Điều ǵ xảy ra khi bạn không rửa tay sau khi đi vệ sinh?
Bạn có khi nào “quên” rửa tay sau khi sử dụng nhà vệ sinh không?
Nếu không rửa tay bằng xà pḥng và nước sau khi sử dụng nhà vệ sinh có thể gây nguy hiểm cho bạn
Nếu bạn ra khỏi nhà vệ sinh mà không rửa tay hoặc rửa không đúng cách, th́ bài viết này là dành cho bạn. Nếu bạn rơi vào trường hợp này, bạn đang mắc một sai lầm lớn. Không rửa tay bằng xà pḥng và nước sau khi sử dụng nhà vệ sinh có thể gây nguy hiểm cho bạn, theo Times of India.
1. Thói quen xấu có thể khiến bạn mắc bệnh
Nhà vệ sinh là nơi sinh sản của các mầm bệnh và nếu bạn đang sử dụng nhà vệ sinh công cộng, nó có thể c̣n tồi tệ hơn nữa, bởi v́ bạn không biết ai đă chạm vào cái ǵ.
Khi bạn không rửa tay, vi trùng sẽ truyền từ tay bạn sang bất cứ thứ ǵ bạn chạm vào, điều này dẫn đến mầm bệnh bên trong con người bạn. Từ nhiễm trùng đường ruột nhẹ cho đến một loại virus corona mới, bạn có thể mắc tất cả chúng nếu không rửa tay.
Chỉ rửa tay trước khi ăn là không đủ. Bởi v́ khi bạn rời khỏi chỗ trống mà không rửa tay và chạm vào đồ vật, chẳng hạn như điện thoại di động hoặc chai nước, bạn sẽ truyền vi trùng sang những thứ đó. Mỗi khi bạn chạm vào các vận dụng này, bạn đang “tiếp cận” lại tất cả các vi trùng.
2. Có thể làm hỏng da của bạn
Điều ǵ xảy ra khi bạn không rửa tay sau khi đi vệ sinh? - ảnh 1
Đừng bao giờ quên rửa tay sau khi sử dụng nhà vệ sinh, nhất là nhà vệ sinh công cộng
Da của bạn là siêu nhạy cảm. Khi dùng tay đầy vi trùng chạm vào da, bạn có nguy cơ mắc các bệnh về da. Bạn có thể bị phát ban, nổi mụn và kích ứng da, theo Times of India.
3. Bạn có thể khiến người khác bị bệnh
Bạn có thể trở thành người mang mầm bệnh và bất cứ ai tiếp xúc với tay hoặc bề mặt bạn đă chạm vào cũng có thể bị bệnh.
4. Cách rửa tay đúng theo Trung tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa Dịch bệnh Mỹ
- Rửa sạch tất cả các vùng da tiếp xúc của tay bạn
- Xả tay qua nước và thoa xà pḥng để rửa sạch vi trùng
- Xoa phía sau ḷng bàn tay và giữa các ngón tay
- Chà sạch cả móng tay
- Vi trùng lây lan ngay lập tức trên tay ướt, v́ vậy bạn phải lau khô tay đúng cách sau khi rửa tay
- Không vứt khăn giấy sau khi lau tay. Giữ khăn giấy để dùng nó mở cửa, sau đó loại bỏ nó v́ nó chạm vào tay nắm cửa. Lưu ư rằng tay nắm cửa có thể khiến bạn tiếp xúc với vi trùng do ai đó không rửa tay để lại, theo Times of India.
Cách Chữa Và Ngừa Hôi Miệng
18/03/2000
Bác Sĩ Trần Mạnh Ngô
Lần trước, chúng ta đă nói về bệnh hôi miệng, và những nguyên nhân gây bệnh hôi miệng. Hôm nay, chúng tôi xin tŕnh bày những phương pháp đề pḥng và chữa bệnh hôi miệng (Family Practice Recertification, 21: 95, 1999).
Mục đích chính của cách chữa hôi miệng là phải diệt trừ nguyên nhân bệnh hôi miệng. Nói chung, nếu dùng vệ sinh tối đa cho răng lợi và miệng là đă giúp giảm bệnh hôi miệng rất nhiều (J. Tonzetic and SK Ng, Oral Surg Oral Med Oral Pathol, 54: 521, 1976).
Những cách đề pḥng hôi miệng gồm có:
- Đánh răng thường xuyên mỗi ngày, nhất là sau mỗi bữa ăn. Lúc chà răng, phải dùng bàn chải chà lợi, chà mặt lưỡi. Đôi khi phải dùng dồ nạo lưỡi cho sạch.
- Dùng sợi giây để móc đồ ăn trong kẽ răng, ít ra mỗi ngày phải làm một lần.
- Nên dùng nước xúc miệng thường xuyên. Tuy nhiên dùng nước xúc miệng không chữa được bệnh hôi miệng lâu dài, chỉ tốt cho một thời gian ngắn. Xúc trong miệng ít ra là 30 giây rồi nhổ đi.
Có thuốc xúc miệng chứa chất clhorine dioxide (bạn có thể hỏi ở các tiệm thuốc Tây-Pharmacy), có tác dụng rất mạnh khử mùi hôi có Sulfur. Bạn có thể vừa dùng thuốc xúc miệng có chlorine dioxide, vừa chà lưỡi bằng bàn chải đánh răng, vừa nạo lưỡi, đều rất tốt.
C̣n một cách khác để giữ vệ sinh miệng là có thể dùng bộ phận phun nước vào miệng (oral irrigator), nước có tính chất ion hóa (ionize), ngăn cản thành lập tảng (plaque) và cặn răng (tartar), cũng giúp đỡ hôi miệng.
Ngoài ra, bạn hăy:
- Uống nhiều nước.
- Ăn uống điều hoà. Nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt, mỡ.
- Đôi khi ăn làm nhiều bữa nhỏ, hoặc uống nước chanh, nhai kẹo gum, hay ngậm kẹo không có đường, nhưng có chút bạc hà (mint), để cho nước miếng ra nhiều hơn, sạch miệng, và giảm vi trùng.
- Tránh đồ ăn làm hôi miệng như: tỏi, hành, ớt, salami, và pastrami. Chất hôi của đồ ăn thoát qua đường phổi, ra ngoài. Sản phẩm Breathasure có chất cần tây (parsley) có thể làm giảm mùi hôi. Hoặc bạn có thể ăn nhiều cần tây hơn thường lệ.
- Tránh ăn phó mát có mùi vị mạnh.
- Không uống rượu, không hút x́-gà.
- Nếu dùng răng giả, th́ ban đêm phải tháo răng giả ra, rửa và chà bằng bàn chải, rồi ngâm vào nước sát trùng. Đôi khi, mỗi lần ăn cơm xong phải rửa răng giả. Nếu ban đêm đeo răng gỉa, miệng bị khô nước miếng, vi trùng sẽ mọc nhiều hơn, làm hôi miệng.
- Giảm dùng caffeine, tức là giảm uống cà-phê.
- Gặp Nha sĩ một năm 2 lần để chùi răng, chữa bệnh hư lợi (periodontal disease), sửa chữa những răng hư, kẽ hở, răng sâu.
- Gặp bác sĩ để chữa bệnh, như: viêm xoang, bệnh viêm thịt dư hay làm mủ (tonsillar infections), bệnh dị ứng, nghẹt mũi, chảy nước mũi, hay nghẹt ống dẫn nước bọt. Tất cả đều làm cho hôi miệng. Những bệnh khác như: bệnh bao tử, bệnh phổi, bệnh thận, bệnh gan, bệnh máu, bệnh tiểu đường, bệnh túi mật, vấn đề kinh nguyệt và ung thư, cũng đều làm hôi miệng.
- Sau hết, bạn nên giữ cho cơ thể khỏe mạnh, không bị căng thẳng tâm trí. Bạn nên tập thể dục nhẹ mỗi ngày như chạy chậm hay đi bộ lẹ, hít thở để giúp cho bộ phận hô hấp và hơi thở được trong sạch.
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., FAAFP; E-mail: nmtran@hotmail.com; Fax: (714) 547- 4968; Điện thoại: (714) 547-3915.
V́ Sao Bị Bệnh Hôi Miệng?
11/03/2000
Bác Sĩ Trần Mạnh Ngô
Người ta thường bị hôi miệng nhiều nhất vào buổi sáng. Bị hôi miệng không có ảnh hưởng ǵ tới sức khỏe con người, nhưng đôi khi làm ngăn cản sự giao tế hàng ngày, có thể ảnh hưởng tới công việc làm ăn của chúng ta (Lichuan Fang, Family Practice Recertification, 21: 81, 1999).
Những hóa chất làm cho hôi miệng:
Mùi hôi là do chất hơi có lưu huỳnh (Sulfur),như: hydrogen sulfide, methyl mercaptan, dimethyl sulfide, và dimethyl disulfides. Đôi khi, mùi hôi do những chất hơi acids béo (fatty acids) như propionic, butyric, hay valeric acids hay những chất amines (indole, skatole, cadaverine và putrescine)(J. Tonzetich, J. Periodont 48: 13, 1977).
Nguyên nhân hôi miệng:
. Hôi miệng tùy thuộc vào lượng nước miếng tiết ra, lúc chúng ta nhai hay nuốt.
. Chất hơi lưu huỳnh thấm vào mô mềm trong miệng. Khi nứơc miếng hay mô mềm trong miệng không đủ sức giữ chất hơi lưu huỳnh, sẽ làm hôi miệng.
. Vi trùng trong miệng nảy nở tùy theo từng loại, cộng thêm vấn đề vệ sinh, thói quen ăn uống, và lượng nước miếng tiết ra.
. Những môi trường như thay đổi nhiệt độ, ẩm ướt, đồ ăn thức uống, dưỡng khí, và độ cường toan pH, đều ảnh hưởng tới hôi miệng.
Bệnh hôi miệng do răng lợi:
. Phần lớn bệnh hôi miệng là do vi trùng nẩy nở trong những hang hốc trong miệng. Đồ ăn chứa chất trong những lỗ hổng trong lợi, sâu răng, kẽ răng, mặt lưỡi, đều là những chỗ lư tưởng cho vi trùng sinh sản.
. Độ hôi miệng, tăng theo tuổi tác, nhất là khi dùng răng giả, là nơi dễ bị đồ ăn mắc kẹt.
. Một phần ba bị hôi miệng là do bệnh nướu răng sinh ra. Nước miếng bệnh nướu răng dễ làm hôi thối.
. Những bệnh khác cũng làm hôi miệng như: viêm miệng, lưỡi, lợi nướu răng hay viêm thịt dư cổ họng (cryptic tonsils), nghẹt hay giảm bài tiết nứơc miếng (xerostomia).
Do thuốc men:
. Những thuốc men có thể gây hôi miệng như: thuốc cao huyết áp, thuốc an thần, thuốc chữa bệnh xuống tinh thần (depression), thuốc chống histamines, chữa bệnh Parkinson, thuốc lợi tiểu, amphetamines, v.. v..
Do nhiều bệnh tật khác trong cơ thể :
. 10 phần trăm là do những bệnh khác như viêm xoang, viêm thịt dư trong cổ họng (tonsillitis), và bệnh muĩ (thí dụ có vật lạ rớt vào muĩ). Những loại bệnh khác nằm trong phổi như giăn khí quản (bronchiectasis), bướu mụt hay lở loét làm mủ, bọc mủ (abscess), hay ung thư bị nhiễm trùng.
. Bệnh tiểu đường có nhiều chất acetone và ketones xông ra qua đường phổi.
. Bệnh Urê-huyết (azotemia), có chất ammoniac.
. Bệnh chai gan làm cho hơi thở hôi, như có mùi tỏi hay trứng thối, do những chất dimethyl sulfides, methyl mercaptan, và ethanethiol.
. Bệnh thận hư, có mùi tanh như cá, do chất dimethylamines và trimethylamines.
. Ung thư máu (leukemia) hay những bệnh loạn tạo máu (blood dyscrasia) làm cho hơi thở có mùi như máu bị hư, phân ră (decaying blood).
. Những bệnh liên quan đến bao tử ít làm hôi miệng, v́ ống thực quản luôn luôn đóng kín và xẹp lép. C̣n bao tử chỉ sinh ra mùi hôi, khi bị ợ hay ói mửa. Có những bệnh khác như ợ nóng (heartburn), hẹp môn vị (pyloric stenosis), hay thoát vị khe thực quản (hiatal hernia) cũng sinh ra hôi miệng.
. Phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt, thay đổi kích thích tố trong người, sinh ra chất hơi có lưu huỳnh bay qua đường phổi làm hôi miệng.
Do đồ ăn, hút thuốc lá:
. Ăn uống đôi khi làm đỡ hôi miệng, v́ nước miếng ra nhiều, làm sạch miệng. Nhưng ngược lại có nhiều đồ ăn làm hôi miệng như: tỏi, hành, rượu. Trong hành tỏi có nhiều chất mùi hôi allicin và dallyl sulfite.
. Hút thuốc lá hay x́-gà gây hôi miệng v́ làm giảm nước miếng trong miệng.
Nói tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân sinh ra hôi miệng: phần lớn do những bệnh trong miệng, răng lợi, những bệnh tai muĩ họng, hay nhiều bệnh khác nằm trong cơ thể chúng ta.
Kỳ sau, chúng tôi sẽ xin tŕnh bày cách chữa, và đề pḥng bệnh hôi miệng.
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., FAAFP; E-mail: nmtranỴhotmail.com; Fax: (714) 547-4968; Điện thoại: (714) 547-3915.
Thời gian là những năm tháng của thập niên 40, không gian là một tỉnh lỵ nằm trên đường số 5 giữa Thủ đô Hà Nội và cảng Hải Pḥng.
Cả tỉnh chỉ có một bác sĩ, một nhà thương nhỏ.
Nhà thương được một ông y tá, một bà đỡ và vài nhân viên tạp dịch điều hành. Sáng sớm mỗi ngày, bệnh nhân xếp hàng đợi lấy số thứ tự, cũng không đông, độ hai chục người, với mấy loại bệnh thông thường như nhức đầu, tiêu chảy, ban sởi trẻ em, ghẻ lở, bụng ỏng sán lăi.
Thuốc men giản dị. Ghẻ lở được bôi với Bleu de Méthylène xanh lè cả chân cẳng. Nhức đầu được lănh dăm viên Optalidon, Aspirin Bayer, tiêu chảy có Bismuth, Charcoal, nặng th́ được vài viên Sulfaguanidine. Bệnh trầm trọng hơn th́ bác sĩ khám, nếu cần sẽ được chở về bệnh viện Phủ Doăn ở Hà Nội, có bác sĩ Tây, có nhiều ông thầy dạy học. Nói là nặng chứ không phải là nhồi máu cơ tim, tai biến mạch mău năo, kích tim, giỏi lắm là vài trường hợp uốn ván, có thai ngoài dạ con, thương hàn, ngă nước.
Kháng sinh chưa có ngoài thuốc Dagénan, được coi là thần dược, trị mọi bệnh nhiễm trùng. Mà muốn có thuốc này, phải là dân nhà giàu, đến pḥng mạch tư của bác sĩ, xin toa ra nhà thuốc tây duy nhất ở tỉnh để mua.
Bệnh nhận không đến nhà thương th́ đến chẩn bệnh ở các vị đông ư, bốc thuốc bắc, thuốc nam ở các tiệm cao đơn hoàn tán của “chú khách”, hoặc đi lễ xin thuốc thần thuốc thánh, chữa theo kinh nghiệm dân gian “Đau bụng lấy bụng mà chườm”.
Phương tiện trị liệu, định bệnh thô sơ, tử vong cao, sống tới tuổi 40 đă ăn mừng tứ tuần đại khánh. Sự tiến bộ của văn minh y học trên thế giới chưa rọi tới mảnh đất thuộc địa nghèo nàn. Những phong trào nhà ánh sáng, lưu thông cống rănh, vệ sinh thường thức chỉ mới manh nha.
Nh́n ra các nước tiên tiến trên thế giới, từ đầu thế kỷ, y học đă liên tục đi những bước dài để bảo vệ sức khỏe con người.
Một trăm năm qua đă có nhiều phát minh, sáng kiến tuyệt hảo để chẩn bệnh, trị bệnh, pḥng bệnh. Tuổi thọ trung b́nh 45 tuổi ở năm 1900 đă được nâng lên 76,5 tuổi vào cuối thế kỉ, cái gọi là thất thập cổ lai hy đă trở nên chuyện b́nh thường, trường thọ đă là một trong nhiều quà tặng của nền y khoa tiến bộ trong thế kỉ 20 dành cho nhân loại.
Những tử vong v́ đẻ non, v́ bệnh nan y, v́ điều kiện sinh sống kém, dinh dưỡng không cân bằng, v́ những dịch truyền nhiễm đều đă được nhiều phần khắc phục.
Chúng tôi xin cùng quư vị t́m hiểu lại một số những tiến bộ tuyệt hảo này, rồi đoán vọng tương lai. Ta cùng ôn cố để tri tân.
1- Lănh vực pḥng ngừa bệnh
Trước thế kỉ 20, bệnh truyền nhiễm là một trong nhiều nguyên nhân gây ra số tử vong cao cho con người. Lư do là v́ chưa có kháng sinh, vaccin tiêm pḥng, vệ sinh cá nhân, nhà ở chưa được phổ biến, vi trùng tha hồ hoành hành tác hại.
Dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 làm thiệt mạng hơn 20 triệu người trên toàn thế giới.
Bệnh lao, bệnh đậu mùa, bệnh bại liệt trẻ em, bệnh bạch hầu, uốn ván tràn lan. Ngay cả Tổng thống Hoa Ḱ Roosevelt Franklin cũng bị bại liệt vào tháng 8 năm 1921 khiến liệt nửa thân.
Sau đó bệnh truyền nhiễm giảm bớt nhờ nhiều phương tiện, trong đó có tiêm chủng.
Khám phá ra dự chủng ngừa dựa vào một nhận xét là, những nông trại vắt sữa ḅ, bị lây bệnh đậu của ḅ th́ không mắc bệnh đậu mùa nữa, do đó chích ngừa là để tạo ra chất kháng thể chống lại sự xâm nhập vi khuẩn cùng loại.
Năm 1790, Edward Jenner, người Anh, là người đầu tiên cấy chất liệu từ vết đậu của ḅ cho người để tạo tính miễn dịch, nhưng phải đợi tới thế kỷ 20 vaccin để chủng pḥng bệnh đậu mùa mới được hoàn thiện.
Trong thế kỷ vừa qua, y khoa đă chế ra vaccin pḥng bệnh lao BCG năm 1908, sốt vàng da năm 1937, bại liệt trẻ em năm 1955, bệnh sởi năm 1962, thủy đậu năm 1975 và nhiều loại thuốc ngừa các bệnh khác như bệnh quai bị, bạch hầu, cúm, viêm gan các loại, thương hàn, dịch tả, ho gà…
Bệnh đậu mùa, bệnh sởi đă được coi như bị xóa sổ trên thế giới, ngoại trừ một vài địa phương nhỏ. Trong tương lai gần đây, sẽ có vaccin pḥng ngừa sốt rét, và pḥng HIV/AIDS.
2- Thuốc kháng sinh
C̣n nhớ lại những năm tản cư ở Đông Triều, Cổ Vịt, dân chúng cố kiếm mua mấy viên Dagénan mang theo để chữa đủ bệnh nhiễm trùng. Đôi khi c̣n phải nhờ người vào “thành” mua lậu cho mấy ống, v́ thuốc mới quá hiếm. Viên Dagénan đă cứu sống nhiều người trong giai đoạn đó.
Theo định nghĩa, kháng sinh là chất do vi sinh vật tạo ra, có khả năng tiêu diệt hay ngăn ngừa sự tăng trưởng của vi sinh vật khác như vi khuẩn, nấm độc. Nhà bác học Pháp Louis Pasteur là người đầu tiên nhận ra đặc tính này.
Năm 1929, do sự t́nh cờ, Alexander Fleming tại bệnh viện St Mary Luân Đôn, thấy rằng mốc của nấm Penicillium natatum tiết ra chất Penicillin có thể giết chết được vi trùng. Nhưng ta phải đợi tới năm 1940, nhờ các nghiên cứu của H.W.Florey và E.B.Chain, thuốc Penicillin mới được sản xuất đại quy mô để trị bệnh.
Sự khám phá ra thuốc Penicillin được coi như một thành quả lớn của thế kỉ 20.
Thuốc trị vi trùng nhóm Sulfamid được bào chế năm 1932, Strepomycin trị lao năm 1943.
Ngày nay, kháng sinh có rất nhiều loại, trị được nhiều bệnh nhiễm trùng khác nhau, với cách dùng như uống, chích, bôi ngoài da. Nhưng v́ con người lạm dụng thuốc nên một số vi trùng trở nên nhờn mặt với vài loại kháng sinh.
3- Giải pháp nối-ghép bộ phận cơ thể
Phương pháp ghép bộ phận cơ thể hiện nay khá phổ thông và tiến bộ tới mức trước đây không ai nghĩ tới. Các bác sĩ giải phẫu mổ lấy bộ phận người này ghép thay vào bộ phận thiếu hoặc không hoạt động ở người khác, qua sự sang nhượng hay lấy từ người sắp chết tặng. Cũng có thể tự ghép bộ phận như ghép da, ghép nối động tĩnh mạch, dây thần kinh.
Truyền máu cũng là một h́nh thức chuyển ghép tế bào, và đă được thực hiện từ thế kỉ 17 ở Châu Âu, nhưng có nhiều tai nạn chết người do phản ứng của máu người cho và người nhận. Măi tới năm 1900, việc truyền máu mới được an toàn nhờ nhà bác học người Úc, Karl Landsteiner, t́m ra các loại máu A, B, O của con người.
Thận nhân tạo để lọc máu được sáng chế năm 1913.
Trường hợp ghép chuyển thận thành công đầu tiên vào năm 1954 được hai bác sĩ J.Hartwell Harrison và Joseph Murray, ở Boston, Hoa Kỳ thực hiện.
Năm 1963 các phẫu thuật gia bắt đầu thử thay phổi, thay gan, và hiện nay các sự thay ghép này đă được áp dụng.
Bác sĩ Christian N.Barnad, Nam Phi, giải phẫu thay tim đầu tiên vào năm 1967.
Một trở ngại thường gặp trong việc thay ghép là cơ thể người nhận đôi khi chối từ, tấn công bộ phận cho v́ những bất đồng cấu tạo, sinh lư.
Từ năm 1970, việc chuyển ghép bộ phận cơ thể được thực hiện thường xuyên, rộng răi nhờ thuốc Cyclosporin vô hiệu hóa việc đào thải mảnh ghép.
Hiện nay, mỗi năm riêng tại Hoa Kỳ có tới gần 3000 con tim được thay thế.
Tim nhân tạo cũng đă và đang được thử nghiệm, nhất là để tạm thời thay thế tim hư, chờ có tim cho.
Giác mạc mắt được thay ghép ít nhất trên 40,000 lần mỗi năm tại Hoa Kỳ do người sắp chết tặng. V́ số tặng không đủ, các khoa học gia, đặc biệt là bác sĩ May Griffith, đang nuôi giác mạc trong pḥng thí nghiệm.
Xin kể thêm là phổi sắt (máy thở) được dùng đầu tiên năm 1927 để hỗ trợ hô hấp cho người bị tê liệt mà phổi không tự thở được.
Và việc thay khớp xương hông nhân tạo được bắt đầu vào năm 1938.
4- Dược phẩm quan trọng
Thời cổ xưa, người ta coi bệnh tâm thần là do ma quỷ nhập hay là do thần thánh, thượng đế trừng phạt. Bệnh nhân bị cô lập, bỏ tù, trói cột, hành hạ, đôi khi bị thiêu sống. Cho tới thế kỷ 19, bọn con buôn c̣n mang triển lăm, để lấy tiền, những người điên, cười nói, khóc lóc vô cớ, hành động không kiểm soát.
Khi bác sĩ Philippe Pinel, tổ sư ngành tâm thần học, cởi thả những người bị điên loạn th́ cấp trên của ông ta bảo rằng anh điên hay sao mà thả họ ra. Pinel cho là cần phải có thái độ nhân đạo, hỗ trợ với người bị bệnh tâm thần.
