm tra thuốc sử dụng.
Một số loại thuốc như loại dùng để ngừa thai cũng có thể làm tăng cholesterol. Tình trạng suy yếu tuyến giáp cũng làm tăng mỡ trong máu. Nên báo cho bác sĩ rõ việc sử dụng thuốc để theo dõi và xét nghiệm máu dịnh kỳ.
16. Thường xuyên theo dõi.
Ngay cả khi các chỉ số mỡ trong máu bình thường, cũng cần phải kiểm tra định kỳ mỡ trong máu. Người có lượng mỡ trong máu trong chiều hướng gia tăng nên giảm bớt ăn các chất bột, đường và mật ong. Nên ăn nhiều thực phẩm hoặc dùng thuốc có chứa omega-3.
Có hai điều rõ rệt. Trước hết, có rất nhiều bệnh nhân đã và đang gõ cửa thầy thuốc vì đau vùng khớp vai. Đa số đang là nạn nhân của tình trạng cứng khớp vai dẫn đến giới hạn vận động, nhất là vào buổi sáng sớm, khi vừa thức dậy.
Kế đến, phần lớn trong số họ đã và đang được điều trị với thầy thuốc chuyên khoa xương khớp, chấn thương chỉnh hình vì lý do rất đơn giản, vì vai có khớp vai, đau vai không đau khớp còn đau vào đâu? Không sai về mặt lý luận nhưng điểm đáng nói là không ít bệnh nhân tuy theo thầy nhiều tuần nhiều tháng nhưng không thuyên giảm bao nhiêu mặc dầu trên toa thuốc thường khi toàn là thuốc giảm đau hàng hiệu. Bệnh nhân tuy uống thuốc đầy đủ, nhiều khi đến độ loét dạ dày vì phản ứng phụ của thuốc!, nhưng hiệu quả trên khớp lại chẳng được bao nhiêu, nếu không muốn nói là tiền mất tật mang rồi mích lòng thầy thuốc.
Lý do lại không dễ hiểu dù là đã được phanh phui dưới lăng kính y học. Các nhà nghiên cứu về bệnh tiểu đường đã nhiều lần báo cáo về dấu hiệu đau vai, nói chính xác hơn, đau vùng khớp vai của người bệnh tiểu đường. Chuyên gia về bệnh tiểu đường đã chứng minh qua nhiều công trình nghiên cứu với dữ liệu đáng tin cậy là:
• Vùng vai trở nên nhạy cảm rõ rệt ở người tăng đường huyết với dấu hiệu đau, tê cứng, giới hạn vận động… khiến thầy thuốc có thể bị đánh lừa vì tưởng bệnh xương khớp. Người đau vai quá thường dù không hề vận động nặng nên tầm soát bệnh tiểu đường thay vì mang định kiến đau vai là đau khớp. Ngược lại, thầy thuốc nên kiểm soát đường huyết của tất cả bệnh nhân đến thầy vì đau vai, thay vì cho ngay thuốc khớp do định kiến.
• Triệu chứng đau vai ở người đã bị bệnh tiểu đường rõ ràng tỷ lệ thuận với lượng đường trong máu. Người bệnh nếu quan sát kỹ cảm giác đau vai thậm chí có thể phát hiện lúc nào lượng đường trong máu tăng cao cho dù không dùng máy đo đường huyết. Bệnh nhân nhờ đó có thể thay đổi chế độ dinh dưỡng, chẳng hạn giảm lượng tinh bột trong khẩu phần khi ghi nhận dấu hiệu đau vai bộc phát.
• Tần suất của cơn đau vai phản ánh hiệu quả của thuốc hạ đường huyết. Cơn đau xuất hiện càng thường, đường huyết càng không ổn định. Thầy thuốc có thể dựa vào đó để điều chỉnh phác đồ điều trị. Hỏi kỹ người bệnh về dấu hiệu đau vai là một trong các tiêu chí lâm sàng để đánh giá diễn biến của bệnh. Nói cách khác, giảm cơn đau vai, cải thiện khả năng vận động của cánh tay (giơ cao, vói ra sau) là dấu hiệu cho thấy hiệu quả của liệu pháp.
Điều đáng tiếc là nhiều bệnh nhân đau vai dai dẳng vẫn chưa được tầm soát bệnh tiểu đường! Đáng nói hơn nữa là không ít bệnh nhân, mặc dầu không có dấu hiệu bệnh lý trên hình chụp xương vai, vẫn được điều trị như viêm khớp, cho dù không có dấu hiệu cải thiện sau thời gian dài dùng thuốc trị viêm khớp, giảm đau! Quả thật đáng tiếc cho người bệnh nếu thầy thuốc điều trị trên tinh thần đau đâu chắc bệnh đó, đau đâu chỉ cần chữa đó.
Cơ thể vì không thể nói tiếng người nên thường khi phải báo động một cách gián tiếp. Đau vai trong bệnh tiểu đường là một dẫn chứng.
Những toa thuốc thiên nhiên mầu nhiệm
Đức Trí, M.D.
Mời quý vị tham khảo một đề tài rất hữu ích cho sức khỏe
Không có loại dược liệu nào trên đời này đem lại hiệu quả tốt hơn cho con người và không tốn kém như THUỐC THIÊN NHIÊN
Trong cuộc sống hàng ngày, con người không thể tránh khỏi mắc các loại bệnh từ bệnh nhẹ cho đến bệnh nặng. Tuy nhiên, khi bị bệnh mọi người đều nghĩ đến việc uống thuốc và hy vọng sẽ nhanh chóng khỏi bệnh, mà không bao giờ biết thay đổi thói quen sống của mình.