Thuốc trị loạn tâm thần hưng trầm cảm Lithium được t́m ra năm 1949, và hiện giờ vẫn c̣n là thuốc căn bản trị bệnh này. Năm 1950, thuốc Chlorpromazin trị loạn tâm trí được bào chế.
Cho tới nay, đă có nhiều dược phẩm cũng như phương tiện khoa học để trị đủ loại bệnh tâm thần mỗi ngày mỗi tăng của thời đại.
Cách đây trên nửa thế kỉ, nếu có phương tiện công hiệu để trị bệnh cao huyết áp, bệnh tim mạch như ngày nay th́ có lẽ Tổng thống Hoa Ḱ F.D.Roosevelt không bị chết v́ các chứng xuất huyết trong bệnh cao huyết áp và suy tim của ông. Thực vậy, trong lănh vực này, đă có những tiến bộ vượt bậc về các phương thức điều trị.
Ngoài dược phẩm có giá trị cao, phẫu thuật nối động mạch cơ tim được bác sĩ DeBakey thực hiện vào thập niên 60, rồi đến sự thông động mạch vành tắc nghẽn bằng bơm bóng, bằng tia Laser, bằng lưỡi dao tí hon xoay tṛn mới đây, tất cả đă trở nên rất phổ biến.
Đồng thời sự hiểu biết tường tận về ích lợi của việc tập luyện cơ thể, cách thức giữ ǵn ăn uống quân b́nh, về nguy cơ gây bệnh của rượu, thuốc lá, cholesterol đă đóng góp rất nhiều vào việc ngừa, chữa bệnh tim mạch các loại, và hạ thấp mức tử vong.
Năm 1921, chất Insulin được Frederick Banting và Charles Best, Đại hoc Toronto, lấy từ tụy tạng chó là sự kiện quan trọng trong lịch sử y khoa học.
Insulin là kích thích tố duy nhất làm giảm đường trong máu và được tụy tạng tiết ra khi đường tăng cao, như là sau bữa ăn hay khi bị căng thẳng tâm thần. Khi đường trong máu lên quá cao, bệnh nhân bị hôn mê, có nguy cơ mạng vong.
Mặc dù không trị dứt được bệnh tiểu đường nhưng Insulin là một loại thuốc tối cần thiết cho người mắc bệnh này và Insulin đă giảm thiểu tử vong do hôn mê v́ lượng đường cao cũng như nhiều biến chứng trầm trọng về mắt, thận, tim.
Vào thập niên 60, thuốc viên ngừa thai ( the Pill) gồm kích thích tố Estrogen và Progesteron được tung ra thị trường, cùng lúc với phong trào đ̣i nam nữ b́nh quyền, đă giúp nữ giới tận hưởng thú vui ân ái mà không lo ngại mang thai.
Cũng trong phạm vi thai nghén, năm 1978, em bé ống nghiệm đầu tiên Louise Brown ra đời ở Luân Đôn, và tới nay, riêng tại Mỹ, Louise có ít nhất trên 100.000 người em trai gái cùng được thụ thai trong pḥng thí nghiệm, giữa những ống thủy tinh, thay v́ trên giường.
Rồi đây, hành động ái ân biết đâu chẳng chỉ là phương tiện để thỏa măn thú vui xác thịt chứ không cần thiết cho việc nối dơi tông đường.
5- Các phương pháp cơ khí trị liệu, t́m bệnh
Máy điện tâm đồ, đo hoạt động điện năng của cơ tim (Electrocardiograph) , được dùng đầu tiên vào năm 1903 để khám phá chứng huyết khối động mạch vành, rối loạn nhịp tim, rối loạn cơ tim.
Máy điều ḥa nhịp tim (pace maker) được hoàn tất năm 1957; mười năm sau chụp X quang tuyến vú được sử dụng để t́m kiếm ung thư cơ quan này.
Thực ra quang tuyến X được bác học người Đức Wilhelm Roentgen phát giác ra công dụng từ năm 1895, nhưng phải tới năm 1920, tia X mới áp dụng rộng răi. Rồi những năm gần đây, người ta có thể chụp h́nh từng bộ phận cơ thể dưới nhiều khía cạnh khác nhau (cắt lớp) với CT scan, PET scan, MRI.
Về con mắt, vào những thập niên cuối của thế kỉ đă có một tiến bộ tuyệt hảo trong việc chữa các tật cận thị, viễn thị, bong tróc vơng mạc bằng tia Laser, giúp cho nhiều người lấy lại được thị lực mà không cần mang kính điều chỉnh.
Tia Laser c̣n được sử dụng vào nhiều giải phẫu trị liệu khác, vừa ít đau vừa thu ngắn thời gian trên bàn mổ mà lại mau phục hồi.
6- Nh́n về tương lai
C̣n nhiều thành quả khác có thể coi là ngoạn mục, cổ kim không ai nghĩ tới , của nền y khoa học trong thế kỉ vừa qua, những thành quả đă giúp con người sống lâu hơn, sống khỏe mạnh tích cực hơn.
Ngoài ra, cũng có nhiều phát minh, sáng kiến được mạnh nha nhưng có nhiều hứa hẹn thành công để hiểu rơ hơn nguyên nhân chính của bệnh tật, từ đó đưa ra phương thức điều trị.
Người ta nói tới sự thiết lập Dự Án Bộ Gen Con Người với đầy đủ mă số thông tin. Gen là yếu tố di truyền căn bản, mà khi bị đột biến sẽ là nguyên nhân gây nhiều bệnh tật cũng như đẩy nhanh diễn tiến lăo suy.
Trong tương lai, sẽ trị bệnh bằng cách sắp xếp lại cấu trúc Gen, và mỗi người sẽ có một Chip AND với toàn bộ danh mục Gen lành, Gen bệnh.
Sẽ không c̣n nối tắt động mạch vành bị tắc nghẽn, mà có phương pháp kích thích cơ tim tạo ra động mạch vành mới thay thế cho động mạch nghẽn.
Bằng kỹ thuật sinh sản vô tính, người ta đă tạo ra một con cừu do sự phối hợp của tế bào thường với trứng không nhân của con cừu cái khiến nhiều nhà tôn giáo, đạo đức đă cau mặt e ngại một ngày nào đó con người cũng được sinh sản vô tính.
Sẽ có thuốc chặn sự nuôi dưỡng, tăng trưởng tế bào ung thư khiến chúng bị hủy diệt hay gửi những “siêu trùng Kinh Kha” đột nhập tế bào ung thư để tiêu hủy.
Và bộ phận cơ thể sẽ được cấu tạo từ những tế bào gốc (stem cells) để thay thế cho trái tim già nua, lá gan suy yếu.
Kết luận
Sáng hôm đó, mở Internet coi tin tức, hoa hậu Vũ Trụ Ngân Giang thấy một quảng cáo của Viện Sinh Bào BAGIAI, Inc như sau:
“Các nhà Bác Vật của Viện nghiên cứu chúng tôi vừa mới hoàn tất một CHIP-DNA có 64 genes được xếp theo bộ tế bào thượng hạng số 76/69/35 bảo đảm không mắc mười ba loại bệnh ung thư, không bị dị ứng với hải sản, không bị nhồi máu cơ tim, phong t́nh nhập cốt và có thương số trí tuệ 109.
Quư vị có thể đặt mua CHIP-DNA này ngay từ bây giờ, bán “sêu” tới hết ngày 3/5/2035, và nhớ dùng CHIP này một tuần lễ trước ngày qúy bà dự trù có thai để có một đứa con lành mạnh, nhiều bản lănh, bảo đảm sẽ làm lănh tụ ở tuổi 36.
Mua trước ngày kể trên, quư vị sẽ được bổn Viện Trưởng thân thương tặng một kư lô xà bông giặt quần áo VŨ TẠO số 1 làm bằng nhiên liệu nhập, một phiếu miễn phí làm niềng răng bằng thủy ngân tại nhà trồng răng MINH SINH Hàng Bông Thợ Nhuộm”.
Người Đẹp đưa tay lấy cây bút máy nguyên tử cài trên vành tai, kư chi phiếu trên màn ảnh máy vi tính, trả tiền, mua liền một lúc hai CHIP, tự nhủ: một trăm hai mươi sáu ngàn tiền đô, mai đây sanh con trai cho làm Tổng Thống, con gái nối ngôi Hoa Hậu, rẻ chán!!!.
Chuyện Tôm Hùm Bắc Mỹ
13/08/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
CHUYEN TOM HUM NUOC MY 01
Coi chừng nó kẹp đó- em ơi? tượng tôm hùm tại shediac, new brunswick miền đông canada
Tại Canada, từ tháng 4 tới tháng 7 hằng năm là mùa tôm hùm (homard, lobster).
Đây là một loại tôm biển.
Nên phân biệt tôm hùm lobster với một loại tôm hùm nước ngọt tương tự mà người ta gọi là crawfish hay crayfish có rất nhiều tại vùng Kentucky và Louisiana.
***
Tôm hùm Pháp, tôm hùm Mỹ
Tôm hùm Tây hay tôm hùm Âu Châu (Pháp gọi là Homard Breton) có tên khoa học là Homarus gammarus.
Tôm hùm Mỹ hay tôm hùm Canada có tên khoa học là Homarus americanus, đặc biệt hai càng rất to thấy dễ sợ.
Tôm hùm Mỹ sống tại vùng biển Đại Tây Dương. Có rất nhiều tại tiểu bang Maine của Mỹ, cũng như tại các vùng biển phía Đông Canada như Prince Edward Island, Gaspésie, Ile de la Madeleine...
Ngoài ra, Shediac, một thành phố ven biển của Canada thuộc tỉnh bang New-Brunswick, cũng được mang danh là thủ đô tôm hùm cho cả thế giới. Nhưng nên nhớ đây chỉ là danh hiệu họ tự đặt ra nhằm mục đích để quảng cáo cho ngành du lịch tại thành phố nầy mà thôi.
Ngư dân đánh bắt tôm hùm bằng cách thả những lồng (có chứa mồi cá) xuống đáy biển cho tôm chui vô nạp mạng. Bộ ngư nghiệp Hoa Kỳ và Canada kiểm soát rất chặt chẽ, họ quy định ra những điều kiện và luật lệ để đánh bắt tôm hùm.
Tôm hùm sống ở đâu?
Tôm hùm sống tại những vùng nước sâu, và di chuyển trong đêm để t́m mồi trên những lớp đá hay lớp cát dưới đáy biển.
Tôm hùm có 5 đôi chân
Tôm hùm có 5 đôi chân. Đôi đầu tiên to nhất và tận cùng bằng 2 cái càng rất đồ sộ và rất mạnh (thật ra một cái để cắt c̣n một cái để nghiền). Càng để nghiền có thể nằm phía trái hay phải. Đôi khi tôm có thể có cả hai càng đều giống nhau. Càng thường dùng để cắt.
Tôm ḅ đi hay di chuyển dưới đáy biển bằng chân, hoặc co bụng lại và bung ra để vọt về phía sau.
Khi c̣n trong giai đoạn tôm con, chúng có thể lội nhờ các vi swimmerets.
Khi lớn lên, khi đă trong giai đoạn trưởng thành rồi, tôm không lội được mà chỉ đi trên đá hay trên cát ở dưới đáy biển mà thôi.
Làm sao phân biệt được tôm cái và tôm đực?
Lật ngữa và quan sát phía dưới bụng tôm.
Chúng khác nhau ở chỗ đôi vi (nageoires, swimmerets) đầu tiên nằm ngay nơi giáp nối bụng và thân.
***Ở tôm cái, hai cái vi nầy rất bé nhỏ và mềm mại. Ngược lại, hai vi nầy dài, cứng và nhọn hơn ở tôm đực (xem h́nh).
Bên trong tôm hùm, chúng ta thấy ǵ?
Con cái: Hai buồng trứng ovaires, nơi sản xuất ra trứng. Phần nầy chạy dài một đoạn theo bụng tôm…Khi cắt đuôi theo chiều dài, chúng ta thấy một lằn dài khá to màu đỏ, đó là buồng trứng với các trứng chưa thụ (non fertilisés), có thể ăn được…Đôi khi thấy một chất màu đen, đó là các trứng sắp được đẻ nhưng bị tóp lại lúc tôm cái vừa mới bị đánh bắt. Thay v́ đẻ ra, chúng lại biến dạng thành một chất lỏng. Chất vitello protéine nằm trong trứng được phóng thích vào trong máu và biến thành màu đen. Màu coi mất cảm t́nh nhưng ăn vẫn thấy ngon.
Con đực: Dịch hoàn testis dưới dạng hai lằn trắng và nằm ngay bên dưới tim.
Gan tụy tạng hépatopancréas. Đây là một bộ phận quan trọng chiếm trọn một phần lớn của phía trước thân tôm (céphalothorax). Có thể xem đây là gan. Có màu xanh lá cây khi tôm chín. Ăn ngon và béo.
Tôm có hai bao tử là bao tử tim (estomac cardiaque) và bao tử tiêu hoá (estomac pylorique). Bao tử tim có nhiều răng để tôm nghiền thức ăn.
Tôm thấy bằng chân?
Đây chỉ là một cách nói mà thôi.
Chân tôm có chứa nhiều thụ thể tiếp nhận récepteurs. Chính các thụ thể nầy giúp tôm biết được vị trí và nhận biết các loại thức ăn hiện diện trong môi trường xung quanh.
Ngoài ra, miệng và hai cái râu được xem như hai antennes có chứa nhiều thụ thể để xác định các mùi vị hóa học, vân vân
Nếu tôm mất một càng hay một chân hoặc một râu th́ cũng chả sao cả, v́ chúng có thể sẽ mọc trở lại trong thời kỳ tôm lột xác (mue) sắp tới.
Khi gặp nguy hiểm cần thoát thân, tôm chạy thụt lùi bằng cách co bụng lại rồi bung ra thật nhanh để vọt ngược ra phía sau.
CHUYEN TOM HUM NUOC MY 02
Tôm hùm có đủ màu Sắc
Khi c̣n sống: có tôm đỏ, tôm xanh dương (blue), tôm bạch tạng trắng nhách (albino), tôm calico (màu sậm với đốm vàng)…
Khi chín rồi: tất cả tôm hùm đều có màu đỏ, ngoại trừ tôm bạch tạng.
Nhiệt độ làm thay đổi sắc tố liên hệ đến màu đỏ và phá vỡ đi các nối liaisons giữa chúng với nhau. V́ đây là sắc tố căn bản của vỏ tôm, chịu đựng được sức nóng, nên vỏ trở thành đỏ khi tôm bị nấu hay nướng chín.
Tôm bạch tạng vẫn giữ y màu trắng dù đă bị nướng chín đi v́ vỏ tôm không có mang sắc tố.
Ăn phần nào?
Theo dân sành điệu th́ con cái cho thịt ngon hơn con đực nhứt là vào mùa đẻ trứng.
Đi chợ, chúng ta cũng thường thích lựa tôm cái mà thôi v́ có nhiều gạch, nhiều trứng ăn ngon và béo, tuy nhiên người bán đôi khi không chịu như thế, biểu ḿnh lựa có cái có đực để…chừa cho người sau với.
Phần sử dụng để ăn là phần nằm trong đuôi, trong các chân nhỏ, trong 2 cái càng kẹp và phần nằm dưới lớp vỏ cũng như phần nằm trong thân như gan có màu xanh lá cây.
Phần thịt khó lấy nằm trong 2 cái càng có thể xem là phần thịt ngon nhất.
Thịt chiếm 30% trọng lượng của con tôm.
Tôm hùm có bổ không?
Chắc chắn là phải bổ rồi. Tôm hùm nghèo chất béo nên ít calorie...
Cholestérol? không nhiều lắm: 3oz # 100g tôm hùm chín chỉ chứa có 60mg cholestérol (nếu không có thêm các chất béo nào khác lúc nấu hay nướng hoặc lúc ăn)
Phải luộc tôm hùm trong bao lâu?
Tùy theo trọng lượng:
- tôm nặng 1lb-1¼ lbs: cần 1.5 lít nước + 38ml muối. Con đực cần 10 phút và con cái 12 phút.
- tôm nặng 2lbs: cần 4.5 lít nước + 125ml muối. Con đực cần 16 phút và con cái 20 phút.
Cách giữ tôm khi mua về
*/ Giữ trong tủ lạnh
Tôm hùm có thể giữ sống trong 12 tiếng đồng hồ bằng cách quấn tôm trong vải ướt và cất trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4 độ C.
Không bao giờ cất giữ tôm hùm sống trong bao plastic bịt kín mít.
C̣n vỏ hay đă lột vỏ rồi, tôm hùm có thể để trong tủ lạnh khoảng một hai ngày.
Tránh để tôm hùm quá lâu bên ngoài.
Không cất giữ trong tủ lạnh (4 độ C) một con tôm hùm c̣n nóng (mới nấu hay nướng) để tránh cho tủ lạnh có mùi hôi. Nên chờ cho nguội rồi hăy cất vô tủ lạnh.
*/ Giữ bằng cách làm đông lạnh
Dưới đây là những cách để làm đông lạnh tôm hùm:
- nấu tôm cho chín, để ráo nước rồi mới đông lạnh;
- chờ cho nguội, gỡ thịt ra, bỏ vào hộp và đem đông lạnh;
- có thể chế vào thịt tôm một dung dịch nước muối gồm 2cc muối trong 1 tách nước;
- có thể giữ thịt tôm trong bao plastic sau khi ép lấy hết không khí ra.
Thịt tôm có thể giữ đông lạnh trong ṿng một tháng.
Giải đáp thắc mắc của người tiêu thụ
- Tại sao tôm tươi có dính chất nhầy đen dưới bụng? Tôm bị bắt trong thời gian đẻ trứng. Trứng tôm tóp lại và thải chất vitello proteine từ trứng vào máu tạo nên chất nhầy màu đen. Ăn không sao. Có thể rửa đi nếu không thích!
- Tôm cái ăn ngon hơn tôm đực? Không chắc lắm đâu. Người ta thích tôm cái v́ có nhiều trứng ăn béo. Ngược lại tôm đực có càng nghiền to cho nhiều thịt hơn càng nghiền của tôm cái!
- Tôm cái đẻ bao nhiêu trứng? Vài ngàn trứng tùy theo tầm vóc của tôm. Tuy nhiên, trong 10.000 trứng đẻ ra, chỉ có một con tôm đạt được đến giai đoạn trưởng thành!
- Tôm bán ở chợ là loại được mấy tuổi? Không thể biết tuổi tôm nếu dựa theo tầm vóc của nó. Tốc độ tăng trưởng tùy vào nhiệt độ của nước biển. Nước càng nóng, tôm càng mau lớn. Tại Iles de la Madeleine/Québec, tôm hùm đạt dến kích thước thương mại 25cm vào khoảng 8 tuổi!
- Tôm hùm sống bao lâu? Khoảng chừng 50 năm!
- Tôm hùm ăn những ǵ? Cầu gai, ṣ, ốc, hến, cua, tép, cá, xác thú chết, vân vân.
- Vận tốc di chuyển của tôm hùm? Thường đi chậm bằng chân dưới đáy biển. Lúc cảm thấy hiểm nguy, tôm sẽ co bụng lại rồi bung ra, vọt ngược về phía sau, có thể đạt đến 5mét/giây!
- Tôm hùm có nhăn quan tốt không? Rất tốt, mắt tôm rất nhạy cảm với ánh sáng, kể luôn lúc trời tối. Tuy nhiên, h́nh ảnh không mấy rơ rệt. Bù lại, nó rất nhạy cảm với mùi và chấn động nhờ vào các râu antennes và các thụ thể tiếp nhận récepteurs nằm rải rác trên thân!
- Mùa đánh bắt trong năm? Mỹ và Canada bắt đầu cho phép đánh bắt tôm hùm lúc hết nước đá trên biển lối tháng 4 và thường chấm dứt vào lối cuối tháng 7... Riêng tại Canada, có nơi bắt đầu cho phép đánh bắt tôm vào tháng 11…Có 41 vùng đánh bắt tôm hùm (ZPH) được phân phối cho các tỉnh bang Québec, New Brunswick, Nova Scotia, PEI và New Foundland-Labrador. Đây là những khu vực đánh bắt cận duyên, cách bờ không quá 15km…Ngoài ra, có vùng pêche hauturière đánh bắt viễn duyên, xa bờ lối 90km, chẳng hạn như vùng phía Tây Nam tỉnh bang Nova Scotia. Ngư dân có thể đánh bắt tôm vào tháng 11.
- Hai càng tôm có giống y nhau không? Không. Một cái để nghiền và một cái có răng nhỏ để cắt mồi!
- Làm sao biết tôm hùm đă chín rồi? Vỏ tôm có màu đỏ tươi, chân và râu dễ gỡ ra, gan tomalley hay hepatopancreas rắn chắc và có màu xanh lá cây!
- Tôm có biết đau không? Tôm là loài không có xương sống. Hệ thần kinh của tôm rất sơ khai như của loài cào cào. Bởi lư do nầy, tôm không thể cảm nhận được sự đau đớn như chúng ta!
- Có nên ăn gan tôm (lobster tomalley) không? Gan tôm tomalley, hepatopancreas tức là phần mềm xanh xanh bên trong thân khi tôm chín. Gan “có thể” tích tụ nhiều độc tố. Ăn vào, chúng ta có thể bị ngộ độc, ngứa ngái… Giới chức y tế khuyến cáo chúng ta không nên ăn gan tôm…Tuy nói vậy, nhưng nhiều người cũng vẫn ăn v́ nó béo!
CHUYEN TOM HUM NUOC MY 03
Tôm hùm xào gừng ngon hết BIẾT (H́nh JimmyNguyễn Blog)
Các giai đoạn ăn tôm hùm
Trước hết, chuẩn bị sẵn các dụng cụ hay đồ nghề dùng để lấy thịt tôm ra như kềm, kéo, v.v…có bán trong các chợ, sau đó lấy khăn ăn đeo vào cổ, cẩn thận coi chừng nước từ trong tôm có thể văng trúng người ngồi bên cạnh, và bắt đầu:
1)Tách rời các chân: để qua một bên;
2) Gỡ hai cái càng ra để lấy thịt: cần sử dụng dụng cụ đặc biệt như casse noisette (loại dùng để bóp cho hạt dẻ bể ra). Lấy nĩa hay dùng ngón tay kéo lôi thịt ra ngoài;
3)Tách rời cái đuôi ra khỏi thân tôm: dùng cả 2 tay (coi chừng làm văng nước tùm lum) vừa xoay, vừa kéo đuôi ra khỏi thân, sau cùng dùng nĩa kéo hết thịt ra;
Chú ư: Trong giai đoạn nầy chúng ta thấy bộ phận tiêu hóa của tôm nằm ngay phía sau cái đầu. Phần nầy có màu xanh lá cây và có thể dùng được. Gỡ bỏ ruột tôm ra. Đây là một mạch nho nhỏ màu đen chạy dài đến cuối đuôi. Lấy ra dễ dàng bằng cách tách thịt ra làm hai theo chiều dài của đuôi.
4) Ăn, nút các chân tôm;
5) Ăn các phần thịt dính trong thân tôm, dùng tay bẻ ra làm bốn.
Cũng đừng quên thỉnh thoảng làm một hớp “ông già đi bộ” cho...nóng máy lên, ăn mới ngon và lại c̣n cho dễ tiêu nữa.
Kết luận
Tôm hùm là món ăn ngon, sang trọng, thường được dùng trong các buổi tiệc cưới tại nhà hàng Tàu hoặc trong những dịp lễ đặc biệt ở nhà để chiêu đăi khách quư hay bạn bè, nhất là lúc vừa chớm vào hè.
Đôi khi chơi sang, mua về ăn v́…thèm quá. Ăn vài ba lần tôm hùm trong một năm cũng không phải là điều ǵ quá đáng.
Đúng vào mùa tôm, giá cả tôm hùm tươi tại Canada lối 7-8$/lb, thỉnh thoảng cũng có giá đặc biệt special price khoảng 5.99$/lb...
Mỗi con dài cỡ 25cm trở lên. Một con tôm hùm nặng lối 750gr cũng đủ dùng cho một người.
Ngoài mùa, các siêu thị chỉ bán tôm đă được luộc sẵn rồi mà thôi.
Người Tây hay Mỹ thường ăn tôm hùm luộc hoặc nướng. C̣n người Việt Nam ḿnh, ngoài món luộc và nướng ra, th́ c̣n có những món như tôm hùm xào gừng ăn chơi hoặc nhậu lai rai hay tôm hùm nướng thơm lừng ăn với bún hoậc bánh hỏi cùng với nước mắm tỏi ớt, v.v…Hết xẩy, ngon ơi là ngon!
Ăn tôm hùm th́ tuyệt, nhưng có hơi bất tiện v́ cần phải có những dụng cụ như kềm, kéo đặc biệt, vân vân để cắt, để lôi thịt ra ngoài.
Nhưng nếu bạn không có dụng cụ th́ lấy đỡ cái búa nho nhỏ đập càng cho bể ra, văng tùm lum tùm la rồi chịu thương chịu khó quét dọn lại sau đó cũng được vậy. Nghề…ăn chơi cũng lắm công phu mà.
C̣n làm biếng th́ đến một restaurant Tàu/Việt ở đường Beaubien không xa Langelier (Montréal) chỉ con tôm nào ḿnh ưng ư trong hồ kiếng. Họ vớt ra đưa vô bếp úm ba la, 15 phút sau bưng ra một dĩa tôm xào gừng c̣n bốc khói kiểu tiệc cưới. Cam đoan ngon hết chỗ chê. Đây là chuyện 10 năm về trước, ngày nay chắc họ dọn đi rồi?
Yogurt hay sữa chua lên men là một loại thực phẩm mà ai cũng đều biết hết.
Đây là một loại thức ăn ngon miệng đồng thời cũng là một thực phẩm chức năng đầy tính bổ dưỡng.
Yogurt được làm từ sữa cho lên men bởi những loại vi khuẩn tốt, mà người ta gọi là Probiotics.
Vậy Probiotics (“trợ sinh”?) Prebiotics (tiền trợ sinh) và Synbiotics (hợp sinh?) là những chất ǵ?
***
Những vi khuẩn đồng minh của chúng ta
Biết rằng hệ tiêu hóa của chúng ta chứa thường trực trên 400 loại vi khuẩn khác nhau với tổng số trên 100 000 tỉ vi khuẩn.
Đây là những vi khuẩn có ích cho cơ thể. Chúng tạo thành hệ vi sinh đường ruột (intestinal flora).
Các vi khuẩn nầy giúp ích trong việc làm lên men vài loại glucid như chất cellulose mà cơ thể không hấp thụ được. Cellulose là một chất trong các loài thực vật.
Ngoài ra, hệ vi sinh cũng dự phần trong việc tổng hợp các vitamins nhóm B và hầu hết vitamin K mà gan rất cần đến.
Khi thế quân b́nh của hệ vi sinh bị lệch đi, ruột có thể bị cảm nhiễm và bệnh sẽ xuất hiện ra.
Nói tóm lại, hệ vi sinh đường ruột rất cần thiết cho việc tiêu hoá, hấp thụ dưỡng chất (nutriments) cũng như sự thải bỏ những cặn bă độc hại.
Probiotics là ǵ?
Đây là những vi khuẩn tốt, có ích lợi cho sức khỏe chúng ta. Chúng thường được thấy hiện diện trong đường tiêu hóa và ngay cả trong âm hộ. Sự hiện diện của probiotics giúp ngăn chặn tác hại của các vi khuẩn xấu (pathogens) xâm nhập vào ruột.
Có nhiều loại vi sinh vật được sữ dụng như Probiotics, đó là vi khuẩn nhóm lactic (bactéries lactiques) như Bifidobacterium và Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột hoặc là một vài loại men (levure).
Thí dụ điển h́nh về probiotics là vi khuẩn Bifidobacterium và vi khuẩn Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột.Các loại vi khuẩn nầy có khả năng tạo ra lactic acid khi chúng phân hủy đường lactose.
Hai loại vi khuẩn nầy từ lâu đă được Nhật Bản và Âu Châu sử dụng trong kỹ nghệ sản xuất sữa chua lên men.
Tại Hoa Kỳ, trên 60% yogurt có chứa Bifidobacterium và Lactobacillus.
Trong kỹ nghệ yogurt, các probiotics sau đây thường được thấy sử dụng: Bifidobacterium bifidum, Bifidobacterium breve, Bifidobacterium infantis, Bifidobacterium longum, Lactobacillus acidophilus và Lactobacillus casei.
Muốn được hiệu nghiệm, probiotics cần phải là vi khuẩn sống.
Để đạt kết quả tốt, phải cần ít nhất một tỉ vi khuẩn sử dụng như Probiotics mỗi ngày v́ những vi khuẩn nầy chỉ ở tạm trong ruột mà thôi.
Trở ngại thường gặp là acid của dịch vị tiêu hóa có thể hủy diệt lối 90% probiotics ăn vào. Để bù đấp sự mất mát nầy mà chúng ta cần tiêu thụ một số lượng probiotics thật lớn.
Chúng ta cũng có thể uống những viên thuốc probiotics có áo bọc bên ngoài để chỉ tan ra lúc vào đến ruột mà thôi.
Nên uống Probiotics lúc bụng tróng,và trường hợp nếu có uống thuốc khác th́ phải cách nhau hai giờ.( Julie Véronneau,Pharm)
Tại Canada, luật lệ về bao b́ nhăn hiệu quy định sản phẩm probiotics cần phải được ghi chú rơ rệt về nồng độ vi khuẩn sống (active) hay U.F.C (unités formatrices de colonies) cho mỗi gram sản phẩm.
Prebiotics là ǵ?
Đây là những thức ăn của Probiotics. Nói rơ hơn là những chất bột đường glucide không tiêu hóa dược và vẫn c̣n nguyên vẹn khi vào đến ruột già (colon). Tại nơi đây chúng kích thích sự hoạt động của probiotics dặc biệt là nhóm Bifidobacterium.
Prebiotic giúp vào việc cải thiện hệ miễn dịch, giúp hấp thụ chất calcium, và có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại cancer nữa.
Prebiotic có thể hiện diện một cách tự nhiên trong một số thực phẩm,chẳng hạn như củ hành, rau diếp xoắn chicory, củ cây cúc vu topinambour (helianthus tuberosis) và artichaut
Cây cúc vu (danh pháp khoa học: Helianthus tuberosus L.), là một loài thực vật có hoa, có nguồn gốc Bắc Mỹ và được trồng trong khu vực ôn đới để lấy phần thân củ mà người Việt quen gọi là củ dùng làm rau ăn củ.(wikipedia).
Topinambour là thực vật bà con với artichaut. Củ topinambour rất giàu Inuline một chất bột đường glucide, có ích trong việc giúp vi khuẩn bifidobacterium phát triển mạnh trong ruột. Đồng thời chứa nhiều chất sắt và potassium, vitamins…
Rất tốt để cải thiện trường hợp bệnh tiểu đường type II và mỡ cao trong máu.
Một khảo cứu trên chuột của Unversité catholique de Louvain (2011) cho biết prebiotic tác động vào hệ vi sinh đường ruột và mệnh lệnh đuợc truyền lên năo để kiểm soát sự nhạy cảm của hormon leptin. Hormon nầy giúp ích trong việc thu nạp và sử dụng năng lượng trong tế bào và kiểm soát sự đói bụng appetite.
Kết quả thí nghiệm trên cho biết prebiotic trong thức ăn rất tốt để giúp kiểm soát hiện tượng béo ph́ và bệnh tiểu đường type II.
We conclude that specific gut microbiota modulation improves glucose homeostasis, leptin sensitivity, and target enteroendocrine cell activity in obese and diabetic mice. By profiling the gut microbiota, we identified a catalog of putative bacterial targets that may affect host metabolism in obesity and diabetes.
Synbiotic là ǵ?
Một vài loại sản phẩm có chứa đồng thời vừa probiotic và vừa prebiotic, người ta gọi chúng là những Synbiotics.
“Synbiotic is a mixture of pro- and prebiotics, which beneficially affects the host by providing the survival and implantation of selected live microorganisms in the GI tract. The market for prebiotics, probiotics or “healthy” bacteria and synbiotics continues to grow as awareness of their health benefits increases. Nowadays, even some manufacturers are promoting the prebiotic effects as more useful than the probiotic bacteria that they feed”(Tiến Sĩ Bùi Quốc Quang).
Đôi khi nhà sản xuất cho trộn thêm vào yogurt những chất fructo oligosaccharides trích từ Inuline (là một glucide) của Rau diếp Xoắn Chicorée (Chicory, wild succory). Chất thêm vào nầy được gọi là Prebiotic và có công dụng giúp cho probiotics tăng trưởng mạnh hơn.
Thí dụ điển h́nh tại Canada, sản phẩm sữa Additio de Nutrimor có chứa bốn loại vi khuẩn gốc lactic (Bifidobacteriumlact is BB-12, Lactobacillus acidophilus LA-5, Lactobacillus bulgaricus, Streptococcus thermophilus) và Inuline là một prebiotic. Sữa hiệu Vitalité de Lactantia có chứa Inuline (4gr/250ml).
Nước trái cây hiệu Tradition Vision Santé chứa 2g/250ml, và đồng thời cũng chứa 3 tỉ probiotics.
Các thí nghiệm cho thấy, mỗi ngày tiêu thụ 4g prebiotic là đũ nhu cầu rồi. C̣n nếu tiêu thụ trên20 gr sẽ bị bị đau bụng và trướng hơi bụng.
Probiotics có ích lợi ǵ cho sức khỏe?
Theo giới thuốc thiên nhiên, kỹ nghệ sữa cũng như ư kiến của một số nhà dinh dưỡng th́ yogurt là một thực phẩm chức năng (functional food) rất tốt cho sức khỏe.
Probiotics có thể đem đến cho cơ thể những lợi ích sau đây:
*Cải thiện sự quân b́nh của hệ vi sinh đường ruột bằn cách làm gia tăng sự hiện diện của vi khuẩn tốt trên số lượng vi khuẩn xấu (như E coli, Salmonella)
*Ngăn chặn sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh bằng cách cản chúng bám vào thành ruột.
*Giúp cho việc tiêu hóa thức ăn được hữu hiệu hơn. Cải thiện sự hấp thụ dưỡng chất. Dễ đi cầu.
Đối với những người thường bị chứng bất dung nạp đường lactose (intolérance au lactose) th́ probiotics sẽ giúp chất đường nầy được tiêu hóa dễ dàng hơn.
* Giảm nguy cơ bị tiêu chảy do uống quá nhiều thuốc kháng sinh (antibiotic associated diarrhea hay AAD).
* Điều hoà hệ miễn dịch.
* Ngừa cancer ruột.
* Giảm cholesterol trong máu.
* Giảm thiểu hiện tượng dị ứng.
* Các thí nghiệm gần đây cho biết probiotics cũng có ít nhiều tác dụng tốt trong việc chữa trị các bệnh viêm ruột gây tiêu chảy do virus và do vi khuẩn Clostridium difficile.
Có quảng cáo c̣n đi xa hơn nữa, như cho rằng…probiotics giúp vào việc quân b́nh của các hormones, ngừa viêm đường tiết niệu và viêm âm hộ, ngăn ngừa chứng loăng xương, ngăn chặn tác dụng độc hại của tia phóng xạ và của các kim loại nặng, ngừa chứng hôi miệng và giảm stress, v.v…
Trên đây là những ǵ kỹ nghệ probiotics đă quảng cáo.
Tại Canada và Hoa Kỳ, probiotics chỉ được xếp vào loại thực phẩm bổ sung (dietary supplement) mà thôi..
Ở dạng bột và dạng viên, probiotics phải chịu sự chi phối của cơ quan FDA thông qua luật Dietary Supplement Health and Education Act Standards...
Trường hợp dùng để làm lên men yogurt, kefir (cũng là nột loại sữa lên men) th́ probiotics được xem như nằm trong thành phần b́nh thường của sản phẩm...
Trường hợp kỹ nghệ muốn sử dụng một loại vi khuẩn nào đó như một probiotic để thêm vào sản phẩm, vi khuẩn nầy cần phải được FDA xét duyệt và công nhận là nằm trong nhóm vi khuẩn an toàn gọi là GRAS (Generally Recognized as Safe).
Vấn đề probiotics c̣n rất phức tạp và chưa rơ rệt cho lắm nên các cơ quan y tế của Canada lẫn Hoa Kỳ chỉ cho phép ghi chú trên món hàng những câu quảng cáo (claims) chung chung như “giúp cho hệ vi sinh đường ruột được tốt” (supports a healthy intestinal flora) mà thôi.
Nên mua loại probiotics nào?
Tốt hơn hết là nên chọn những sản phẩm có chứa những probiotics nào đă từng được nghiên cứu nhiều, như Lactobacillus casei, Lactobacillus rhamnosus…
Nên chọn các vi khuẩn có tính cộng lực với nhau v́ mỗi loại vi khuẩn có khuynh hướng tác động tại những nơi chuyên biệt khác nhau chẳng hạn như Lactobacillus có tác động chủ yếu trên ruột non c̣n loại Bifidobacterium th́ tác động trên ruột già.
Tại Quebec, sản phẩm yogurt thường có chứa các loại probiotics như Lactobacillus bulgaricus, Streptococcus thermophilus, Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus casei và Bifidus…
+chọn những viên có áo bọc để tránh bị acid của bao tử làm tổn hại vi khuẩn.
+nên biết là yogurt loại chúng ta thường mua ở siêu thị đều chứa rất ít vi khuẩn.
+nên mua những loại yogurt dùng để trị liệu (yogurt thérapeutique) v́ có chứa số lượng lớn vi khuẩn cần thiết. Có thể mua trong các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên.
+tránh mua yogurt có pha trộn thêm nhiều loại trái cây.
+tốt nhất nên mua những loại yogurt ferme hoặc nature hay plain.
Số lượng vi khuẩn sống có hoạt tính cũng có thể rất thay đổi tùy theo nhăn hiệu yogurt.
Kết luận
Hiện nay trên thị trường, probiotics cũng như Omega-3 nhờ khéo quảng cáo đă trở thành những mặt hàng đang lên rất mạnh mẽ trên khắp thế giới...
Kỹ nghệ sữa và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên đều hết lời ca tụng probiotics và xem nó như là một thực phẩm bổ sung mang những tính năng pḥng trị được rất nhiều bệnh tật.
Ngược lại, phía y khoa th́ dè dặt hơn. Họ cũng công nhận rằng probiotics là vi khuẩn tốt cho sức khỏe, nhất là trong việc củng cố hệ vi sinh đường ruột và ngăn chặn bệnh tiêu chảy do việc lạm dụng thuốc kháng sinh gây ra.
C̣n đối với các tính năng khác của probiotic th́ các bác sĩ khuyên chúng ta cần phải thận trọng dè dặt hơn v́ lẽ c̣n thiếu rất nhiều xét nghiệm lâm sàng cùng các khảo cứu khoa học đáng tin cậy.
Người ta tự hỏi phải chăng cơn sốt probiotics chẳng qua chỉ là một đ̣n khuyến măi của kỹ nghệ sữa?
Nhưng dù có nói sao đi nữa, chúng ta phải nh́n nhận rằng yogurt là một thức ăn ngon miệng và rất tốt cho tất cả mọi người bất luận tuổi tác già hay trẻ.
Tại sao chúng ta không dám thử?
Tham khảo:
Julie Veronneau, pharmacienne. Les Probiotiques; Québec Pharmacie Vol. 55 No 11, Dec 2008-Jan 2009
Isabelle Huot, Dre en Nutrition.Prébiotiqu es et Probiotiques. Bel Âge Magazine , Fev 2008 http://www.lebelage.ca/les_probiotiq...es-complet.php
American Diabetes Association Journal-Responses of gut microbia and glucose and lipid metabolism to prebiotics in genetic obese and diet induced leptin resistant mice http://diabetes.diabetesjournals.org...27.short?rss=1
Mỗi ngày ta hít thở khoảng 18,925 lít không khí.
Thở có hai nhiệm vụ:
Thứ nhất là nó cung cấp cho cơ thể dưỡng khí cần để đốt thực phẩm và cho dưỡng khí. Thứ hai là nó thải ra thán khí là chất không cần của đời sống.
Dưỡng khí là chất hơi chiếm khoảng 20 phần trăm không khí mà ta hít vào phổi. Không khí thở ra chứa nhiều thán khí.
Mặc dù thở là không tự chủ, tuy nhiên ta có thể du di nó một phần nào. Thí dụ ta có thể lấy hơi thật lớn trước khi lặn ở dưới nước.Ta cũng có thể ngưng thở nhưng đừng ngưng lâu quá; phản ứng không tự chủ bắt con người thở quá mạnh khiến ta không thể tự tử bằng cách ngưng thở.
2-Khi ta “hết hơi” th́ chuyện ǵ xẩy ra?
Trong khi vận động mạnh, bắp thịt của ta có thể đă dùng hết dưỡng khí mau hơn là tim cung cấp và phổi có thể thay thế.Tạo hóa đă cung gắn sự cấp cứu này bằng cách cho phép các cơ bắp mắc nợ dưỡng khí một thời gian ngắn. Khi món nợ này đă được trả, ta có thể ở trạng thái “hết hơi” và chúng ta sẽ tiếp tục thở hổn hển.
3-Tại sao ta ngáy và có cách điều trị không?
Ngáy là hơi thở mạnh và khó khăn trong khi ngủ. Người lớn đôi khi ngáy khoảng 45 lần nhưng trung b́nh là 25 lần.
Nguyên nhân là do nghẹt mũi, lớn lên của lưỡi hoặc cục thịt dư, lệch vách ngăn của mũi, nằm ngửa và lưỡi cản trở hơi thở.
Ngáy có thể nguy hiểm và gây ra nghẹt thở tạm thời. Nếu có khoảng sáu hoặc bẩy cơn như vậy trong ṿng một giây đồng hồ sẽ gây ra nghẹt thở và cần đi thăm bác sĩ. Thiếu dưỡng khí có thể đưa tới cao huyết áp và mất ngủ kinh niên.
Ngáy vừa phải có thể được chữa bằng vận đông và giảm cân hoặc không uống rượu, thuốc ngủ hoặc thuốc an thần trước khi ngủ.
4- Tại sao ta ngáp?
Nếu chúng ta thấy một người ngáp khi bước ra khỏi rạp chiếu bóng, đừng cho là tại phim dở. Trái với ư kiến chung, ngáp không phải là dấu hiệu của sự buồn chán. Nếu ta ngáp, giản dị là chúng ta cần dưỡng khí và khi ngáp, dưỡng khí sẽ vào phổi nhiều hơn.
Dưỡng khí của cơ thể sẽ thiếu sau một thời gian dài thở nhẹ, bị căng thẳng hoặc ngồi bất động một thời gian lâu.Ngáp không phải là dấu hiệu của một bất thường nào. Điểm đặc biệt là ngáp không xẩy ra khi con người bị bệnh về thể chất hoặc tâm thần.
Nước Trà là loại nước uống rất phổ biến với số tiêu thụ dứng vào hàng thứ nh́ trên toàn thề giới, sau nước thiên nhiên.
Nước Trà được chế biến từ lá của một loại thực vật có tên khoa học là Camellia sinensis.
Người châu Á biết thưởng thức hương vị của trà từ nhiều ngàn năm về trước. Măi đến thế kỷ thứ 17, trà mới được dân chúng Âu châu biết tới mà dùng. Các quốc gia sản xuất trà nhiều nhất trên thế giới hiện nay là Ấn Độ, Trung Hoa, Sri Lanka.
Phẩm chất của nước trà tùy thuộc giống trà, nơi trồng trà, khí hậu tại địa phương, thời gian thu hái trà, tuổi của trà, cách hái trà và cách chế biến trà.
Sau khi chế biến, trà được nhà sản xuất gửi cho chuyên viên về trà của các quốc gia tiêu thụ để phân định phẩm chất và ước định giá cả. Trà càng ngon th́ giá càng cao.
Chế biến:
Lá trà tươi mới hái về đều được rửa sạch rồi phân loại. Thường thường chỉ có nụ trà vá mấy lá ở phía trên được hái, các lá già ở phía dưới rất ít hương vị trà.
Cho tới nay, công việc hái trà vẫn là bằng tay, tuy tốn nhiều nhân lực nhưng có thể phân loại ngay lá trà tốt, xấu. Máy hút để thu hái lá trà thường được dùng cho các loại trà hạng thường.
Sau khi hái, trà được đưa qua nhiều giai đoạn chế biến, với hai cách:
a-“Ép, xé nát rồi cuộn” bằng máy. Máy sẽ ép chất dầu từ lá trà ra, xé nhỏ, cuốn gọn lại thành từng cục nhỏ, rồi sấy khô. Cách này dùng cho trà hạng thường và khi muốn sản xuất nhiều.
b-Cách cổ điển th́ phức tạp hơn và thực hiện bằng tay với ba giai đoạn chính:
-Trải lá trà dưới bóng mát để lá héo khô tự nhiên cho dễ cuộn và không làm rách lá;
-Cuộn chặt lá lại để các hóa chất trong trà ḥa lẫn với nhau. Có thể cuộn bằng tay hoặc bằng máy.
-Để lá trà oxy hóa hoặc lên men với các hóa chất có chứa sẵn trong lá. Sự oxy hóa này phân chia trà ra làm ba loại: trà Xanh không oxy hóa, trà Đen, oxy hóa lâu khoảng vài ba giờ và trà Ô Long chỉ oxy hóa trong một thời gian rất ngắn. Ngoài ra c̣n trà Trắng: lá trà thu hoạch về được hấp rồi xấy khô.
Trà cũng được ướp với các hương vị thơm của các loại hoa hoặc trái cây như trà sen, trà hoa nhài...
Sự lên men tạo ra một số tinh dầu cho trà, đồng thời cũng thay đổi một chút về các thành phất hóa chất của lá. Chẳng hạnTrà Đen được để oxy hóa lâu thời gian nên c̣n lại rất ít hóa chất cathechin và nước trà có mầu xanh hoặc đỏ hồng. Trà Xanh không qua giai đoạn oxy hóa nên có tỷ lệ hóa chất này cao hơn.
Trà cần được cất giữ trong đồ chứa kín hơi, có mầu đục để tránh ánh sáng, để ở nơi mát mẻ, khô ráo . Không nên giữ trà quá lâu v́ trà sẽ bay mất mùi thơm. Người Trung Hoa có kinh nghiệm về sự cất giữ trà với câu nói: “Tửu việt trần việt hương, trà việt tồn việt thứ” -rượu càng để lâu càng ngon, trà càng để lâu càng dở.
Trên thị trường, c̣n thấy bán một loại nước uống gọi là thảo-trà ( Herbal tea hoặc tisanes). Đây không phải nước uống làm từ lá của cây trà Camellia sinensis, mà là từ lá, cành, củ hoặc vỏ của nhiều thực vật khác nhau, như là bạc hà, lá th́a là, lá chanh, gừng, nước gạo rang, cam thảo, hồng mai.... nên không có hương vị của trà và không có chất caffein. Thảo-trà hiện nay rất được ưa chuộng và được giới thiệu là có tác dụng vừa kích thích vừa làm thư giăn cơ thể, có khả năng loại trừ độc chất trong các bộ phận, giúp giảm cân. ..
Thành phần hóa học
Trà không cung cấp năng lượng, không có chất béo, muối natri, chất đạm mà chỉ có một ít carbohydrat, vài muối khoáng như kali và mangnesium
Trong trà có một số hóa chất thuộc nhóm Polyphenols với flavanols, flavandiols, flavonoids, phenelic acid, tannins, cathechin...
Trà c̣n có caffein, theobromin, theophyllin. Hàm lượng caffein trong trà xanh là 30mg/ 180ml trà; trà đen có 40mg/ 180ml trà. Sau khi loại bỏ caffein th́ trà chỉ c̣n từ 2-3mg caffein/ 180ml trà.