Thực tế có rất nhiều loại “thuốc” dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe, so với việc uống các loại thuốc Đông, Tây,… thì loại “thuốc” này không hề có tác dụng phụ, và quan trọng là không mất bất cứ một đồng tiền nào.
1. “Thuốc” chống ung thư tốt nhất : Đi bộ
Đi bộ là phương pháp ngừa ung thư tốt nhất. “Đi bộ có thể được xem như một loại thuốc phòng ngừa ung thư hiệu quả!” Hiệp hội các tổ chức từ thiện Anh và Macmillan Cancer Aids đã cho rằng, nếu chúng ta có thể đi bộ 2km mỗi ngày hoặc đi bộ khoảng 20 phút sẽ giúp phòng ngừa ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đại tràng. Hơn nữa có thể giảm nguy cơ tử vong tới 50%. Vì vậy, đi bộ là phương pháp ngừa ung thư tốt nhất.
2. “Thuốc” giúp sống lâu nhất : Cười
Tiếng cười có thể đẩy nhanh nhịp tim và cung cấp oxy cho não. Nhiều người cho rằng muốn sống lâu, cần ăn thực phẩm đại bổ như nhân sâm, nhung hươu. Tuy nhiên, tất cả không bằng một ha'nh động nhỏ chính là nở nụ cười. Theo một nghiên cứu của Tây Ban Nha cho rằng con người càng cười nhiều thì càng khỏe mạnh. Tiếng cười có thể đẩy nhanh nhịp tim và cung cấp oxy cho não.
Lisa Rosenberger, một nghiên cứu viên tại Trung tâm y tế Đại học Rush ở Chicago, nói rằng cười là một loại thể dục dưỡng sinh. Những người có tính hài hước sẽ có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, tỉ lệ bị nhồi máu cơ tim giảm khoảng 40% và tuổi thọ trung bình có thể tăng thêm 4 năm rưỡi.
3. “Thuốc” bảo vệ tim mạch tốt nhất : Ngồi thiền
Ngồi thiền có thể tăng cường chức năng của tim, thúc đẩy tuần hoàn máu. Ngồi thiền có thể tăng cường chức năng của tim, thúc đẩy tuần hoàn máu. Sau khi ngồi thiền một lúc, sẽ khiến những suy nghĩ của bạn chậm lại, giúp mọi người trấn tĩnh được cảm xúc, tâm tính được xoa dịu. Khi bạn không ngủ được, có thể ngồi bắt chéo chân để thiền định. Ngoài ra, ngồi thiền còn có lợi cho việc ngăn ngừa và điều trị đau khớp, hỗ trợ hệ thống hô hấp, rất hữu ích cho việc thở đều.
4. “Thuốc” chống lão hóa : Ngủ
Nên đi ngủ trước 23 giờ để vừa bao đảm sức khỏe tổng thể vừa giúp đẹp da, trì hoãn lão hóa. “Thuốc” này so với những mỹ phẩm đắt tiền có tác dụng hơn gấp nhiều lần. Các nghiên cứu đã cho rằng thời gian hoạt động của quá trình chuyển hóa tế bào biểu bì ở người là từ 10 giờ tối đến 2 giờ sáng ngày hôm sau.
Nếu chúng ta có thể bảo đảm giấc ngủ ngon trong thời gian này, chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình chuyển hóa và trì hoãn lão hóa da. Ngược lại, thức đêm nhiều sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tái sinh của tế bào, rút ngắn tuổi thọ của tế bào da, dẫn đến đẩy nhanh quá trình lão hóa da.
Chuyên gia kiến nghị, tất cả mọi người nhất định phải ghi nhớ đi ngủ trước 23 giờ để vừa bao đảm sức khỏe tổng thể vừa giúp đẹp da, trì hoãn lão hóa.
5. “Thuốc” chống mất trí nhớ tốt nhất : Chăm chỉ đọc sách
Đọc sách báo nhiều hơn chính là phương pháp tốt nhất để ngăn ngừa chứng mất trí nhớ. Một số nghiên cứu cho rằng, người có trình độ giáo dục càng thấp, sau này nguy cơ mất trí nhớ càng cao. Do vậy, nếu những đứa trẻ có nền giáo dục tốt thì có thể giúp phòng ngừa tình trạng sa sút trí nhớ trong tương lai.
Nếu người lớn tuổi cũng duy trì thói quen học tập, có thể bảo vệ chức năng nhận thức của bản thân. Vì vậy, đọc sách đọc báo nhiều hơn, mỗi ngày nỗ lực nhớ một vài cái mới xảy ra gần đây hoặc học tập để tìm hiểu kiến thức, khiến đại não luôn ở trạng thái vận động và học tập, đây chính là phương pháp tốt nhất để ngăn ngừa chứng mất trí nhớ.
6. “Thuốc” bổ sung canxi tốt nhất : Phơi nắng
Phơi nắng là phương pháp tốt nhất để bổ sung canxi. Phơi nắng có thể giúp cơ thể hấp thu được vitamin D, hơn nữa vitamin D giúp hấp thụ canxi vào xương tốt nhất. Canxi đi vào xương tham gia quá trình tạo xương, giúp cơ thể có vóc dáng "cân đối", săn chắc và vững chãi.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.