Những ích lợi được nêu ra
Ngoài giá trị dinh dưỡng như một loại nước uống, nước trà đă được người thường xuyên dùng ca tụng v́ có nhiều tác dụng tốt với sức khỏe của cơ thể, như là:
-Tăng sức đề kháng của cơ thể với nhiều bệnh tật
-Tăng máu huyết lưu thông trong cơ thể
-Giúp cơ thể bớt mệt mỏi, làm tinh thần sảng khoái, trí tuệ minh mẫn hơn
-Tăng sự chuyển hóa thực phẩm, giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng
-Kéo dài tuổi thọ con người
-Pḥng chống hư răng
-Làm thị giác rơ ràng hơn
-Giải nhiệt, giúp tránh tai nạn gây ra do nóng nắng
-Giúp bài tiết rượu, nicotin trong thuốc lá ra khỏi cơ thể mau hơn
-Lợi tiểu tiện, làm nước tiểu trong hơn
-Giúp giảm bớt đau nhức xương khớp....
Trung Hoa là quốc gia dùng trà như một thứ nước uống đầu tiên trên thế giới. Y học Trung Hoa coi trà là một dược phẩm hảo hạng. Sách Bản Thảo Di của Trần Tàng Khí đời Đường viết” Trà ví vạn bệnh chi dược”- trà là loại thuốc trị được cả vạn thứ bệnh. Danh y Trung Hoa xưa kia là Hoa Đà cũng từng có nhận xét: “Dùng trà đắng có thể làm con người thông minh, lanh lợi”. Người Nhật cũng xem trà như một linh dược trị được nhiều bệnh..
Người dân Hy lạp xưa kia coi trà như một loại “lá siêu phàm”- divine leaf- đặc biệt chữa được cảm lạnh, ho suyễn, viêm cuống phổi...
Vào thế kỷ thứ 19, các khoa học gia nước Nga gọi trà là “thuốc trường sinh bất lăo”-elixir of life- v́ những tác dụng tốt cho sự tuần hoàn, tiêu hóa, thần kinh và mang lại sinh lực cho con người.
Kết quả nghiên cứu khoa học
V́ số người uống nước trà ngày một gia tăng đồng thời cũng có nhiều ư kiến khác nhau về tác dụng của trà với sức khỏe, nên trong những thập niên vừa qua đă có nhiều nghiên cứu khoa học về trà. Kết quả một số nghiên cứu cho hay các hóa chất thuộc nhóm polyphenols trong trà có thể có một số tác dụng bảo vệ cơ thể chống lại một số bệnh.
Bác sĩ Jeffrey Blumberg, Trưởng pḥng Nghiên Cứu về chất chống oxy hóa của Đại học Tuffs, Hoa Kỳ phát biểu: “Ngày nay, không phải là ta chỉ lưu tâm tới sinh tố, khoáng chất trong thực phẩm, mà cần để ư tới những chất dinh dưỡng thực vật- phytonutrients -chẳng hạn chất chống oxy hóa flavonoid. Trà với nhiều flavonoid và không cung cấp năng lượng là món giải khát lư tưởng cho mọi người muốn có một sức khỏe lành mạnh.”
a. Chống ung thư
Quan sát cho hay, trà có khả năng ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư nhờ có các hóa chất gọi là polyphenol trong trà, như tannins, catechins...
Năm 1993, bác sĩ Chung S Yang, Đại học Rutgers ở New Jersy, Hoa Kỳ cho hay là trà với chất polyphenols có khả năng ngăn chặn sự thành h́nh và tăng trưởng của tế bào ung thư.
Kết quả nghiên cứu tại viện ung thư British Columbia bên Canada cho hay tannins của trà có thể ngăn chặn sự thành h́nh của hóa chất gây ung thư nitrosamin.
Vào tháng 12 năm 2005, nhóm nghiên cứu tại viện Karolinska bên Thụy Điển cho biết phụ nữ uống một ly trà mỗi ngày có thể giảm nguy cơ ung thư buồng trứng tới 50%. Đó là do tác dụng của các chất polyphenols trong trà.
b. Chống virus
Một số nghiên cứu tại Hoa Kỳ vào thập niên 1940 cho hay chất tannins trong trà với vị chát của nó, có tác dụng chống lại các virus gây ra bệnh cúm.
Nghiên cứu tại Ấn độ cho hay tannins có thể vô hiệu hóa các tác hại của virus bệnh mụn róp-herpes simplex.
Nước trà được dùng ở Liên Bang Sô Viết xưa kia để chữa bệnh kiết lỵ.
c. Chống hư răng
Khả năng này là do tác dụng của chất fluor trong trà. Đây là một lợi điểm cho những người tiêu thụ nước không có đủ chất fluor, như nước giếng... Tại nhiều quốc gia, nước cung cấp cho dân chúng được cho thêm fluor và nhờ đó tỷ lệ hư răng giảm xuống rất nhiều.
Kết quả nghiên cứu tại Đại học Nha khoa Illinois cho hay hóa chất tannins trong trà cũng có khả năng diệt cácvi khuẩn gây viêm nớu răng.
Nhật Bản có sản xuất loại kem đánh răng có chứa hóa chất tannins.
d. Trà với bệnh tim mạch
Chất catechins trong trà có thể có tác dụng hạ cholesterol trong máu, do đó giảm nguy cơ vữa xơ động mạch. Chất này cũng có khả năng giảm cao huyết áp, làm huyết quản bền mạnh hơn.
Kết quả một nghiên cứu ở Hà Lan cho hay uống hai, ba ly nước trà một ngày có thể làm giảm nguy cơ vữa xơ động mạch tới 45%.
Tiến sĩ sinh hóa học Joe Vinson thuộc Đại học Scranton, Philadelphia, khám phá ra rằng nồng độ cholesterol và LDL trong máu của loài chuột nuôi với trà xanh và trà đen giảm xuống rất nhiều.
Tháng 2 năm 2005, các khoa học gia tại Viện Sức Khỏe Nhi Anh Quốc công bố một kết quả nghiên cứu, theo đó hóa chất trong trà xanh có khả năng bảo vệ đối với các tổn thương gây ra v́ cơn suy tim và tai biến mạch máu năo.
Giám đốc Viện Tim Anh quốc Belinda Linden cho hay trà xanh đă được coi như có khả năng làm giảm nguy cơ bệnh động mạch tim nhờ có nhiều chất chống oxy hóa trong trà.
Tháng 9 năm 2002, Joseph Judd, Giám đốc Trung Tâm Dinh Dưỡng Beltsville, tiểu bang Maryland, cho biết uống nước trà liên tục trong 3 tuần lễ có thể làm giảm cholesterol LDL tới 10%
e. Tránh khô nước
Uống nhiều nước trà cũng là một phương thức để mang nhiều nước vào cơ thể, tránh t́nh trạng khô nước.Tuy nhiên, trà là chất lợi tiểu nhẹ, nên tác dụng có thể không hữu hiệu như uống nước thiên nhiên. Thành ra phải uống hai ly trà th́ mới bằng uống một ly nước tự nhiên.
g.Tác dụng trên trí nhớ
Tháng 2 năm 2004, nhóm nghiên cứu tại Đại học Newcastle, Anh quốc, công bố rằng uống trà đều đều mỗi ngày có thể làm tăng trí nhớ. Các nhà khoa học đang nghiên cứu xem liệu các hóa chất trong trà có tác dụng tốt nào cho bệnh nhân bị sa sút trí tuệ như bệnh Alzheimer
Mấy điều cần lưu ư
-Uống quá nhiều nước trà, thí dụ 2 lít một ngày, có thể gây táo bón, giảm hấp thụ sắt trong thực phẩm đưa đến bệnh thiếu máu. V́ thế không nên cho em bé uống nhiều nước trà.
-Uống nhiều trà đậm tăng bài tiết nước tiểu;
- Caffein trong trà có thể gây mất ngủ ở một số người.
-Trà kích thích niêm mạc dạ dầy tiết ra nhiều acid, có thể đưa tới loét bao tử.
-Caffein trong trà kích thích thần kinh, làm cho tim đập nhanh, mạnh;
-Trà làm răng đổi mầu;
-Phụ nữ có thai không nên uống nhiều nước trà v́ trà có nhiều caffein, có thể ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của thai nhi.
-Bệnh nhân nóng sốt cao không nên uống trà đậm, v́ chất thein trong trà kích thích trung tâm phát nhiệt trong cơ thể, làm cho thân nhiệt lên cao hơn
-Uống trà quá nóng sẽ gây kích thích niêm mạc miệng, thực quản và bao tử và đưa tới tổn thương cho các cơ quan này;
-Không nên uống trà quá đặc khi uống nhiều rượu v́ các hóa chất trong trà và rượu gây kích thích cho cả hệ tim mạch lẫn hệ thần kinh.
-Mỗi ngày chỉ nên uống khoảng từ 4-5 chén trà loăng hoặc 2-3 chén trà đậm.
-Sữa uống với nước trà có điểm lợi và bất lợi: sữa sẽ vô hiệu hóa một số lượng chất chống oxy hóa tannins và khoáng fluor của trà. Nhưng đây lại là lợi điểm cho người bị loét dạ dày, v́ bớt tannin th́ bao tử ít bị kích thích và giảm tiết ra acid.
Kết luận
Trà là một thứ nước uống được ưa chuộng và hầu như đă trở thành một nhu yếu phẩm mà con người phụ thuộc vào..
Cứ tự nhiên dùng nước trà để thỏa măn một phần nhu cầu nước của cơ thể hoặc như là một thú tiêu khiển trong lúc “trà dư tửu hậu”, th́ ít phải suy nghĩ hơn là khi xem trà như một linh dược trị bá bệnh. V́ cho tới nay, kết quả các nghiên cứu về công dụng y học của trà cũng chưa được hoàn toàn xác định.
Điều đáng lưu ư là, người dành th́ giờ để thưởng thức trà có thể có đời sống lành mạnh hơn, không hút thuốc, uống rượu, không tiếp cận với các hóa chất có hại, dinh dưỡng cân đối nhiều thực phẩm khác nhau, vận động cơ thể đều đặn...Cho nên họ có sức khỏe tốt. Và đó là điều mà mọi người nên áp dụng.
Cá Tôm Ṣ Ốc Ăn Sống “Có Thể” Nguy Hiểm
12/06/2020
Bác Sĩ Thú Y Nguyễn Thượng Chánh DVM
Cá tôm và đồ biển là nguồn thực phẩm rất quư báu của con người. Ngoài chất đạm ra, thủy sản c̣n cung cấp cho chúng ta các chất khoáng (calcium, phosphorus) và vitamins (vitamin A và D). Chất béo oméga-3 rất tốt cho sức khỏe, thấy hiện diện trong mỡ cá đặc biệt là trong các loại cá vùng nước lạnh, chẳng hạn như mackerel, salmon, herring, tuna…
Thông thường cá chỉ được ăn chín mà thôi, tuy vậy cũng có người thích dùng cá sống, thí dụ như hai món Sushi và Sashimi của Nhật Bản.
PARASITES PHOTOS – DR TRÂN MANH NGÔ & NGUYÊN THƯỢNG CHÁNH
CÁ TÔM S̉ ỐC ĂN SỐNG CÓ THỂ NGUY HIÊM
Gỏi cá sống (vietbao.com)
Người ḿnh cũng có món gỏi cá sống rất phổ biến tại vùng duyên hải Trung phần. Riêng tại Canada, các dân tộc thiểu số Indien và dân Eskimo cũng có tập quán ăn cá sống. Một vài loại ṣ biển cũng đôi khi được người ta dùng sống.
Trước những sự kiện nầy, chúng ta tự hỏi liệu việc ăn cá sống có ǵ nguy hiểm cho sức khỏe hay không?
ĂN LẪU CÁ COI CHỪNG KƯ SINH TRÙNG ?(GIUN LẢI) C̉N SỐNG
Vi khuẩn và virus
Thủy sản có thể bị nhiễm khuẩn Salmonella,Vibrio vulnificus, Vibrio parahaemolyticus hiện diện trong nước bẩn.
Virus norwalk (Norovirus) cũng là một vấn đề quan trọng ở ṣ hến tại Bắc Mỹ.
Rối loạn tiêu hóa, đau bụng, tiêu chảy là những biểu lộ thông thường sau khi dùng phải thực phẩm có chứa những mầm bệnh vừa kể. Ngoài ra ṣ hến cũng có thể bị nhiễm virus viêm gan A (hepatitis A).
Triệu chứng viêm gan A thường thấy là: khó chịu trong người, mệt mỏi, sốt nóng, nôn mửa, vàng da và nước tiểu có thể sậm màu. Đôi khi các dấu hiệu này xảy ra rất chậm sau khi đă bị nhiễm 2-3 tuần lễ…
Bệnh lư cũng có thể thay đổi tùy theo người. Bệnh thường thấy nặng ở các cháu bé, ở những người lớn tuổi, ở các người nào có hệ miễn dịch đang bị suy yếu sẵn, và cũng như ở những ai đang được chữa trị bệnh cancer.
Ô nhiễm kỹ nghệ và độc tố thiên nhiên
CÁ TÔM S̉ ỐC ĂN SỐNG CÓ THỂ NGUY HIEM 02
Ṣ Cavendish cup –photo NTC
Cá tôm ṣ ốc đều có thể bị nhiễm bởi nước phế thải từ các khu kỹ nghệ và nông nghiệp. Một số tảo vi sinh hay phiêu sinh thực vật (phytoplankton) hiện diện trong nước cũng là nguồn lây nhiễm cho thủy hải sản. Sau đây là những chất có thể ảnh hưởng vào thủy sản:
*THỦY NGÂN: dưới dạng methylmercury là một chất phế thải trong kỹ nghệ sản xuất bột giấy. Cá bé nhiễm thủy ngân, sau đó lại bị cá lớn ăn vào. Bởi lư do nầy, cá càng lớn (cá Tuna, cá mập shark, cá lưỡi kiếm sword fish) và những cá ở cuối dây chuyền thực phẩm càng nhiễm nhiều thủy ngân hơn cá nhỏ… Ăn phải những cá nầy về lâu về dài chúng ta cũng sẽ bị tác dụng của ngộ độc thủy ngân. Hệ thần kinh trung ương là nơi dễ bị thủy ngân tác hại nhất!
*PCBs (polychlorinated biphenyls) và DIOXIN: những chất phế thải kỹ nghệ cũng có thể nhiễm vào môi sinh và từ đó nhiễm vào các loại thủy sản. Cũng như phần lớn các hóa chất ô nhiễm khác chúng chỉ tác hại đến sức khỏe nếu chúng ta bị nhiễm trong một thời gian lâu dài mà thôi. PCBs và Dioxin thường tác hại đến sự tạo lập bào thai và cũng có thể gây ra cancer!
*CIGUATERA: đây là độc tố thiên nhiên do tảo vi sinh Dinoflagellate sinh ra. Các loại cá vùng biển Caraibe, chẳng hạn như cá barracuda, amberjack, red snapper và grouper đều có thể bị nhiễm loại độc tố này. Độc tố Ciguatera tích tụ trong đầu, gan, ruột và trong buồng trứng của cá. Ở người bị ngộ độc, triệu chứng thường gặp là rối loạn tiêu hóa, ngứa ngáy, khó thở, nhịp tim rối loạn, mệt mỏi, đau nhức bắp cơ, cũng như có cảm giác tê tê ở đầu các ngón tay và đầu các ngón chân. Một điểm khá đặc biệt khác là bệnh nhân có thể bị nghịch đảo (inversion) cảm giác nóng và lạnh nghĩa là nóng th́ cảm thấy lạnh và ngược lại!
*PHYCOTOXIN hay độc tố gây bại liệt ở ṣ (paralytic shellfish poisoning,PSP). Tương tợ như Ciguatera, PSP cũng xuất phát từ tảo vi sinh Dinoflagellate. Ṣ hến nhiễm PSP khi lọc nước t́m thức ăn.Tuy bị nhiễm nhưng chúng không hề hấn ǵ cả. Ở người, dấu hiệu bị ngộ độc xuất hiện ra 30 phút sau khi ăn: cảm giác tê ở môi, cổ, mặt, cùng cảm thấy như có kiến ḅ trong các ngón tay và ngón chân. Nhức đầu, chóng mặt và buồn nôn. Nói năng không c̣n mạch lạc, mạch đập nhanh, thở khó… Trường hợp nặng có thể chết v́ bị liệt hô hấp!
*DOMOIC ACID, độc tố gây mất trí nhớ ở ṣ (Amnesic shellfish poisoning, ASP). Khác với 2 loại trên, ASP xuất phát từ tảo vi sinh Diatom. Ṣ hến bị nhiễm qua sự lọc nước. Triệu chứng chung sau khi bị ngộ độc là mệt mỏi, nôn mửa, tiêu chảy, mất khả năng định hướng và mất cả trí nhớ nữa. Năm 1987, tại tỉnh bang PEI, Canada, đă có 4 người chết v́ ăn phải độc tố ASP, tất cả nạn nhân đều là những người trọng tuổi!
*Độc tố SCROMBOID hay Histamine poisoning thấy ở một vài loại cá. Cá Tuna, Blue fish, Mackerel, Herring vv… nếu không được trữ lạnh và bảo quản đúng cách sẽ bị vi khuẩn làm thối rữa đi. Trong tiến tŕnh hư hoại, vi khuẩn tiết ra một loại enzyme để biến chất amino acid hay chất đạm của cá ra thành histamine, là một chất rất độc. Đây là chất gây dị ứng, như ngứa ngáy khó chịu, mặt mũi sưng phù đỏ ra, nôn mửa, tiêu chảy nhức đầu chóng mặt, tim đập nhanh và kèm theo cảm giác nóng bỏng ở cuống họng!.
*THỦY TRIỀU ĐỎ (Red Tide), tảo vi sinh G. breve thuộc nhóm Dinoflagellate tạo ra độc tố brevetoxin. Hiện tượng thủy triều đỏ khá phổ biến vào mùa xuân và mùa hè tại Floride và tại vịnh Mexico. G. breve phát triển nhanh chóng, tạo thành một thảm rong vĩ đại óng ánh màu đỏ, dài cả cây số ngoài khơi. Theo sóng nước, nó lần lần tấp vào bờ. Lan tới đâu, cá chết tới đó, nhưng ṣ hến th́ không sao. Bụi rong biển theo gió có thể làm xót mắt, rát mũi và cổ họng!
Trường hợp ăn phải ṣ nhiễm độc tố brevetoxin, chức năng hoạt động của hệ thần kinh trung ương sẽ bị ảnh hưởng đến ít nhiều.
Khoa học c̣n gọi độc tố này là Neurotoxic shellfish poisoning, NSP. Các biểu lộ chính gồm có: đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, mất cảm giác quanh miệng, yết hầu và khắp cả châu thân. Đôi khi cũng có cảm giác nghịch đảo nóng và lạnh. Trường hợp nặng, tim đập chậm lại, đồng tử giăn nở kèm theo triệu chứng co giật!.
*TETRADOTOXIN, độc tố của loài cá nóc (puffer fish) gây bại liệt hô hấp và chết!.
Theo cố Gs Đỗ tất Lợi,có lối 60 loài cá Nóc . Đặc tính của chúng là có thể ph́nh bụng to ra lúc cảm thấy bị đe dọa. Có vào khoảng 30 loài cá nóc có chứa độc tố tetradotoxin , rất nguy hiểm , ăn vào có thể chết. Ở Vn , một số ít cá Nóc sống ở nước ngọt , như cá Nóc Mít , và cá Nóc Vàng . Phần lớn các loại cá Nóc đều sống ở vùng nước mặn ngoài biển . Cũng có con lổm chỏm gai trên lưng và được gọi là cá Nóc Nhím . H́nh như độc tố của cá Nóc nằm trong buồng trứng , trong gan , hoặc trong ruột cá ? Tại Vn , độ độc của cá Nóc rất cao từ tháng 2 đến tháng 7 là mùa đẻ trứng . Độc tố không bi nhiệt phá hủy , cho nên dù có nấu chín vẫn có thể bị ngộ độc như thường .
Thói quen của dân đánh cá là hay đập chết cá Nóc ngay trên thuyền làm cho buồng trứng và ruột gan bị dập , độc tố ngấm vào thịt . Trường hợp móc bỏ hết ruột gan ra cũng vẫn có thể bị ngộ độc như thường . Triệu chứng ngộ độc bắt đầu bằng sự tê môi , tê lưỡi , cảm giác như kiến ḅ trong các đầu ngón tay và ngón chân , đồng tử giăn nở , tay chân bị tê liệt , thân nhiệt và áp huyết bị giảm xuống . Nếu không chữa trị kịp thời , th́ bệnh nhân sẽ bị tê liệt hoàn toàn , cứng hàm dưới , hôn mê và chết v́ liệt hô hấp .Tại Vn , ngộ độc cá Nóc vẫn thường xảy ra hằng năm .Tuy nổi tiếng là rất độc có thể làm chết người nhưng tại Nhật Bản , cá Nóc là 1 món ăn thượng đẳng. Đây là mónFugu rất đắt tiền chỉ có bán tại những nhà hàng đặc biệt mà thôi . Đầu bếp muốn biến chế món nầy cần phải có giấy phép chứng nhận đă nắm vững kỹ thuật làm cá Nóc
Kư sinh trùng
Hầu như tất cả các loài cá đều bị nhiễm kư sinh trùng một cách tự nhiên. Cá tươi mua ngoài chợ, về nhà mổ ra thấy lúc nhúc giun sán trong ruột là chuyện thường thấy xảy ra.
Cá nước ngọt thường bị nhiễm một loại sán dây (taenia) màu trắng có tên là Diphyllobothrium. Cá salmon và cá trout cũng có thể bị nhiễm bởi loại sán này. Ở các loài cá biển, người ta thường hay gặp giun phocanema c̣n gọi là cod worm và giun anisakis hay là herring worm. Anisakis rất ư là phổ biến và thường gặp ở rất nhiều loại cá biển.
Giun anisakis simplex (herring worm) trưởng thành sống kư sinh trong ruột cá heo (dolphin), cá voi (whale) và sư tử biển (sea lion). Trứng giun theo phân ra ngoài, nở thành ấu trùng trong nước biển, sau đó bị loài giáp xác (crustacea) ăn vào. Cá biển ăn giáp xác và bị nhiễm kư sinh trùng anisakis. Trong bụng cá, ấu trùng vượt xuyên qua thành ruột để đến định vị dưới dạng những sợi chỉ thật nhỏ 2-3cm trong các sớ thịt của cá.
Giun sán cá và sức khỏe chúng ta
Cá tôm nấu nướng cho thật chín th́ ăn không sao. Ngược lại, ăn cá sống hay nấu không đủ chín th́ có thể nguy hại đến sức khỏe. Bệnh lư cũng biểu lộ ra một cách khác nhau tùy người. Nói chung, triệu chứng thông thường là đau bụng, nôn mửa, mệt mỏi, sụt cân và đôi khi có dấu hiệu thiếu máu nếu bị nhiễm sán dây.
Cá sống -Sushi và sashimi
Sushi và Sashimi là hai món ăn rất nổi tiếng của Nhật Bản. Sushi được làm từ gạo dẻo (sushi rice) nấu thành cơm, trộn tí mè trắng, dằn vô một chút giấm awaze-zu. Trộn đều, rải cơm thành một lớp mỏng trên tờ tảo khô nori (roasted seeweed) trải trên một tấm vỉ tre, cho vài lát cá sống vào giữa, cuộn tṛn tấm vỉ lại, sau đó cắt thành khoanh, xắp lên dĩa h́nh chữ nhựt, cho vài lát gừng ngâm giấm gari (sliced ginger) bên cạnh. Thế là xong!
Thay v́ dùng cá, người ta cũng có thể dùng hột gà omelet, trái kiwi, dưa leo, avocado, xoài chín hoặc tofu. Đây là sushi chay. Sashimi, th́ gồm toàn là những lát cá sống mà thôi. Cá xắt lát hơi dầy một tí, xắp lên dĩa, cho một tí gừng chua bên cạnh.
Khi ăn, sushi và sashimi đựợc chấm vào nước tương Nhật shoyu có trộn một tí wasabi hay moutarde xanh cay xé lưỡi nồng cả óc. Muốn đúng điệu th́ phải dùng rượu saké hâm nóng và đựng trong nhạo, uống bằng chung nho nhỏ. Thèm chưa! Để chế biến sushi, loại cá sử dụng phải được quan tâm triệt để. Nói chung, th́ không sử dụng cá nước ngọt được v́ nguy cơ nhiễm khuẩn và nhiễm giun sán quá cao. Cá làm sushi là cá biển, mà phải thuộc nhóm thượng đẳng (high grade) mới tốt. Thường là cá red Tuna, Mackerel, Salmon, Red snapper, Sea bass, lươn biển, bạch tuột (octopus), mực tươi (squid), bào ngư (abalone), cua, scallops..
Người Nhật họ rất quan tâm đến các khâu chuẩn bị và chế biến sushi. Đây là cả một nghệ thuật ẩm thực của xứ Phù tang. Chủ yếu là dùng cá sống cho nên vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như việc kiểm soát kư sinh trùng rất ư là tối cần thiết. Cá tươi loại tốt nhất được thu mua từ sáng sớm ngay tại chợ cá, trữ lạnh, đem về nhà hàng cắt xẻ thành lát mỏng (filet), kiểm soát cẩn thận coi có giun không, sau đó được cất giữ trong tủ lạnh.
Tại các nhà máy lớn chuyên sản xuất cá làm sushi, người ta áp dụng kỹ thuật rọi đèn (candling) để t́m giun anisakis trong cá. Tất cả các lát cá đều được trải mỏng trên một mặt kính bên dưới có đèn rọi ngược trở lên. Những lát nào có giun đều bị loại ra ngoài hết. Sau đó cá được làm đông lạnh qua phương pháp flash freezing, có nghĩa là làm đông lạnh rất nhanh ở một nhiệt độ thật thấp để hương vị cá không bị mất đi nhiều.
Truờng hợp ăn cá sống nhiễm giun anisakis, thực khách có thể bị ngứa ở cổ họng khiến họ phải ho khạt giun ra ngoài.
Nếu bị nuốt vào bụng, giun anisakis sẽ bám vào ruột hoặc chui sâu vào lớp cơ của thành ruột, gây nên những cơn đau bụng và nôn mửa dữ dội.
Giun cũng có thể xuyên thủng qua ruột và lọt vào xoang bụng gây nên viêm màng bụng rất nguy hiểm, tuy nhiên ca này rất hiếm thấy xảy ra. B́nh thường, sau 3 tuần lễ th́ giun sẽ bị loại ra ngoài, hoặc nó tự hủy đi. Khoa học gọi bệnh nhễm giun này là Anisakiasis.
Số người bị nhiễm giun anisakis tại Bắc Mỹ vẫn c̣n ở mức độ rất thấp không đáng kể. Nhật Bản và Ḥa Lan có tỉ số người bị nhiễm cao nhất. Trước t́nh h́nh phát triển quá nhanh của các shusi bars khắp nơi trên thế giới, người ta sợ bệnh anisakiasis sẽ c̣n gia tăng thêm hơn nữa!
Gỏi cá sống và giun đầu gai Gnathostoma
Gỏi cá sống là đặc sản của vùng duyên hải VN. Món gỏi cá sống tuy rất ngon nhưng nó vẫn là mối đe dọa đối với sức khỏe chúng ta.
Cá sống có thể nhiễm khuẩn và nhiễm kư sinh trùng mà đáng kể nhất là giun đầu gai Gnathostoma. Loại giun này rất phổ biến tại vùng Đông Nam Á, Nam Mỹ, Mexico, Peru và Ecuador.
VN là một trong những quốc gia có tỉ lệ nhiễm giun đầu gai khá cao.
Giun trưởng thành (adult) sống trong bao tử chó và mèo. Trứng giun theo phân nhiễm vào nước mưa chảy xuống ao hồ sông rạch. Trứng nở ra ấu trùng (larvae) và bị một loại giáp xác (crustacea) thật nhỏ có tên là cyclop ăn vào. Cá, lươn, rắn, ếch nhái, gà vịt, và các loại thủy cầm (waterfowl) đương nhiên nuốt cyclop vào bụng và bị nhiễm giun đầu gai. Trong các loài vật vừa kể, ấu trùng giun sẽ định vị trong thịt.
Khi chúng ta dùng cá sống, ấu trùng vào bụng, xuyên ruột và đi tứ tung trong cơ thể chúng ta. Giun có thể vào gan, vào mắt, di chuyển dưới da, hoặc đến định vị trong năo hay trong tủy sống. Đây là bệnh Gnathostomosis.
Đi đến đâu, giun gây t́nh trạng viêm sưng đến đó. Tùy nơi giun định vị mà triệu chứng sẽ khác nhau. Ở mắt, sẽ làm giảm thị lực hoặc mù ḷa, và gây ho hen nếu ở hệ hô hấp. Nguy hiểm nhất là nếu giun định vị trong hệ thần kinh trung ương và gây chứng viêm năo tủy (encephalomyelitis), làm rối loạn cảm giác, liệt tứ chi và có thể chết. Không dễ ǵ chẩn đoán bệnh giun đầu gai. Nếu biết rơ nơi định vị của nó, th́ có thể làm sinh thiết (biopsy) để xét nghiệm. Người ta cũng có thể chẩn đoán bệnh qua xét nghiệm huyết thanh học (test ELISA)...
Vài năm gần đây Hội Dược Sĩ VN tại Hoa Kỳ cũng có đăng một bài nói về một ca nhiễm giun đầu gai ở một Việt kiều lúc về thăm quê hương. Trong thời gian ở VN, anh ta có nhậu với bạn bè món thịt rắn hổ mang, và đặc biệt là anh ta xơi sống nguyên tim rắn với hy vọng là sẽ được sung sức bằng 5 bằng 10 ngày thường. Khi trở về Hoa Kỳ, anh ta bắt đầu ngă bệnh và có dấu hiệu mệt mỏi yếu sức lạ thường lại thêm sốt, nổi mày đay ở chân, đau ở vùng gan, ớn lạnh về chiều. Kết quả xét nghiệm máu, cho thấy số bạch cầu eosinophils trong máu tăng cao 13.000.
Các bác sĩ bên Mỹ ṃ mẫm chữa trị bằng kháng sinh, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm.
Cuối cùng qua sự cố vấn của một nhà kư sinh trùng học, bác sĩ Nagami, thuộc The Centers for Disease Control & Prevention (CDC), bệnh đă được chẩn đoán chính xác : bệnh nhân đă bị nhiễm giun đầu gai Gnathostoma spinigerum. Thuốc Albenza (Albendazole) đă được sử dụng để trị dứt bệnh…
Trường hợp có đi du lịch VN, Thailand hoặc Nam Mỹ, để pḥng ngừa giun đầu gai chúng ta chỉ nên ăn thịt, cá, rắn, lươn, ếch vv…đă được nấu thật chín mà thôi. Đông lạnh ở nhiệt độ trừ 20 độ C diệt được giun Gnathostomas.
Ngừa giun Anisakis bằng cách nào?
Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất là chỉ ăn cá đă được nấu nướng thật chín.
1- Muối cá trong 7 ngày có thể diệt được giun Anisakis.
2- Hong khói cá cũng diệt được giun Anisakis.
3- Cơ quan FDA Hoa Kỳ khuyên nên làm đông lạnh cá ở độ lạnh -20 độ C. Phương pháp này chỉ có thể thực hiện ở các nhà máy sản xuất cá mà thôi. Với các tủ lạnh và tủ đông lạnh tư gia, chúng ta không thể đạt được mức lạnh -20 độ C.
4- Chỉ ăn sushi với những cá đă được làm đông lạnh rồi.
5- Nặn chanh, chế giấm vào các lát cá đều không diệt được giun… Uống thêm rượu mạnh cũng không ăn thua ǵ hết!
Kết luận
Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) ước lượng có lối 40 triệu người trên thế giới đang bị nhiễm kư sinh trùng v́ ăn cá sống.
Năm 2002, cấp lănh đạo y tế VN cũng đă tuyên bố là có vào khoảng 5 triệu người VN trong diện nguy hiểm v́ có tập quán ăn cá sống, trong số này có lối 500 000 người đă bị nhiễm giun sán từ cá (Reuters Nov 26, 2002). Hiện nay vấn đề cá nhiễm sán lá gan rất nghiêm trọng tại các quốc gia vùng Đông Nam Á.
Về Việt Nam ăn gỏi cá sống vầ các loại rau mộc dưới nước rất nguy hiểm và rất dễ bị nhiễm sán lá gan Fasciola
Riêng tại Canada, xác xuất nhiễm kư sinh trùng từ các lát cá (filet) bán ra để làm sushi rất ư là thấp.
Việc tiêu thụ thủy hải sản sống hoặc nấu không thật chín lúc nào cũng vẫn là một mối đe dọa cho sức khỏe của chúng ta. Sự an toàn tuyệt đối hay là zero risk không bao giờ có được ./.
Đi Bộ Hay Chạy Bộ
11/05/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
Vận động hay thể dục hoặc thể thao, là việc mọi người trong chúng ta bất kỳ tuổi tác nào, cũng cần phải thực hiện thường xuyên mỗi ngày để mong duy tŕ được một sức khỏe tốt.
Có rất nhiều cách vận động lắm, nhưng ở đây chúng ta chỉ đề cập đến việc đi bộ và chạy bộ v́ có thể được xem là dễ thực hiện nhứt.
Đây là hai môn thể thao xưa nhứt thế giới!
nguyen thuong chanh
“Thở vào tâm tỉnh lặng, thở ra miệng mĩm cười”
nguyen thuong chanh 02
Đi bộ rất thích hợp cho những người cao tuổi
Đi bộ, nhứt là đi nhanh rất được khuyến khích.
Đi bộ lảm giảm mỡ, xóa đi mọi ưu phiền, mọi căng thẳng tinh thần stress, cũng như giúp cải thiện chức năng hệ tim mạch.
Cần nhất là phải có một đôi giày cho tốt và cho êm chân.
Tùy theo sức khỏe của mỗi người mà đi. Mỗi ngày nên đi một giờ, và đi đều đặn 7 ngày trong tuần là tốt nhứt.
Chạy bộ rất thích hợp cho những người c̣n sức khỏe
“Chạy bộ dĩ nhiên là tốt cho sức khỏe. Nhưng chạy bộ cho phù hợp với lời khuyên của bác sĩ sẽ tốt nhiều thêm cho sức khỏe -- hơn là khi chạy chỉ là chạy. Và khi chạy cho phù hợp với thiền chánh niệm sẽ c̣n tốt thêm cả trăm đường…
Thực ra không có ǵ mới, v́ ngày xưa các thiền sư đă dạy rằng tập thiền là cả đi đứng nằm ngồi. Tuy nhiên, phần lớn nhà chùa ưa nói về thiền ngồi và thiền đi bộ… Không mấy khi, và không mấy ai nói về thiền chạy bộ. Hiển nhiên, chạy phải cần nhiều phương tiện hơn, như giày, vớ, áo lạnh, và đường chạy an toàn
Trước tiên, với y khoa, hễ chạy là tốt, v́ chạy là một dạng thể dục có lợi. Tác giả Daniel Pendick viết trên tạp chí Harvard Health Publications ngày 30/7/2014 rằng một cuộc nghiên cứu phổ biến trước đó một tuần trên tạp chí Journal of the American College of Cardiology cho thấy rằng ngay cả chạy mức độ chậm (low-intensity running) từ 5 tới 10 phút mỗi ngày cũng đủ để tăng tuổi thọ nhiều năm, so với không chạy chút nào.
Đối với Đại sư Tây Tạng Sakyong Mipham Rinpoche, chạy nhất định phải là thiền, bởi v́ không nên thuần chạy là chạy. Đó là lư do Đại sư soạn ra tác phẩm “Running with the Mind of Meditation” (Chạy Bộ Với Tâm Thiền). Thầy c̣n làm một bản ghi âm hướng dẫn, đọc khoảng 15 phút để những người chạy bộ nghe và giữ đúng hướng dẫn, gọi là vừa chạy, vừa thư giăn, vừa chánh niệm chú tâm vào giây phút hiện tiền xuyên qua ḥa hợp đồng bộ tâm và thân…” NGUYÊN GIÁC-PHAN TẤN HẢI
Luyện tập để tăng cường bắp cơ
Bên cạnh việc đi bộ và chạy bộ, cũng c̣n một lối tập khác không kém phần quan trọng.
Đó là vấn dề luyện tập để tăng cường các bắp cơ (musculature) cũng rất cần thiết đối với các bạn lớn tuổi.
Trong t́nh trạng b́nh thường th́ bắt đầu vào tuổi 25 th́ các khối cơ bắt đầu tan dần (sarcopénie) theo tỉ lệ trung b́nh 1% mỗi năm, và đặt biệt nhất là đối với những nhóm cơ nào ít hoạt động nhất.
Vào tuổi 50, chúng ta mất đi 25% khối cơ và được thay thế bằng mỡ, bởi lư do nầy sự biến dưỡng cơ bản của chúng ta bị đ́nh trệ đi và chúng ta dễ bị mập ra.
Thật ra mỗi ngày có thể nói rằng hầu như tất cả các nhóm cơ trên thân thể ta bị khiếm dụng bởi những tiện nghi vật chất của thế kỷ 21... Nào là cầu thang máy tự động, xe hơi, xe gắn máy, ngồi ĺ bên computer, v.v...Tất cả những phát minh này giúp chúng ta khỏe đi nhiều, nhưng ngược lại cũng làm cho chúng ta làm biếng vận động!
Nên biết rằng khối cơ rất thiết yếu để giúp chúng ta giữ đuợc sự tự chủ về hoạt động trong một thời gian lâu dài.
Cơ teo, cơ yếu dễ bị té ngă.
Khoa học đă chứng minh rằng có một tương quan theo tỉ lệ ngịch giữa tử số bất kỳ một nguyên nhân nào và sức chịu đựng của lực cơ.
Tuổi già không phải là một trở ngại trong việc luyện tập các bắp thịt cho nở nang ra.
Nếu các bạn đang sống tại Bắc Mỹ, th́ nên ghi tên theo học một khoá rèn luyện thân thể ở một club thể dục nào dó. Chúng ta sẽ được chỉ dẫn tường tận trong các cách tập luyện.
Đừng quên Thiền và Thở cho đúng cách
Trong một rừng trường phái Tài Chi Dưỡng sanh với vô số Thầy tài ba như ngày nay, tập Pháp Bát Nhă Khí Công để duy tŕ một sức khỏe tốt có thể là một pháp chúng ta cần nên quan tâm đến.
Nhưng cho dù có theo một lối tập nào đi nữa th́ cũng nên nhớ rằng điều quan trọng là phải có sự chuyên cần và phải tập đều đặn mỗi ngày.
Thứ nhất là ăn uống điều độ:
Tránh ăn muối, đường, chiên xào… Nên ăn gạo lức, hay bánh ḿ nâu (oat, whole grain, multigrain…), ăn trái cây nhiều, uống nước prune juice hàng ngày…
Buổi chiều ăn nhẹ, và không ăn vào buổi tối.
Thứ nh́ là tập pháp Bát Nhă Khí Công:
Pháp Bát Nhă Khí Công này là vô tướng, nhưng giữ ǵn sức khỏe rất linh diệu. Có những người vừa nghe vài phút là làm được, nhưng có người nghe cả năm trời cũng không hiểu, không tập được!
Tất cả đều nằm sẵn trong Thiền. Chỉ cần 2 khẩu quyết nên nhớ nằm ḷng:
Câu đầu (1) là nói về thể, về tánh, về chân không, về vô tướng, Vô H́nh.
Câu sau (2) là nói về dụng, về tướng, về diệu sắc, về hữu tướng, Hữu H́nh.
Khẩu quyết:
(1) “Có ai không? Không ai hết.” (Vô ngă, vô tướng, vô chiêu, vô h́nh)
(2) “Khi thấy chỉ có cái thấy, khi nghe chỉ có cái nghe, khi đi chỉ có cái đi, khi ngồi chỉ có cái ngồi…” (Chứ không hề có ai thấy, ai nghe, ai đi, ai ngồi… Nhưng là một lực có ứng dụng, có hữu tướng, hữu h́nh)
Tập như thế này: Trước tiên là thở đều đặn, thở dịu dàng, giữ cảm giác về hơi thở, giữ cảm giác về môi trường chung quanh. Khi nghĩ tới bài Bát Nhă Tâm Kinh, sẽ thấy không có ai đang thở, không có mũi đang thở, lập tức thấy làn da toàn thân đang thở, th́ là Thai Tức, hay Anh Nhi Tức, là phép thở của bào thai trong bụng mẹ.
Ngay khi vừa nhẩm trong đầu câu số (1) rằng không hề có ai trong thân ngũ uẩn của ḿnh, lập tức có thể cảm nhận rằng thân ḿnh là một khối năng lực đang sinh diệt (nói theo nhà vơ là chuyển biến giữa lực âm dương, yin yang.) Khi đó, đưa tay ra nhè nhẹ là thấy liền “không hề có ai đưa tay ra, mà chỉ là một khí lực đang chuyển động.” Tương tự, khi nhúc nhích lưng là thấy “không hề có ai nhúc nhích lưng,” mà thấy liền khí lực chạy chạy sưởi ấm sau lưng.
Cứ giữ cảm giác về luồng khí lực vô ngă đó hoài cả ngày, tức là Khí Công Tối Thượng của Bồ Đề Đạt Ma, chữa vô số bệnh. Tập được là khó lắm, v́ đây thực sự là Thiền Tông. Ai tập được, trong vài ngày là thấy tiến bộ liền. Tập cả Động Công suốt ngày, và Tĩnh Công (ngồi Thiền, chỉ cần thẳng lưng, chân xếp thoải mái) nửa giờ mỗi ngày. Ban đêm, nằm trên giường ngủ, h́nh dung toàn thân thư giăn, lặng lẽ, y hệt như chết, sẽ thấy không có ai đang nằm, chỉ thấy hơi thở lặng lẽ vô thường. Tập vài ngày, sẽ thấy giảm rất nhiều bệnh.
Phần nói trên là Vô Chiêu. Phần sau là Hữu Chiêu, là pháp tập thể dục. Viết ra giấy thế này sợ là khó hiểu. Cần phải biết cách đưa tay ra dẫn khí lực cho cụ thể.
(Sưu tập bởi Cư sĩ Nguyên Giác đăng trong website Thư Viện Hoa Sen)
Kết luận
Vậy các bạn c̣n chần chờ ǵ nữa mà chưa chịu bắt đầu thực hành đi./.
Tại Sao Càng Già Càng Khó Chịu
07/05/2020
Nguyễn Thượng Chánh DVM
Bước vào tuổi thất thập cổ lai hy…
Người đời thường hay trách móc là mấy ông già bà cả sao khó tánh, khó chịu quá.
Quand le caractère devient difficile avec l’âge
Claudine Badey –Rodriguez, một nhà tâm lư học đồng thời bà cũng là một nhà lăo học (gérontologue) làm việc tại Tp Nice (Pháp) đă giải thích vấn nạn nầy qua tác phẩm của bà :
blank
Claudine Badey-Rodriguez est psychologue clinicienne, consultante, écrivain et conférencière.
Elle reçoit pour des consultations individuelles et de couples dans son cabinet à Nice. (approches utilisées: EMDR,Hypnose,Sophrol ogie,Psychologie énergétique, cohérence cardiaque)
***
MỚI HÔM QUA THÔI (Thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhạc Vĩnh Điện) Vũ Hoành
Về già th́ tánh t́nh hay thay đổi bất thường làm cho con cháu và những người xung quanh (cũng như vợ chồng đối với nhau) bực ḿnh, khó chịu, khó ưa, khó hiểu, và khó quản lư được.
Đó là chưa nói đến vấn đề khoảng cách thế hệ (generation gap) giữa ông bà cha mẹ và tầng lớp con cháu ngày nay.
Thật vậy, đôi khi chúng ta bực ḿnh, khó chịu khi thấy sự lẩm cẩm của các cụ khác mà quên đi ḿnh cũng chẳng có khác ǵ họ đâu.
Tóm lược của tác giả Claudine Badey-Rodriguez:
Thời gian nghỉ hưu, tuổi già đôi lúc kéo theo sự buông xuôi, khép kín ḿnh, quạu quọ và hung dữ nơi các bậc cha mẹ.
Làm thế nào để hỗ trợ các cụ một cách êm ái trong giai đoạn khó khăn nầy. Đây là thời điểm mà vai tṛ của mỗi thành viên trong gia đ́nh cần phải được duyệt xét lại.
Làm sao có thể xác định được chỗ đứng thích hợp của ḿnh để cho sự hy sinh không trở nên vô ích và đồng thời ḿnh cũng không bị mặc cảm tội lỗi thái quá ?
Tác phẩm vạch ra những phương thức giúp chúng ta hiểu được phần nào các phản ứng ở các bậc cha mẹ nhờ đó chúng ta để có thể đáp ứng được một cách thích hợp vào mọi hoàn cảnh để các cụ không buồn ḷng.
Sau đây là nỗi khổ tâm của con cháu trong nhà
- Ổng chỉ có nói chuyện về ổng mà thôi, chán ghê.
- Bả hay bắt chẹt ḿnh thường xuyên, làm chantage ḿnh về đủ thứ chuyện, coi có tức không
- Ổng hổng chịu vô ở trong nhà già cho rồi để ḿnh đỡ khổ (Vô trong đó buồn thấy mồ)
- Bả chỉ trích, phê phán, và làm “com măn te” ḿnh tối ngày, bực ḿnh bà già ghê.
- Ḿnh bị ông già “ăn tươi nuốt sống” hoàn toàn. Chuyện ǵ ổng cũng áp đặt ḿnh một cách độc đoán và độc tài. (Tao là cha mầy, tao đẻ mầy ra chớ hổng phải mầy đẻ tao đâu)
- Bả gọi phone hành hạ (harceler) ḿnh liên tục. (Cha mẹ già, tinh thần bất ổn, không an tâm, hay mau quên nên, mất tự tin, lẩm cẩm nên có tật hay gọi phone cho con cái về những chuyện ǵ đâu không!)
- Ổng đổ tội bị ḿnh bỏ rơi. (oan quá!)
- Bả không c̣n màng đi ra khỏi nhà nữa.(Có vui ǵ đâu mà đi ra đường)
- Ổng nói ổng muốn được chết phức đi cho rồi. (Dạ tía đừng nôn nóng, chắc cũng không c̣n bao lâu đâu. Bảo hiểm nhân thọ, di chúc để đâu vậy tía?)
Tác giả Claudine Badey –Rodriguez trả lời
Hỏi: Tánh t́nh thường hay thay đổi theo tuổi tác cao?
Trả lời: Thật sự ra chính mối giao tiếp (communications) với người già trở nên khó khăn hơn là tánh t́nh của họ có vấn đề. Đúng vậy, có một lúc nào đó, hoàn cảnh họ có thể bị thay đổi v́ sự ra đi của người phối ngẫu, v́ bệnh tật, v́ khuyết tật handicap, và v́ phải nhờ cậy, lệ thuộc vào người khác (dépendance). Khung cảnh gia đ́nh thường hay bị xáo lộn lúc về già, lúc tuổi cao thêm cho dù có hay không có sự lệ thuộc vào người khác..
Hỏi: Không phải chỉ riêng có hoàn cảnh bị thay đổi mà thôi, nhưng người ta c̣n nhận thấy tánh t́nh của người già cũng có phần trở nên khó khăn hơn, vậy ḿnh phải làm sao đây?
Trả lời: Người ta lầm tưởng rằng tánh t́nh thay đổi theo tuổi tác, nhưng thật ra có một sự vững bền trong đường nét chính của tánh t́nh trong suốt cuộc đời. Khi đề cập đến vấn đề tánh t́nh trở nên khó khăn, đó là ám chỉ trường hợp hung tính (agressivité). Chúng ta nên cố t́m hiểu xem coi chuyện ǵ đă xảy ra cho cụ. Có thể có nhiều giả thuyết:
- Thứ nhứt: đó là cụ nầy từ trước giờ có tánh hay đ̣i hỏi, độc đoán, yêu sách, và các tánh nết nầy càng trở nên đâm nét, vững chắc thêm hơn theo thời gian, nhưng đó vẫn là tánh t́nh cố hữu của cụ từ trước tới giờ.
- Thứ nh́: Có thể cụ đang có vấn đề sức khỏe tiềm ẩn nào đó, chẳng hạn như bệnh lú lẫn Alzheimer hay một căn bệnh đồng loại nào đó.
- Chúng ta cũng có thề đối mặt với một người đang phải chịu đựng một sự đớn đau vô ngần nào đó cho nên tánh hiền như cục bột của cụ ngày xưa đă bị thay đổi. Sự đớn đau có thể liên quan đến bệnh tật, đến sự lệ thuộc, do sự mất khả năng tự lập ( baisse d autonome) hay do tuổi tác quá cao.
Trong hoàn cảnh nầy chúng ta cũng cần nên nghĩ tới vấn đề trầm cảm nếu tánh khó của cụ có kèm theo các dấu hiệu như việc khép ḿnh (repli sur soi), buồn bă, không màng đến bất cứ một việc ǵ cả (désintérêt), giảm hoạt động không phải v́ khó khăn thể xác hay v́ mất năng lực. Trường hợp nầy cụ cần nên đi khám bác sĩ chuyên môn.
Hỏi:Nhưng tại sao người ta trở nên khó tánh hơn khi về già? Nói tóm lại, người ta có thể bị trầm căm hồi c̣n trẻ, trải qua nhiều giai đoạn khổ đau, bệnh nặng…
Trả lời: Vâng, nhưng điểm quan trọng của tuổi tác cao là việc tất cả mọi người đều biết là không c̣n bao nhiêu thời gian nữa… Tâm trạng nầy làm khơi dậy những ân oán cũ, những chuyện xưa đồng thời cũng làm sống lại chuyện gia đ́nh.
*Về phía cha mẹ,tuổi già làm sống lại nỗi lo sợ ḿnh bị con cháu cũng như thân nhân bỏ rơi. Phản ứng của các cụ là hay thường xuyên bắt chẹt t́nh cảm (chantage affectif) nhằm mục đích làm cho bọn trẻ phải mang mặc cảm tội lỗi qua những lời nhận xét chua chát và mỉa mai chẳng hạn như : “ ḿnh lúc nào cũng chỉ có một ḿnh” “ Ah, cái điện thoại là không phải món sở trường của tụi bây (ư trách móc bọn nhỏ không c̣n màng đến việc gọi phone thăm hỏi ông bà cha mẹ già).
*Về phía con cái, khi c̣n thời gian, người ta cố gắng để đ̣i cho được những ǵ họ chưa từng bao giờ nhận được từ cha mẹ. Thí dụ, tôi (bà Claudine Rodriguez) nghĩ đến một bà mẹ chưa từng bao giờ nói ra lời yêu thương đối với người con gái của bà ta. Bởi lẽ nấy, cô con gái cảm thấy cô ta cần săn sóc bà mẹ nhiều hơn để mong được nghe lời nói yêu thuơng trước khi đă quá trễ.
Ngoài ra cũng cần phải nói đến những xung đột, tranh chấp ngầm trong nội bộ anh chị em với nhau. Nếu tôi (Anh chị em) có cảm tưởng đă bị hất hũi, thiệt tḥi lúc xưa về mặt t́nh cảm yêu thương từ cha mẹ th́ lúc này ḿnh cần phải cố gắng để có được nhiều t́nh yêu hơn các anh chị. Yêu sách về tiền bạc thường được xem như một sự t́m kiếm t́nh thương và sự biết ơn.
Lúc nầy là lúc căng thẳng thường hay xảy ra, v́ tất cả con cháu trong gia đ́nh có thể nghĩ rằng họ là nạn nhân đă bị thương tổn và thiệt tḥi nhiều về về mặt t́nh thần, cho dù dưới những h́nh thức khác nhau.
Mười tánh xấu của cha mẹ già
Phỏng theo tác phẩm- Mario Sollito- How to handle an elderly parent’s bad behavior
“Mẹ tôi làm tôi điên lên” là nỗi ḷng thường được nghe con cái than phiền lúc săn sóc cha mẹ già.
"My mother is driving me crazy!" This phrase is uttered (or screamed) by caregivers everywhere who are caring for elderly parents
1- Điên tiết, tức giận, la hét (rage, anger, yelling)
-Khó chịu, điên tiết lên và không c̣n nhẫn nại, đ̣i hỏi những việc không thể thỏa măn được.
Bệnh lú lẫn (Alzheimer’s) và chứng mất trí (dementia) có thể biểu lộ ra các triệu chứng như trên.
2- Lạm dụng (abuse)
Lạm dụng, hạch sách, dầy xéo tinh thần và t́nh cảm của con cháu hay của người có nhiệm vụ chăm sóc cụ.
3-Không siêng năng tắm rửa (not showering)
Có thể đang trong t́nh trạng bị trầm cảm, không thể tự ḿnh kiểm soát cuộc sống được như thay quần áo, tắm rửa, săn sóc thân thể
8- Không muốn được săn sóc bởi người lạ (Refusing to let outsider caregivers into their house)
Cụ có cảm tưởng là con cháu trong nhà không c̣n muốn hay không thể nào chăm sóc cụ được nữa v́ t́nh trạng của cụ quá bi đát và quá chuyên môn nên cần phải mướn người ngoài.
9- Phung phí quá lố (over spending) hoặc tiết kiệm, hà tiện quá cở (extreme frugalness)
Cụ cảm thấy sụớng, thấy ḿnh ở thế mạnh (powerful)??
10- Lúc nào cụ cũng muốn phải có người hầu hạ, săn sóc túc trực bên cạnh để lo cho cụ (wants all the caregiver’s time & attention ).
C̣n vợ chồng già đối xử với với nhau ra sao?
Vợ chồng ở với nhau lâu ngày th́ “thỉnh thoảng” cũng phải căi lộn nhau chút chút. Đó là chuyện rất ư là b́nh thường. Căi nhau cho vui cửa vui nhà vậy mà.
Người nầy muốn người kia phải giống ḿnh trong mọi việc, bằng cách cố giành lấy phần chỉ huy, phần ưu thế, phần phải v.v…đối với người kia và đây cũng là một bản năng rất thường t́nh trong thế giới của loài vật.
Bà phải nói lớn ra ngoài những ǵ chất chứa âm ỉ trong ḷng và để được giải tỏa cơn bực bội đó. Bà không cần t́m nghe giải pháp của Ông đưa ra đâu. Các Ông đừng có dại mà phân trần và đề nghị giải pháp cho vấn đề nào đó nếu có.
Ngược lại với các bà, lúc các ông im lặng là lúc các ông đang suy nghĩ dữ dội lắm những điều ḿnh muốn nói ra.
Vợ chồng càng khắc khẩu càng sống dai:
Căi lộn sống lâu!(Sách Mỹ nói)
Căi lộn thường xuyên, để xả bớt xú bắp rất tốt cho sức khỏe tâm thần. Các anh các chị sẽ sống rất lâu để căi cho tới ngày xuống lỗ!
Vậy khắc khẩu đâu phải hoàn toàn là xấu đâu.
(theo Spouses who fight live longer! Journal of family communication).
Đàn bà sống dai hơn đàn ông!
Lỡ vợ chết trước th́ một thời gian ngắn sau ông chồng già cũng thăng theo.
Phỏng theo: Hannah Furness- Men more likely to die after losing their wife, but women carry on as normal
Khảo cứu của Gs Javier Espinosa (Rochester Institute of Technology in America) cho biết là ông chồng quá lệ thuộc vào bà vợ về t́nh cảm, tinh thần và về thể xác. Vợ (VN) được xem như là người chăm sóc chồng (caregiver). Trăm việc nhỏ lớn đều do một tay vợ già quán xuyến, lo hết và nắm hết. Từ việc con cái, nhà cửa ngăn nắp, sạch sẽ, tiền bạc dành dụm, bảo vệ hạnh phúc gia đ́nh, canh giữ, kiểm soát ông chồng khỏi bị bà khác sớt đi mất…
Chồng quá ỷ lại vào vợ cho nên khi bả chết bất th́nh ĺnh th́ ông bị chới với, stress tột độ, mất người săn sóc nên ảnh hưởng đến sức khỏe. Thường một thời gian ngắn sau th́ ổng cũng lót tót theo bả về bên kia thế giới.
Ngược lại, trường hợp chồng già chết trước th́ người vợ ít khi bị stress như trên. Bả có thể sống phây phây,vẫn hạnh phúc trong công việc nội trợ, giữ cháu. ..và có vẻ “đẹp ra hơn xưa” trong một thời gian lâu dài…để đi shopping và xí sọn. Vậy có chết th́ nên chết sớm dùm một chút để người ta c̣n dễ tính …./.
“Men were found to be a third more likely to die after being recently widowed, compared with their normal risk of mortality.
Women, on the other hand, had no increased chance of dying after their husbands passed away, with researchers suggesting they are likely to be more independent and prepared.
Professor Javier Espinosa, who led the study at the Rochester Institute of Technology in America, said: "When a wife dies, men are often unprepared.
"They have often lost their caregiver, someone who cares for them physically and emotionally, and the loss directly impacts the husband's health.
"This same mechanism is likely weaker for most women when a husband dies”.
Nghĩ Về Tuổi Thọ
27/04/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời v́ chưa có một ai đă trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”).
Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi.
Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà
Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không?
Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật.
Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ b́nh thường, không ngừng gia tăng thêm lên măi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse).
Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đă đạt được đến mức nầy hay
chưa?
***
Nguyen thuong chanh 01
Bí quyết sống thọ 100 tuổi của cụ ông Vơ Thiện Gia cư dân Van Nuys California
Cụ ông gốc Việt với bí quyết sống lâu 100 tuổi
Monday, June 13, 2016 6:01:08 PM
“VAN NUYS, California (NV) - Xă hội với đời sống tất bật như ở Hoa Kỳ, làm sao để được sống lâu trăm tuổi, là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng lại là điều giản dị với một cụ già gốc Việt.
"Ngày 25 Tháng Sáu tới đây là tôi được tṛn 100 tuổi. Theo tôi, bí quyết giúp tôi sống lâu gồm bốn món 'ham.' Đó là ham mần (làm), ham ăn rau cải, ham tập thể thao và ham vui vẻ," cụ Vơ Thiện Gia, cư dân Van Nuys, California, nói với nhật báo Người Việt.
Cụ Vơ Thiện Gia sanh năm 1916 tại làng B́nh Chánh, tỉnh Long An. Hiện nay cụ ở với người con thứ chín là bà Kim Vân, 60 tuổi.
Cụ cho biết không mong ǵ ở các con, ngoài tấm chân t́nh, ḷng nhân từ và đức hạnh…”(Ngưng trích
Tác giả xin tóm lược sau đây những vấn đề tuổi thọ nh́n qua lăng kính hoàn toàn khoa học của giáo sư Jean Claude Ameisen qua tác phẩm nổi tiếng: «La Sculpture du vivant: le Suicide cellulaire ou la Mort créatrice». (Tác phẩm điêu khắc về sự sống : tự sát của tế bào hay sự chết sáng tạo)
Bs Jean Claude Ameisen là giáo sư môn miễn nhiễm học tại đại học Paris Diderot. Từ 20 năm qua, Gs chuyên tâm khảo cứu hiện tượng tự hủy của tế bào trong tiến tŕnh của đời sống cũng như sự phát hiện ra bệnh tật.
Mấy năm trước đây, cụ bà Jeanne Calment người Pháp được chính thức xem là người có tuổi thọ cao nhất. Bà được sinh ra vào năm 1875, sống một ḿnh đến 110 tuổi, sau đó tiếp tục sống đến giai đoạn cuối của cuộc đời trong viện dưỡng lăo cho đến năm 1997 th́ qua đời, thọ trên 122 tuổi.
Trong lănh vực động vật, tuổi thọ là thước đo của sinh thái (biodiversité). Chim họa mi canari có thể sống đến 10 năm, ḅ 30 năm, quạ 100 năm, cá voi 150 năm, rùa 200 năm...
Sự khác biệt về tuổi thọ cũng có thể xảy ra cho các cá nhân trong cùng chung một chủng loại với nhau.
Tuy có cùng một hành trang di truyền y như nhau, nhưng ong chúa (reine) có thể sống đến 5 năm trong khi các ong thợ (ouvrière) chỉ sống không quá 2 tháng và lại tùy thuộc vào thực phẩm được cung cấp cùng mùi vị sinh dục (phéromones) của ong chúa tiết ra...
Tại sao tất cả mọi sinh vật đều phải già để cuối cùng chết đi?
Đây là một vấn đề hết sức phức tạp.
Từ lâu, các nhà khoa học đều gán cho mỗi chủng loại một khả năng thích ứng để tồn tại và truyền giống (reproduction).
Vậy, liệu sự già và sự chết có đem đến cho sinh vật một lợi ích ǵ không?
Kết quả của hiện tượng tiến hóa (évolution) trong một chủng loại được căn cứ trên sự kiện các sinh vật có thể sinh sản để bảo tồn ṇi giống của chủng loại.
Những đột biến (mutation) có lợi cho tuổi già có thể tích tụ dần dần một cách ngẫu nhiên (aléatoire) trong mỗi chủng loại.
Kết quả của các đột biến vừa kể sẽ không làm tổn hại đến khả năng tiến hóa của chủng loại với điều kiện là đột biến không được xảy ra sau tuổi sinh sản và truyền giống.
Trong một môi trường càng khắc nghiệt hay không thích nghi, cộng thêm với sự hiện diện của thú ăn mồi (prédateurs) th́ sự tích tụ đột biến càng gia tăng nhiều hơn nữa trong mỗi chủng loại.
Trong mỗi tế bào của cơ thể, hay c̣n gọi là tế bào mẹ, đều có sự hiện diện của những phân tử xấu (do độc tố, cặn bă, ảnh hưởng xấu từ môi trường bên ngoài, v.v...). Có thể gọi những thành phần nầy là những phân tử sát thủ (executeur) để hủy hoại tế bào.
Bên cạnh những phường gian ác hiếu thắng, tế bào cũng có chứa những phân tử bảo vệ (protecteur) nhờ đó mà có thể ngăn chặn được tác hại của sát thủ khi đến tuổi sinh dục.
Cũng may trong tiến hóa, cơ thể giữ lại các phân tử bất hảo lại cho chính nó chớ không truyền sang cho các tế bào mầm (cellules germinales) hoặc cội nguồn của tế bào con (cellules filles).
Bỏ lại sau lưng nỗi khổ đau nhọc nhằn đắng cay của tế bào mẹ, tế bào con (noăn và tinh trùng) khởi đầu cuộc hành tŕnh của ḿnh từ zéro với một di sản hoàn toàn trong sáng và mới mẻ để tạo lập ra một con người mới.
Như vậy,tuổi già không phải chỉ là một sự sai lầm đáng tiếc của tạo hóa, nhưng đó cũng là một mặt trái của cuộc đời, một cái giá phải trả cho tất cả sai lầm của chúng ta trong quá khứ.
Sự lăo hóa cũng có thể được xem như là phần đối kháng của hiện tuợng sinh dục (reproduction), chẳng khác nào các bậc cha mẹ phải chấp nhận gánh chịu tất cả lỗi lầm hay tội lỗi trên thế gian nầy, để mong cho con cháu có được một tương lai tươi sáng và huy hoàng trong một xă hội hoàn mỹ hơn...
Qua một cái nh́n khác, lăo hóa có thể được xem như là hậu quả tất yếu của những lỗi lầm, và món nợ phải trả cho thời niên thiếu. Nếu nh́n một cách lạc quan hơn, th́ tuổi già là kết tinh của tất cả các thành tích chớ không phải chỉ là những sai lầm trong quá khứ!
Sinh vật đơn bào và sinh vật đa bào
Cho măi đến năm 1960, người ta c̣n nghĩ rằng hiện tượng lăo hóa và sự chết đă bắt đầu bám theo sự xuất hiện của các sinh vật đa bào (pluricellulaire, multicellulaire), chẳng hạn như các loài thực vật và động vật trong đó có cả loài người từ hơn một tỉ năm.
Để lưu truyền ṇi giống các tế bào sinh dục (tinh trùng và noăn) đă phối hợp lại với nhau để tạo ra một sinh vật mới.
C̣n đối với các sinh vật đơn bào (unicellulaire) như vi khuẩn và các loài men hoặc nấm vi sinh, chúng chỉ có một tế bào duy nhất nên cách sinh sản của chúng là phân cắt làm đôi thành hai tế bào y như nhau và sau đó th́ mỗi tế bào này phân cắt tiếp thành hai tế bào khác, vân vân và vân vân...
Qua sự kiện nầy, theo lư thuyết có nghĩa là chúng không bao giờ già và chết đi được.
Thực tế gần đây, khoa học đă cho biết là sinh vật đơn bào vẫn bị chi phối và program bởi hiện tượng già và chết đi như tất các loại sinh vật đa bào. Bằng chứng là một vài loại vi khuẩn và nấm có nguồn gốc từ 3 - 4 tỉ năm về trước, đều phải kinh qua giai đoạn lăo hóa cũng như tất cả mọi sinh vật khác.
Một tế bào nấm hay là tế bào mẹ chỉ sinh sản ra lối 20 thế hệ tế bào con (cellules filles) sau đó th́ trở nên triệt sản (stérile) và chết đi. Cái vẻ vĩnh cửu của một khối men (levure) không phải là h́nh ảnh của một khối tế bào măi măi trẻ trung nhưng là sự kết tụ tiếp nối theo măi măi của hằng hằng sa số tế bào phù du.
Lư do tế bào mẹ phải chết đă bắt nguồn từ việc tích tụ dần dần các thành phần sát thủ, là phân tử có hại cho tế bào... Khi phân cắt ra tế bào con, tế bào mẹ vẫn giữ lại cho ḿnh những sát thủ nên phải gánh chịu hậu quả theo thời gian. Ngược lại, tế bào con th́ bắt đầu bằng một gia sản mới và trọn vẹn, không một vẩn đục trong cuộc sống.
Sự bất tương đồng giữa thế hệ mẹ có thể xem như là một cơ chế thiết yếu của sự tiến hóa để làm xuất hiện và lưu truyền một hiện tượng bí hiểm đó là sự trẻ trung hóa. Mỗi một tế bào con khi sinh ra đều thụ hưởng, như tổ tiên chúng cách đây trên một tỉ năm, một tiềm năng để được trẻ trung và có thể sinh sản.
Qua hiện tượng lăo hóa của tế bào để rồi sau đó chúng chết đi, chúng ta tự hỏi phải chăng đây là một sự nhiệm mầu của tạo hóa, một tế bào khi chết đi sẽ tạo điều kiện cho một tế bào khác xuất hiện ra...Trong cái sống đă hiện hữu cái chết và ngược lại.
Thời gian già có giống nhau ở tất cả mọi chủng loại hay không?
Giai đoạn già rất thay đổi tùy theo từng chủng loại. Ngày nay khoa học cho biết con người có thể tăng thêm tuổi thọ không phải bằng cách kéo dài tuổi già ra nhưng thật sự là bằng cách kéo giai đoạn trẻ trung...dài thêm ra.
Tuổi thọ tăng nhiều tại các quốc gia kỹ nghệ
Từ 150 năm nay, tuổi thọ không ngừng tăng thêm lên măi trong cộng đồng nhân loại trên thế giới.
Tuổi thọ trung b́nh là:
- Năm 1850: 40 tuổi
- Năm 1950: 65 tuổi
- Ngày nay: 75-80 tuổi
Từ 50 năm qua, tuổi thọ không ngừng gia tăng là nhờ vào sự giảm tử suất ở trẻ sơ sanh cũng như ở người truởng thành.
Tại Nhật bản ngày nay, một người phụ nữ ở lứa tuổi 65 có xác xuất để bà ta sống qua khỏi tuổi 80, là 50 lần nhiều hơn năm 1950.
25 năm trước đây, có 1000 cụ Nhật bản thọ trên 100 tuổi và ngày nay số này đă tăng lên 2800 người .
Tại Pháp, 35 năm về trước, có 1000 cụ ông, cụ bà sống trên 100 tuổi và ngày nay số này nhảy vọt lên 1500 người.
Vậy, tuổi thọ có giới hạn không? Câu trả lời là có, nhưng không ai có thể xác định chính xác được đến mức nào th́ tuổi thọ phải dừng lại...
Các tiến bộ về khoa học, về y khoa, pḥng bệnh, dinh dưỡng, môi sinh, về nếp sống mà chúng ta đang thụ hưởng hiện nay đă dự phần đáng kể trong việc làm gia tăng tuổi thọ trong tương lai.
Tăng tuổi thọ là một chuyện, nhưng phải là tuổi thọ trong sức khỏe mới là chánh yếu
Ngày nay, tổng số cụ ông và cụ bà thọ trên 100 tuổi cũng nhiều hơn ngày xưa gấp bội, và đặc biệt hơn nữa là số người sống trên 100 tuổi trong điều kiện “sức khỏe b́nh thường” của tuổi tác cao cũng rất nhiều.
Các dấu hiệu bên ngoài của lăo hóa đă thay đổi một cách kín đáo, đến độ mà chúng ta không c̣n ư thức đến nó nữa. H́nh một cụ ông 65 tuổi chụp cách đây 60 năm, có vẻ già hơn một cụ ông cùng lứa tuổi ngày nay.
Thật vậy, càng ngày các dấu hiệu của sự già nua càng bị đẩy lùi ra xa. Cùng với tuổi già, bệnh tật cùng bắt đầu xuất hiện ra mà đặc biệt nhất và nguy hiểm nhất là khoảng từ 60 đến trên 80 tuổi. Đó là bệnh ung thư, bệnh tim mạch, và các bệnh lư về sự thoái hóa của hệ thần kinh (neurodégénérative).
Từ 90 tuổi trở đi, xác suất chết sẽ giảm thiểu đi so với giai đoạn trước đó.
Người ta thường không chết cùng một nguyên nhân ở tuổi 70 và ở tuổi 100.
Trong giai đoạn từ 90 tuổi trở lên, các cụ chết v́ cơ thể yếu đi, lực cơ giảm nhiều khiến dễ bị té ngă chấn thương, bắt buộc phải nằm liệt giường, không thể ăn uống được như xưa và bị mất sức. Hệ miễn dịch bị suy giảm đi rất nhiều nên dễ bị bệnh, để cuối cùng...th́ quy tiên mà chúng ta thường gán cho các cụ chết v́ bệnh già.
Có thể nào rút ngắn lại giai đoạn nguy hiểm của tuổi 60-80 hay không?
Các nhà khoa học hy vọng có thể làm giảm bớt sự xuất hiện của bệnh tật bằng các biện pháp pḥng ngừa. Thí nghiệm ở thú cho biết, mỗi khi tuổi thọ của con vật tăng lên 30%, th́ không những hiện tượng lăo hóa được làm chậm lại mà các bệnh liên hệ đến tuổi già cũng ít xuất hiện ra hơn.
Vật thí nghiệm tuy già nhưng sinh hoạt như những vật c̣n trẻ tuổi.
Ngoài các loại thuốc men ra, một số phương pháp khác cũng có thể được đem sử dụng. Chẳng hạn như việc giúp chuột vận động thường xuyên, bằng cách cho nó chạy trong bánh xe đặt trong lồng, sẽ giúp nó cải thiện trí nhớ và làm chậm sự xuất hiện của các bệnh liên hệ đến tuổi già.
Ảnh hưởng của di thể (gène) và ảnh hưởng của môi trường
Thí nghiệm ở các cặp song sinh thật (vrais jumeaux) cho thấy, môi trường sống ảnh hưởng đến 75%, so với 25% ảnh hưởng của gène trên t́nh trạng sức khỏe của một sinh vật.
Ảnh hưởng của y khoa và môi trường
Nguyen thuong chanh 03.jpgVẬN ĐỘNG ĐỂ CÓ SỨC KHOẺ TỐT-2016-73 TUỔI
Lối sống của chúng ta, thí dụ như có rượu chè hút xách không, có cuộc sống lành mạnh không, v.v... chắc chắn là sẽ có ảnh hưởng đến tuổi thọ.
Thật vậy, y khoa giữ một vai tṛ thiết yếu trong việc pḥng và trị bệnh tật, nhưng thuốc men không thể giúp giải quyết được hết tất cả các vấn đề sức khỏe của chúng ta.
Để cho sức khỏe và tuổi thọ được tốt, th́ cần phải có sự phối hợp và hổ trợ của nhiều lănh vực khác nhau chẳng hạn như sinh học, y khoa, tâm lư học, xă hội học, văn hóa, pháp lư và kinh tế, v.v...
Ai cũng biết là t́nh trạng béo ph́ (obésité) càng ngày càng gia tăng tại các quốc gia Tây phương, và nó có ảnh hưởng rất nhiều trên tuổi thọ của người dân.
Vấn đề nghỉ hưu cũng có thể ảnh hưởng trên tuổi thọ của một số người. Đối với nhiều người, nghỉ hưu là sự gián đoạn trong sinh hoạt chuyên môn và có thể kéo theo sự gián đoạn với xă hội và với môi trường sống.
Già và chết chỉ là lẽ thường t́nh của tạo hóa mà thôi!
Hiện tượng già không phải là một tai nạn đáng tiếc, nhưng đó là hậu quả tất yếu của tuổi trẻ và sinh sản.
Chết để tạo điều kiện cho một sự sống khác có thể tiếp nối được.
Cũng như h́nh ảnh hào hùng của loài cá hồi saumon sống ngoài biển nhưng can đảm, bất chấp mọi khó khăn và hiểm nguy, vượt ghềnh, vượt thác, ngược ḍng trở về lại thượng lưu, nơi mà ngày xưa chúng được sinh ra. Và tại nơi nầy, vùng nước ngọt hiền hoà, cá mẹ sẽ đẻ trứng và chết liền ngay sau đó. Thân xác của mẹ trở thành nguồn thực phẩm vô cùng quư báu giúp cho bầy cá con có đủ sức mà t́m đường ra biển, để trưởng thành, và để tiếp nối một cuộc sống khác!.
Người già mất giá.
Họ là một gánh nặng cho gia đ́nh, cho xă hội và cho quốc gia. Họ phải chịu đựng thành kiến từ những lớp người trẻ tuổi, và than ôi, trong đó có cả những người hằng ngày có nhiệm vụ chăm sóc họ như bác sĩ, y tá, y công, nhân viên xă hội và cả con cháu, hoặc thân nhân ruột thịt trong gia đ́nh.
Trong y khoa, lăo y (gériatrie) chỉ mới được nh́n nhận như một chuyên ngành tại Quebec từ gần đây mà thôi, nghĩa là từ giữa những năm 80. Tuy nhiên, giới sinh viên trẻ tuổi không mấy mặn mà với lănh vực quá phức tạp nầy v́ nó đ̣i hỏi ở người thầy thuốc phải có một tinh thần vững chắc, một thể lực cao và nhứt là một tấm ḷng biết thương người vô bờ bến.
Ông Phó thủ tướng, đồng thời là Tổng trưởng tài chánh Nhật Bản Taro Aso (72 t), tuyên bố một câu xanh dờn: “Mấy cụ già mau mau chết đi, sống thọ làm chi tốn tiền vô ích quá”!
Nguyen thuong chanh 04.jpg (Photo internet)
Đa thọ đa khổ?
“Trung tâm nghiên cứu Pew thực hiện khảo sát trên 2.012 người trong khoảng một tháng. Kết quả, khoảng 56% người tham dự khảo sát cho biết họ không muốn áp dụng các biện pháp y học để làm chậm tiến tŕnh lăo hóa.
Hiện có khoảng 13% dân số Mỹ trên 65 tuổi, con số này tăng gấp bốn lần kể từ năm 1900. Tỷ lệ người cao niên gia tăng do y học tiến bộ và giảm tỷ lệ sinh sản. Theo ước tính của Cơ quan điều tra dân số Hoa Kỳ, sẽ có khoảng 400.000 người sống trên 100 tuổi vào năm 2050.
Tuổi thọ trung b́nh của người dân Mỹ hiện nay là 78,7. Đa số những người được hỏi đều trả lời rằng họ muốn sống từ 79 đến 100 tuổi.”
(Ngưng trích: Nhiều người Mỹ không muốn sống thọ hơn100 tuổi, Thoi Bao Online 13Aug 2013)
Kiếp nhân sinh rất phù du hư ảo.
Chúng ta chỉ là một dân tộc ô hợp được kết tinh bởi hằng tỉ tế bào tác động lẫn nhau để tạo nên thân xác và trí tuệ.
Ngày nay, mọi người đều biết rằng tất cả tế bào đều có khả năng tự hủy diệt trong ṿng vài tiếng đồng hồ. Sự tồn vong của tế bào ngày nầy qua ngày nọ tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận được các tín hiệu khả dĩ giúp ngăn chặn lại việc tự sát của chúng. Sự mong manh và tính hổ tương giữa các tế bào lẫn nhau để tồn tại là động lực vô cùng mạnh mẽ giúp cho thân xác chúng ta có thể tái tạo lại được một cách thường xuyên.
Chết, không c̣n được biểu hiện qua h́nh ảnh ghê rợn của lưỡi hái tử thần, nhưng thay thế vào đó là một h́nh ảnh thật mới mẻ của nhà điêu khắc tài ba trong ḷng cuộc sống, tẩn mẩn nhồi nắn để dần dần làm ló dạng ra một h́nh thể mới với tất cả sự phức tạp của nó.
Nhăn quan mới mẻ này đă làm đảo lộn ư niệm của con người về cuộc sống.
Nó giúp chúng ta có thể lư giải lại được hầu hết các bệnh tật, tạo thêm niềm hy vọng về cách chữa trị, và đồng thời làm thay đổi nhận thức về tuổi già.
Nguyen thuong chanh 05.jpg.pngLăo ông vui được phút nào hay phút đó- DEC 2015-.
Kết luận
“Theo Phật giáo,vũ trụ này nằm trong quy luật luân hồi, Thành Trụ Hoại Diệt, không có đầu và cũng không có cuối - vô thủy, vô chung.” (Trích Thuvienhoasen)
Vậy, sanh lăo bệnh tử chỉ là lẽ thường t́nh của tạo hóa mà thôi!.
Chẳng mất mà cũng chẳng c̣n, chỉ là biến đổi lẫn nhau mà thôi… (rien ne se perd, rien ne se crée, tout se transforme. Lavoisier)./.
Tuổi Già Trên Miền Đất Lạnh
23/04/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
Nói đến tuổi già th́ ai mà không băn khuăn, lo nghĩ.
Già có nghĩa là ốm yếu, bệnh hoạn, xấu xí, mất năng lực, không c̣n hữu dụng, mất khả năng, phải trong cậy vào người khác, nghèo khó, buồn năn, cô đơn trong căn pḥng hiu quạnh ngày nầy qua ngày nọ để chờ đến lúc ra đi theo ông theo bà..
.
Trong biến cố đại dịch toàn cầu COVID 19, người già, các cụ trên 70, tuổi già sức yếu thường là nạn nhân …
Nguyen thuong chanh 01Tác giả 78 năm cuộc đời---bóng đêm (Photo NTC 2020)
***
Hầu như mọi quốc gia trên thế giới đều có đề ra những chánh sách để giúp đỡ, tôn trọng và trân quư người già, nhưng đây cũng chỉ là trên lư thuyết mà thôi. Thực tế phải c̣n tùy thuộc vào t́nh trạng kinh tế và quyết tâm chánh trị của từng xứ mà thôi.
Thôi th́ xin các cụ ông và cụ bà hăy tạm hài ḷng với danh dự được xă hội đề tặng sự trân quư và biết ơn bằng những danh xưng rất kêu như: Lăo ông, Lăo bà, Cao niên, Cao tuổi,Tuổi vàng, Tuổi Hạc, Senior citizen, Golden age, Âge d’or, les Ainés , 3e Âge v,v...
Chánh phủ c̣n nhiều khó khăn về ngân sách, phải dành ưu tiên cho thế hệ kế thừa, cho tuổi trẻ, cho tương lai của quốc gia, của dân tộc...
Các cụ cũng đă sống nhiều rồi, xin hăy ráng hy sinh thêm chút xíu nữa cho con cháu nhờ. Chỉ c̣n vài năm nữa thôi cụ nhé!
Nói chung th́ cuộc sống và thân phận của người già tương đối cũng đỡ hơn ở những quốc gia Tây phương, nhưng ngược lại tại quê nhà cũng như tại những xứ nghèo khó, độc tài th́ t́nh trạng người già c̣n lắm xót xa và cay đắng hơn nhiều.
Người già mất giá.
Họ là một gánh nặng cho gia đ́nh, cho xă hội và cho quốc gia. Họ phải chịu đựng thành kiến từ những lớp người trẻ tuổi, và than ôi, trong đó có cả những người hằng ngày có nhiệm vụ chăm sóc họ như bác sĩ, y tá, y công, nhân viên xă hội và cả con cháu, hoặc thân nhân ruột thịt trong gia đ́nh.
Trong y khoa, lăo y (gériatrie) chỉ mới được nh́n nhận như một chuyên ngành tại Quebec từ gần đây mà thôi, nghĩa là từ giữa những năm 80. Tuy nhiên, giới sinh viên trẻ tuổi không mấy mặn mà với lănh vực quá phức tạp nầy v́ nó đ̣i hỏi ở người thầy thuốc phải có một tinh thần vững chắc, một thể lực cao và nhứt là một tấm ḷng biết thương người vô bờ bến.
Ông Phó thủ tướng, đồng thời là Tổng trưởng tài chánh Nhật Bản Taro Aso (72 t), tuyên bố một câu xanh dờn: “Mấy cụ già mau mau chết đi, sống thọ làm chi tốn tiền vô ích quá”!
Top Japanese Official Urges Elderly to ‘Hurry Up and Die’(Tokyo, Dec 27, 2012)
Taro Aso has never been one to hold his tongue. But Japan’s 72 year-old deputy prime minister may have outdone himself with his latest gaffe.
At a government panel to discuss social security reforms, the former prime minister called the elderly who are unable to feed themselves “tube people,” then proceeded to say the elderly should be allowed to “hurry up and die” to reduce the burden on a country tasked to pay for their medical expenses.
Adding his personal experience, Aso said he had already written a will, directing his family to let him “hurry up and die,” refusing end-of-life care.
“Even if (doctors) said they could keep me alive, it would be unbearable,” he said. “I would feel guilty, knowing that (treatment) was being paid for by the government.”
Nguyen thuong chanh 02Không làm ǵ hết là niềm hạnh phúc của trẻ con nhưng là điều bất hạnh cho tuổi già Ne rien faire est le bonheur des enfants et le malheur des vieux (Victor Hugo-Extrait du Tas de pierre)
Bây giờ tôi đă già rồi, khi tôi dến viếng nghĩa trang, tôi có cảm tưởng như tôi viếng những căn nhà trọ .
Maintenant que je suis vieux, lorsque je parcours un cimetière, j’ai l’impression de visiter des appartements . (Edouard Herriot)
Ở đâu cũng vậy, muốn sống như ư, sống dễ chịu th́ phải có tiền để mướn người săn sóc đặc biệt.Tóm lại là phải có tiền. C̣n không th́ ai cũng như ai mà thôi.
Tại Québec,Canada, t́nh trạng lăo hóa là nột hiện thực của xă hội. Hiên nay, số người trên 65 tuổi chiếm 14% dân số. Tuổi 65 là tuổi chánh thức để được xếp vào nhóm người già tại Canada và đuợc hưởng tiền già và các phúc lợi về y tế và xă hội.
Nhà già và nhà nuôi dưỡng dài hạn là những nơi an cư cuối cùng của người cao tuổi. Công có, tư có.
Chăm sóc và services tùy theo điều kiện cũng như khả năng tài chánh của mỗi cụ.
Có những nơi b́nh dân nhưng cũng có những nhà già thuộc loại de luxe 4-5 sao.Tiền nào của nấy mà.
Nghề săn sóc người dưng.
Đây là một ngành kỹ nghệ đang bùng phát lên rất nhanh.
Săn sóc người già trở thành một dịch vụ hái ra tiền.
Tại Montreal hay Toronto, các báo Việt Nam thỉnh thoảng cũng có đăng tin cung cấp dịch vụ thăm viếng, săn sóc người già tại nhà thương hoặc tại nhà. Cũng có gia đ́nh cần người chăm sóc cha hoặc mẹ già. Thường là họ t́m phụ nữ trung niên hay sồn sồn để giúp vào công việc trên. Trả tiền mặt khỏi thuế. Có nơi họ c̣n bao luôn cả ăn và ở.
Có thể gọi đây là nghề săn sóc người dưng.
Công việc săn sóc người cao tuổi, bệnh hoạn, tánh t́nh có khi hơi đặc biệt, là một công việc không đ̣i hỏi tŕnh độ học vấn cao, nhưng cực nhọc, cần sự nhẫn nại, chịu khó, không phải ai cũng làm được hết đâu.
Tại thành phố Sài G̣n hiện nay cũng thấy xuất hiện ra những dịch vụ tương tợ.
Tại Quebec, cơ quan Centre local de services communautaires hay CLSC của nhà nước, nếu có yêu cầu cần sự giúp đỡ, mỗi tuần một ngày họ sẽ gởi người đến để tắm rửa và dọn dẹp căn pḥng cho cụ già neo đơn.
Muốn được đầy đủ, chu đáo và như ư hơn th́ nên nhờ đến các công ty tư.
Nhân tính hóa tuổi già
Denise Dubé là một nhà tâm lư học đồng thời bà ta cũng là một giáo sư về lăo học tại Quebec. Bà có cho xuất bản một quyển sách khảo cứu nhằm mục đích tô điểm lại thân phận người già tại Canada.
Tựa đề tác phẩm là : Humaniser la vieillesse, nouvelle édition Multimonde (2006).
Psychologue clinicienne auprès des adultes et des personnes âgées, DENISE DUBÉ est professeur de psychologie au Collège François-Xavier-Garneau. Elle a enseigné la psychologie gérontologique au Campus Notre-Dame-de-Foy, au Collège François-Xavier-Garneau et à l’Université Laval
Đây là một tác phẩm khảo cứu về thực trạng của vấn đề lăo hóa tại Canada. Tác giả muốn nhân tính hóa hiện tượng cao tuổi. Tuổi già cũng có cái hay của nó.
Sách có kèm theo rất nhiều tham khảo chuyên môn rất giá trị. Chủ yếu nhắm vào những người có nhiệm vụ săn sóc người già.
Sau đây là một số đúc kết từ quyển Humaniser la Vieillesse(Nhân tính hóa tuổi già)
Nguyen thuong chanh 03B́a sách
Các bạn có biết rơ tuổi già là thế nào hay không? Page 5 à 15
(Nên nhớ đây là khảo cứu về lăo học tại Canada, một xứ giàu có và có khá đầy đủ cơ chế xă hội để giúp đỡ và bảo vệ người già từ 65 tuổi trở lên (tiền già, trợ cấp y tế miễn phí, chung cư giá hạ, nhà già v,v…)
1) Đa số người già đều có dấu hiệu lăo suy (sénile) và sa sút trí tuệ (démence)
Đây là một xét đoán không có cơ sở. Ngược lại, đa số các cụ không có bị xáo trộn tinh thần. Nhận xét tiêu cực trên đây có thể do sự lẫn lộn giữa t́nh trạng sa sút trí tuệ và t́nh trạng lăo hóa của nhận thức b́nh thường (vieillissement cognitif normal).
Tại Canada 8% dân số trên 65 tuổi có dấu hiệu sa sút trí tuệ và lối 5% mắc bệnh lú lẫn Alzheimer.
2) Ngũ quan có khuynh hướng giảm theo tuổi
Các khảo cứu cho thấy ngũ quan có giảm đi khi về già. Bắt đầu là các chức năng cảm giác (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) có vấn đề vào lứa tuổi 60.
3) Đa số người cao tuổi không c̣n sự ham muốn t́nh dục (libido) cũng như không có khả năng làm t́nh.
Nếu bạn cho rằng sự kiện trên là đúng th́ chắc bạn nh́n nhận rằng đối với các cụ già, sex chỉ c̣n là những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ (meilleur souvenir) mà thôi.
Nhưng các nhà t́nh dục học nổi tiếng như Masters et Johnson th́ cho rằng sự ham muốn vẫn có thể c̣n được duy tŕ một cách satisfaisant (không quá tệ) ở những cập vợ chồng thuộc lứa tuổi 70 và 80.
Không thấy tác giả Masters et Johnson so sánh việc ăn cơm với ăn phở.
Riêng về phía các cụ bà, Masters et Johnson cho rằng họ không có bị giới hạn v́ tuổi tác nhưng tiếc thay về phía cụ ông, sex bị chi phối bởi điều kiện thể xác và tinh thần.
Đa số các ông đều chết sớm nên các bà đành chịu thôi.
Masters, W.H Johnson. Human sexual responses. Boston Littlt; Brownand company (1966)- Human sexual Inadequacy (1970) và Human sexuality(1992) NewYork, Harper Collins.
4) Khả năng hô hấp giảm khi về già.
Thật ra hô hấp giảm dần từ tuổi 30 trở đi. Đây là dung tích volume không khí hít vào 2 lá phổi và thở ra trong 15 giây.
5) Đa số người già đều cảm thấy khổ sở
Khảo cứu cho thấy ngược lại. Tại các sứ phương Tây, người già rất thỏa măn trong cuộc sống rất cao của họ.
6) Thể lực có khuynh hướng giảm thiểu khi về già
Thể lực giảm đi từ 10-20% đến tuổi 70. Tuy nhiên sự suy giảm thể lực có thể bị đẩy lùi lại nhờ vào những chương tŕnh luyện tập thích nghi.
7) Tại Canada, ít nhất 15%người già sống trong các nhà già (résidence) và các nhà săn sóc dài hạn (centre de soins de longue durée, CSLD, Long term care facility)
Sai- Theo thống kê Canada, 17% dân số trên 65 tuổi nhận được sự trợ giúp tại gia. Ngoài ra 6% được chăm sóc tại các trung tâm săn sóc dài hạn.
8) Người già nếu c̣n làm việc thường cho năng suất kém hơn người trẻ tuổi
Mặc dù có những suy giảm về một vài chức năng và tốc độ phản ứng có chậm đi nhưng người già cũng có thể làm việc có hiệu quả không thua ǵ người trẻ. Bù lại người già có tỉ lệ vắng mặt ít hơn người trẻ, ít bị tai nạn hơn và cho năng suất đều đặn hơn.
9) Lối 80% người già có sức khỏe tương đối tốt và tự lập để có thể sinh hoạt b́nh thường mà không cần đến sự trợ giúp của người khác
10) Người già hay giữ y thói quen của họ, rất bảo thủ và không chịu mọi sự thay đổi
Người già thường có thái độ rất ổn định, nhưng đa số vẫn chấp nhận sự thay đổi và thích nghi vào điều kiện mới: nghỉ hưu, con cái ra riêng, gáo bụa, thay đổi chổ ở, bệnh tật...
Họ vẫn có khả năng thích nghi vào mọi t́nh huống như giới trẻ.
11) Người già học hành chậm, đ̣i hỏi nhiều thời gian để thu nhận được một vấn đề mới mẻ
12) Trong thực tế, người già không thể nào có khả năng học hỏi để tiếp thu được một kiến thức mới
Sai-Khả năng thụ đắc một kiến thức mới đều có ở mọi lứa tuổi. Đối với người già họ cần phải có thời gian và điều kiện thuận tiện.
Càng ngày càng có nhiều đại học và trường cao đẳng mở những chương tŕnh bổ túc formation continue thích nghi vào nhu cầu của lớp người già.
13) Tóc độ phản ứng ở người già thường chậm hơn so với người trẻ
14)
15) Nói chung tất cả người già đều giống nhau
Không- Họ không giống nhau hết đâu. Khả năng trí tuệ, nhân cách, thái độ, cũng như các biến số về thể xác và xă hội đều khác biệt nhau ở người nầy so với người kia.
Sự kiện khác biệt về cá thể nêu trên đă đánh đổ ư niệm khuôn đúc cho rằng tất cả các cụ đều giống nhau hết.
16) Đa số người già ít khi buồn chán
Có khảo cứu cho thấy chỉ có 17% người già rơi vào t́nh trạng khó t́m được một sinh hoạt như họ mong muốn, c̣n lại 2/3 th́ cho rằng họ không bao giở buồn chán.
17) Đa số người già đều bị tách biệt ra và họ cảm thấy rất cô đơn
Khảo cứu 1981 cho biết 13% người già thú nhận họ rất cô đơn trong cuộc sống, nhất là những người gáo bụa, những người sống trong các viện dưỡng lăo. Sự cô đơn gắn liền với bênh tật ở một số các cụ, nhất là bệnh tâm thần. T́nh trạng cô đơn có một tác dụng tiêu cực đối với hệ miễn dịch và từ đó kéo theo nhiều bệnh tật.
18) Đa số các nhà chuyên môn (bác sĩ, y tá, y công, chuyên viên xă hội...) trong phạm vi nghề nghiệp thường có ư tưởng không tốt đối với người già.
Họ tin vào những khuôn đúc stéréotypes tiêu cực. Bởi lẽ nầy, họ vẫn thích làm việc, săn sóc bệnh nhân nhỏ tuổn hơn là người già cả.
19) Những người già nào c̣n duy tŕ được sinh hoạt của ḿnh thường cảm thấy hạnh phúc hơn những ai ít c̣n họat động.
Khảo cứu cho biết hạnh phúc của tuổi già không dính liền với nếp sinh hoạt hay sự thiếu hoạt động, nhưng thật sự ra là nhờ tiến tŕnh thích nghi (processus d’adaptation) của họ trong đó nhân cách (personnalité) đóng một vai tṛ quan trọng.
Tóm lại, có cụ cần phải hoạt động, có cụ khác th́ cần sự yên tịnh và sự riêng tư để có được hạnh phúc.
20) Đa số người già vẫn c̣n sinh hoạt hay có ư muốn làm một công việc ǵ đó, chẳng hạn như làm thiện nguyện.
21) Đa số người già ít khi nổi giận bất tử.
Rất ít khảo cứu cho biết vấn đề nầy, nhưng phần đông các cụ cho biết là đôi khi họ cũng cảm thấy khó chịu (irrité)
22) Nhân cách không thay đổi lúc về già
Khảo cứu cho biết nhân cách rất ổn định trong suốt cuộc đời, nhưng cũng có khảo cứu khác cho biết cá tánh có thể thay đổi theo tuổi tác. Đó là sự gia tăng khuynh hướng nh́n vào nội tâm (augmentation de l’intériorité) nhằm t́m ra ư nghĩa của cuộc sống.
Tuy có rất nhiều khảo cứu đă giúp chúng ta hiểu được phần nào thực chất của tuổi già nhưng than ôi, trong xă hội ngày nay người già vẫn c̣n phải chịu lắm đắng cay, ngược đăi...
Hiện tượng lăo hóa vẫn c̣n phải chịu đựng áp lực từ những huyền thoại (mythes) và từ những khuôn đúc tiêu cực.
Khuôn đúc tiêu cực và huyền thoại về lăo hóa có thể khiến chúng ta có thái độ tiêu cực mỗi khi có dịp tiếp xúc với người già. Những thái độ tiêu cực có thể là:
* nỗi lo sợ người già, lo sợ tuổi già (gérontophobie)
* đánh giá người già qua tuổi tác (âgisme)
*thái độ xem nguời già như con nít (infantilisation ou bébéisme).
Đây là nguyên nhân đưa đến sự kỳ th́ để khước từ một dịch vụ nào đó. Thí dụ “thôi đi pa ơi, pa già quá rồi, hổng được đâu”. Sợ già cũng thường hay thấy xảy ra ở phía các bà. Đây là một cách chối từ lăo hóa (page 14-15).
Khuôn đúc tiêu cực quá phổ biến trong xă hội đă khiến cho không ít cụ tin theo những ư tưởng sai lầm trên và họ dễ dàng xuôi tay chấp nhận.(page 17)
Nguyen thuong chanh 04.jpgLăo ông 78 t- 2020
Một số huyền thoại về người già
Huyền thoại là sự sáng tạo ra một h́nh ảnh trong trí năo mà không dựa vào một thực tế nào hết. Sau đây là một số thí dụ:
*Phần lớn người già đều bị lăo suy(sénile) hay bị sa sút trí tuệ hay thác loạn tinh thần (démence)
*Đa số người già đều rất khổ sở
*Về mặt làm việc, người già không có năng suất bằng người trẻ tuổi
*Đa số người già hay bệnh hoạn và cần đến sư giúp đỡ trong đời sống hằng ngày.
*Người già thường hay giữ thói quen, rất bảo thủ khó bắt họ thay đổi được.
*Bất luận người già nào họ đều giống nhau hết
*Phần đông người già đều sống cách biệt và họ thường cảm thấy cô đơn
Các nghiên cứu về lăo học (gérontologie) đă giúp sửa sai lại rất nhiều quyền thoại về người già nhờ đó mà chúng ta có thể hiểu và cảm thông với hoàn cảnh đáng thương của họ.
Sự thiếu hiểu biết về hiện tượng lăo hóa không những được thể hiện qua các huyền thoại mà c̣n xuyên qua các khuôn đúc (stéréotypes) tiêu cực
Một số khuôn đúc về người già
Khuôn đúc là một tổng hợp những ư tưởng đă có từ trước, những sự tin tưởng hay ư kiến sai lầm, gán đại cho tất cả cá nhân của một tập thể.
Chẳng hạn như:
1)Thích giao tế, họp hành với bạn bè
2)Thích đùa giỡn, vui cười
3)Lo sợ cho tương lai
4)Thích đánh bài và các tṛ chơi khác
5)Thích đấu láo, kể lại chuyện đời ḿnh ngày xửa ngày xưa
6)Thích nhờ cậy, tùy thuộc vào con cháu (nhờ cậy tiền bạc, ư kiến) , không dám tự ḿnh quyết định lấy vấn đề.
7) Hay bị bệnh hoạn, cần uống nhiều thuốc
8)Có tật hay lải nhải, nói đi nói lại toàn chuyện cũ rích.(radoter)
9) Ít săn sóc (râu ria, tóc tai bù xù), không lo nghĩ đến bề ngoài của ḿnh như ăn bận lôi thôi chẳng hạn.
10)Rất sùng đạo, hay cầu nguyện
11)Rất nhạy cảm, hay âu lo.
12)Không c̣n biết ham muốn hay quan tâm đến sex, chê cơm ngán phở, hết xí quách.
13)Quá yếu để luyện tập thể dục
14)Lợi tức kém hay nghèo quá
Tác giả Denise Dubé cho biết trong số trên có thể nhận diện thật sự được khuôn đúc trong 7 trường hợp:3,5,6,7,8,10 và11. Đây là những khuôn đúc tiêu cực nói lên h́nh ảnh bất an,yếu đuối, suy sụp, giảm chức năng, sự lệ thuộc và cảnh cách biệt, cô đơn của người già.
Những diều kiện để có được một sức khoẻ tâm thần tốt ở tuổi già
Theo Conseil consultatif national sur le troisième âge(1991), nhân cách của một cá nhân, hành động của họ và những cách để vượt ra khỏi t́nh trạng căng thẳng stress, tất cả đều là những yếu tố giúp ích vào sự duy tŕ một sức khỏe tâm thần tốt ở người già.
Bên cạnh đó cũng phải kể thêm vào các yếu tố khác như có sức khỏe, có an ninh, mối giao tiếp xă hội và gia đ́nh, có thể tham gia vào những sinh hoạt hữu ích và có một điều kiện sinh sống ổn thỏa.
Ḷng tự trọng (estime de soi), nghĩa là ḿnh sao th́ chịu như vậy cũng được xem là quan trọng để duy tŕ một sức khỏe tâm thần tốt.Người biết tự trọng không hạ ḿnh xuống thái quá cũng như không phách lối, khoác lác.
Một ḷng tự trọng yếu kém sẽ dẫn đến sự lo âu, nghi ngờ về khả năng của ḿnh, do dự trong hành động và cuối cùng là rơi vào trạng thái trầm cảm.
Trầm Cảm (dépression): thựng hay xảy ra ở người già, nhất là các cụ sống trong các viện dưỡng lăo. Có nhiều khảo cứu cho rằng trầm cảm là một diển tiến b́nh thường của tuổi già. (Page 154).
Dưới đây là các dấu hiệu của t́nh trạng trầm cảm:
-Thay đổi hành vi (comportements): có vẻ chậm lại, không màn tham gia vào những sinh hoạt mà cụ thích lúc trước. Không tham gia vào các mối giao tiếp xă hội, sống ẩn dật, rút vào bóng tối.
-Thay đổi cảm xúc (émotionnels): Buồn chán cực độ, tâm hồn trống rỗng, thất vọng, mất moral, bức rức, lo âu.
-Thay đổi nhận thức(changements cognitifs): khó tập trung tư tưởng và trí nhớ, tự phê b́nh, tự hạ giá ḿnh xuống, có ư tưởng quyên sinh.
-Thay đổi liên quan đến chức năng của cơ thể (physiques): mất ngủ, thức sớm, đau nhức mệt mỏi triền miên, mất năng lực énergie, mất hứng làm t́nh, táo bón, nhức đầu...
Theo một khảo cứu Hoa Kỳ, người tỵ nạn VN trên 55 tuổi có tỉ lệ mắc bênh tâm thần cao so với các White non hispanic tứcMỹ trắng (không phải Latino). Đối với người Việt Nam đây là một vấn đề cấm kỵ tabou, ít người muốn nói đến kể cả bệnh trầm cảm (depression).
Many Vietnamese refugees who immigrated to the U.S. in the 1970s,’80s and ’90s suffered from depression and post-traumatic stress disorder, and they continue to have mental health issues today,” said Ngo-Metzger, medicine assistant professor according to a UC Irvine Center for Health Care Policy analysis of state data.
Căng thẳng tinh thần (stress) trong cuộc sống là nguyên nhân của sự suy sụp tinh thần.
Sau đây là một số khuyến cáo trích từ tài liệu quảng bá của Association canadienne pour la santé mentale và Humaniser la vieillesse của Denise Dubé.
Làm sao tránh stress?
1) Đối mặt với nỗi lo sợ già và bệnh tật: Chấp nhận sự thật, giữ một thái độ tích cực, đi khám bác sĩ thường xuyên, cẩn thận vớc các loại thuốc đang sử dụng, nắm vững sức khỏe trong tay ḿnh, ăn uống quân b́nh, uống ít rượu, bớt thuốc lá.
2) Đối mặt sự ra đi của người thân, của bạn bè: Hăy sống với t́nh cảm mất mát đó, đứng trước cái tang hăy nhớ lại quảng đời của người quá văng, nên nhắc lại thường xuyên, kêu gọi đến gia đ́nh và bạn bè người quá cố để hồi tưởng lại những kỷ niệm.Sẵn sàng giúp đỡ người khác nếu họ cần.
3) Đối mặt với nỗi niềm cô đơn: Nên giữ nếp sinh hoạt b́nh thường và cố t́m thêm bạn bè bất luận tuổi tác, dùng thời gian bên cạnh cháu chắt, làm thiện nguyện, gơ báo chùa, làm thơ…
4) Đối mặt với việc nghỉ hưu: Lập danh sách những năng khiếu của ḿnh, tái liên lạc lại với bạn bè, làm những ǵ ḿnh ưa thích.
5) T́m cho cuộc đời một ư nghĩa: Tổng kết, làm bilan những ǵ ḿnh đă thực hiện được trong đời, dấn thân engagement, hăy có thái độ lạc quan, có niềm tin vào một tôn giáo.
Để có một tuổi già xứng đáng cần phải xác định ư nghĩa của cuộc đời ḿnh. (page 174)
Ư nghĩa cuộc đời (sens de la vie) và sức khỏe tâm thần thường có liên hệ mật thiết với nhau.
Sự t́m ra ư nghĩa cuộc đời giúp cho người cao tuổi có một sức khỏe tâm thần tốt, một tinh thần ổn định trong lúc bị dằn vặt v́ bệnh tật.
Ư nghĩa cuộc đời bắt nguồn từ lănh vực tâm linh và tôn giáo. Các người già thường quay về quá khứ để t́m ư nghĩa cuộc sống, suy nghiệm về những giá trị mà họ đă tiêm nhiễm cũng như t́m nguồn an ủi vào đức tin và ḷng tín ngưỡng.
Ngược với tuổi già, giới trẻ thường hướng về tương lai để phát họa một mục đích mới hầu cho cuộc sống của họ có được thêm phần ư nghĩa hơn.
Người già quay vào nội tâm để suy tư về cuộc đời. Họ cũng có thể t́m hiểu ư nghĩa cuộc sống qua những thành tựu của họ trong hiện tại, từ những sinh họat, từ những mối liên hệ gia đ́nh và bạn bè. Tất cả đều có thể giúp cho họ đạt được sự măn nguyện cá nhân.
Tuổi già chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời mà thôi
Suy nghiệm lại ư nghĩa của đời ḿnh trong một viễn ảnh rộng lớn, căn cứ trên những thành tựu cũng như trên những thất bại, đớn đau và hạnh phúc. Nhờ đó mà người già sẽ nhận thức được đến một mức độ nào đó về sự khôn ngoan (sagesse) của ḿnh.
Qua việc xác định lại bản sắc identité mới của ḿnh, người già sẽ tạo ra những mối dây liên lạc mới với mọi người đồng thời điều chỉnh lại những thang giá trị cá nhân mà họ đă có từ trước.
Tuổi già Việt Nam tại hải ngoại th́ sao?
Tại hải ngoại, phần lớn người Việt tị nạn thuộc thế hệ thứ nhứt nay cũng tṛm trèm trên dưới 70 tuổi hết rồi.
Đối mặt với một xă hội và một nền văn hóa Tây phương tôn trọng chủ nghĩa cá nhân, hoàn toàn khác biệt với nền văn hóa Việt Nam coi trọng chữ hiếu, nhưng một số không ít bậc cha mẹ VN vẫn c̣n mang nếp suy nghĩ cũ, độc đoán trong cách dạy dỗ, bắt buộc con cái phải thế nầy thế nọ.
Cách suy nghĩ của lớp cha mẹ thường là nguyên nhân đưa đến những sự va chạm với lớp con cháu trưởng thành bên nầy. Sau đây là những điều thường thấy ở một số ít cha mẹ Việt Nam tại hải ngoại.
-Kiểm soát, ṭ ṃ, soi mói đời tư của con, chen vào cuộc sống t́nh cảm của tụi nó, kiểm soát thơ từ, bạn bè, bồ bịch của con cái, ép buộc con cái phải học những ngành nghề mà cha mẹ muốn. Quyết định thay tụi nó mà không thèm hỏi ư kiến trước, ỷ tao đẻ mầy ra tao muốn làm ǵ th́ làm, áo mặc sao qua khỏi đầu. Muốn vô pḥng con cái th́ cứ tự nhiên xô cửa vô, muốn ghé nhà của chúng th́ ghé đại không thèm báo trước. Trách con cái sao không ghé thăm ḿnh, không thèm gọi phone cho má. Hoặc than phiền con cái sao không biết mua sắm cho pa má cái nầy cái nọ, đưa pa má đi du lịch như con của người khác. Thường có ư kiến “linh tinh” làm tụi nó bực ḿnh.
Đối với các gia đ́nh Việt Nam sống tại hải ngoại cũng c̣n cần phải nói đến vấn đề thiếu sự đồng cảm do khoảng cách thế hệ generation gap gây ra.
Chênh lệch về tuổi tác cộng thêm sự dị biệt giữa hai nền văn hóa Đông và Tây cũng thường là những nguyên nhân dẫn tới sự va chạm giữa cha mẹ và con cái.
Cha mẹ th́ khư khư muốn ôm giữ những giá trị đạo đức của nền văn hóa Khổng Mạnh lấy chữ hiếu làm đầu. Con cái lớn lên, học hành và trưởng thành tại xứ người, hấp thụ nền văn hóa Tây phương, rất thực tiễn và coi trọng chủ nghĩa cá nhân, nên sự thông cảm giữa cha mẹ và con cái đôi lúc không thể như ư mong muốn của mọi người được.
Rồi c̣n phải nghĩ đến cơn khủng hoảng tuổi vị thành niên (teenage crisis) nữa. Trong giai đoạn nầy cô chiêu hay cậu ấm có thể nổi chứng lên bất tử khiến cha mẹ không biết đâu mà rờ và cũng đôi khi muốn khùng luôn theo tụi nó.
Có người đổ thừa rằng con hư là tại cha mẹ không biết dạy dỗ, cưng chiều quá mức. Đúng, nhưng vấn đề nhân sinh nầy không đơn giản như vậy mà nó c̣n vượt xa hơn ra ngoài phạm vi tôn giáo, và giáo dục gia đ́nh nhiều lắm.
Gia đ́nh nào may mắn hay “có phước” th́ con cái c̣n nghe lời đôi chút, ngược lại th́ đành cắn răng mà chịu đựng. Làm quá, th́ dám mất luôn con. Bye bye...
Nghĩ cho cùng, không phải lỗi của ai hết. Chỉ do hoàn cảnh mà thôi.
Chưa chắc nếu ḿnh c̣n ở bên Việt Nam th́ hoàn cảnh gia đ́nh sẽ khá hơn đâu.
Con cái không thể hiểu cha mẹ được cũng như cha mẹ không thể nào hiểu nổi con cái.
Cha mẹ cần nên biết con cái cũng có những nhọc nhằn, khổ tâm của chúng trong cuộc sống riêng tư.
Xă hội ngày nay, bên nhà cũng như bên nầy, nói chung đă thay đổi nhiều rồi.
“Nếu tuổi già không có giá trong gia đ́nh Tây phương cận đại là chuyện thường t́nh, hiện tượng tuổi già bị mất uy quyền, mất sự kính trọng trong gia đ́nh Việt Nam là một xúc phạm lớn, là điều mà các bậc cha mẹ VN chưa dễ dàng chấp nhận. Đây là một góc cạnh khác của thảm trạng gia đ́nh VN” (Trích Tuổi già chúng ta- GS Lâm Văn Bé).
Nhà già là giải pháp tất yếu của hầu hết chúng ta
Trong biến cố đại dịch toàn cầu COVID 19, người già, các cụ trên 70, tuổi già sức yếu thường là nạn nhân …Số tử vong trong các nhà già CHSLD (centre d’hébergement et de soins de longue durée) tại Quebec nói riêng và Canada nói chung rất cao.
Kẻ trước người sau vô đó để chờ ngày ra đi. Chạy đâu cũng không khỏi.
Tác giả Trịnh Thanh Thủy có viết bài Cơn ác mộng của người già trong viện dưỡng lăo (tại Cali) nói lên một sự thật mà nhiều người cố t́nh không dám nghĩ tới.
“Thật vậy, “Viện dưỡng lăo” hay “Nursing Home” từ lâu đă là cơn ác mộng của người già, người bệnh cũng như những người mất năng lực tự vệ. Hai chữ “Nursing Home” là hai từ đánh thốc vào tim tạo nên các cơn kinh hăi của các cụ cao niên…” (Ngưng trích Trịnh Thanh Thủy)
Nguyen thuong chanh 05.jpg.pngTương lai của chúng ta-Đa thọ đa khổ (photo internet)
Nhà ta ta ở
“Trong đầu óc chúng tôi - những hội viên của hội lăo này - cụ nào cũng có một vài ba cái kinh nghiệm của bà con , của bạn bè về những vụ ở chung với con cái . Chuyện nào cũng chẳng có happy ending ǵ hết , mà đều là bẽ bàng , dại dột . Bố hay mẹ goá , nghe lời ngon ngọt của con - trai hay gái - bán nhà , đem tiền về gửi con , rồi ở với con với cháu cho chúng nó có th́ giờ trả hiếu . Nhưng chỉ chừng vài ba tháng trăng mật , khi chúng rút hết tiền trong két nhỏ cũng như « công » lớn , chúng bèn nhắc nhở , khách ở trong nhà giống y hệt như cá như tôm , chỉ đến ngày thứ ba là ươn , là thối śnh lên rồi . Thế là ông bà già tức tưởi , khăn gói quả mướp ra đi với hai bàn tay trắng theo đúng nghĩa đen cũng như nghĩa trắng . Hỏi đến tiền chúng cứ tảng lờ như không hiểu bố mẹ nói ǵ . Cụ nào cũng tắc lưỡi nói , vẫn biết đây là chuyện hàng xóm , con ḿnh chả đến nỗi thế , nhưng nó ở nhà ḿnh th́ ḿnh là chủ những nó vẫn coi là nhà của nó , nhưng ḿnh ở nhà nó là không được , v́ nhà nó là nhà nó , không phải là nhà ḿnh , nó là chủ mà ḿnh là người ở nhờ” (Ngưng trích Bà Ba Phải-Ở với ai?) .
Phan Nguyên Luân-Chuyện buồn vui của các cụ tuổi cao niên tại hải ngoại
Nói đến tuổi già là một vấn đề quá phức tạp và vô cùng rộng lớn.
Dù muốn dù không, trước sau ǵ ai cũng đều phải trải qua giai đoạn đó hết.
Tùy theo theo hoàn cảnh, tùy theo cá tánh và tùy vào đức tin tôn giáo mà mỗi người sống tuổi già của ḿnh một cách khác nhau, b́nh an thanh tịnh hay không.
Cái chết không làm cho người già lo sợ, họ đă chấp nhận rồi v́ không thể nào làm khác hơn được.
Họ chỉ sợ thời gian trước khi chết mà thôi. Sợ bịnh tật làm hao ṃn thể xác và đau đớn tâm hồn. Sợ ỉa trây đái dầm làm mất phẩm cách. Sợ bị bạc đăi. Sợ phải trong cậy vào con vào cháu hoặc người khác trong sinh hoạt hằng ngày...
Denise Dubé, qua tác phẩm Humaniser la vieillesse có thiện ư nói lên một sự thật mà nhiều người cố t́nh không muốn biết. Đây có phải là một ảo tưởng, một tham vọng quá to tát chăng?
Nhưng than ôi! một cánh én không thể làm nổi một mùa xuân.
Cho dù sống ở đâu đi nữa, sự thật là người già Việt Nam vẫn c̣n phải chịu khổ mọi bề, nhứt là về mặt tinh thần. Vấn đề không ít người già bị con cháu ngược đăi, không kính trọng, tước mất uy quyền là những sự thật trong xă hội ngày nay mà ít người muốn bàn đến.
“Qua kinh nghiệm "Một Ngày Với Tuổi Trăm Năm" vừa tŕnh bầy, thực tâm tôi không muốn sống trường thọ đến tuổi "bách niên" để phải trả giá dù nhẹ hay nặng bởi v́ sự việc đó chắc chắn sẽ liên hệ đến các con và người thân của tôi sau này... khổ đau sẽ nhiều hơn hạnh phúc! Tuy nhiên, muốn là một chuyện, không ai trong chúng ta tránh khỏi số mệnh đă an bài…” (Ngưng Trích Một Ngày Với Tuổi Trăm Năm- Cao Đắc Vinh).
Hăy sống trọn vẹn từng ngày một
Ngày hôm qua, với gánh nặng của những nỗi lo âu, phiền muộn, lỗi lầm, sai trái và những chạnh ḷng đớn đau của nó.
Ngày hôm qua đă vĩnh viễn vượt thoát khỏi tầm tay chúng ta rồi.
Với tất cả vàng bạc châu báu của cả thế gian nầy chúng ta cũng không thể nào níu kéo quá khứ trở lại được. Chúng ta không thể giải quyết được chuyện đă rồi, sửa chữa những lỗi lầm và lời sai trái đă thốt ra. Ngày hôm qua là một ngày đă chấm dứt.
*Ngày mai với sự lo âu, với bao niềm ước mơ tốt đẹp, hứa hẹn, hy vọng hay cũng có thể sẽ gặp toàn là những kết quả tồi tàn, những nỗi bất hạnh, và gánh nặng triền miên sẽ giáng xuống đời ta.
Ngày mai không thuộc về ta. Chúng ta không có thể biết, không thể tiên đoán và kiểm soát nó được.
Mặt trời vẫn mọc, rực sáng khắp mọi nơi hay mặt trời phải khép ḿnh, che lấp sau những cụm mây tối tâm bất tận.
Ngày mai thuộc về tương lai. Nó chưa đến th́ chúng ta cũng không thể nói ǵ được, biết ǵ được.
*Chúng ta chỉ c̣n lại có ngày hôm nay.
Chúng ta chỉ có thể tung hoành trong một ngày thật ngắn ngũi mà thôi.
Hăy trân quư ngày hôm nay.
Chúng ta sẽ mất tinh thần, sẽ mất hết niềm tự tin cũng như sự can đảm, và cuộc sống chúng ta sẽ ch́m đi nếu chúng ta để gánh nặng của ngày hôm qua và của ngày mai chồng chất thêm vào gánh nặng của ngày hôm nay.
Không phải những kinh nghiệm của ngày hôm nay làm chúng ta thất vọng, nhưng đó chính là những đắng cay, hối hận, dằn vặt của ngày hôm qua cùng những nỗi lo ngại, ưu tư của ngày mai chưa đến, đă làm u ám vẫn đục ngày hôm nay.
Sợ Chết, Quên Sống
01/04/2020
Bs thú y Nguyễn Thượng Chánh DVM
Từ cuối tháng 12/2019 đến hôm nay là cuối tháng 3 / 2020, biến động đại dịch corona (covid 19) đă gieo tang tóc và chết chóc khắp cả thế giới-Bấn loạn khắp nơi không biết chừng nào dứt đây? Từ sáng sớm tới khuya Tv, internet không ngừng tin tức về đại dịch với số nạn nhân cập nhật từng giờ một…Tác giả muốn khùng đây v́ bị phobia ám ảnh tinh thần.
blank
Corona virus
Chết vẫn c̣n là một việc cấm kỵ tabou, một điều quá bí ẩn đối với tất cả mọi người. Từ trước tới giờ vẫn chưa có người quá văng nào trở lại dương thế để kể lại cho bà con ta nghe với.
Con người sợ những cái ǵ mập mờ, không rơ ràng.Khi gặp những cái mà họ không biết rơ, họ thường hay tưởng tượng, mà xu hướng thường là nghĩ đến những cái đáng sợ nhất,cũng có thể do bản năng tự vệ của con người, họ nghĩ ra như vậy để cảnh báo bản thân trước mối nguy hiểm nào đó
Cái chi phối chúng ta chính là bản năng của sự sống + phần vô thức thông báo nguy hiểm dưới dạng.. ma quỷ. Tuy nhiên, chính nhất vẫn là duy tŕ ṇi giống (một số loài chuột khi đông quá th́ chúng đi... tự tử). Người nào có tâm vững (hoặc bị thôi miên) th́ sẽ điểu khiển dược suy nghĩ + hành động của bản thân trước nguy hiểm (nhanh hơn người thường).
Chuyện cận tử, thân trung ấm, lúc vừa mới chết th́ hồn bay lơ lửng đâu đó, rồi vào đường hầm thấy toàn ánh sáng chóa ḷa, gặp lại bà con đă chết từ lâu, kêu réo nhau la ới ới, chuyện đầu thai lại, chuyện tái sinh, chuyện ma quỷ, và c̣n nhiều thứ lắm lắm…có thật hay không có thật chẳng có ai biết được hết. Tin hay không là chuyện riêng của mỗi người.
Có người c̣n so sánh sự chết cũng không khác ǵ giấc ngủ mỗi đêm. Tối ngủ, ḿnh chẳng c̣n biết ǵ hết, hổng khác ǵ như ḿnh đă chết rồi. Sáng ra thức dậy như được tái sanh trở lại, sống thêm một ngày nữa. Mừng hết lớn.
Vậy sợ chết là sợ những ǵ ḿnh không rơ, những ǵ bí mật ḿnh chưa biết được.
Người ta sợ chết v́ sợ thân xác bê bết máu me, nát bấy, xấu xí đi, śnh thúi ghê tởm quá.
Trường hợp những giây phút trước khi phi cơ lâm nạn lao xuống đất chắc hành khách phải hăi hùng kinh hoàng tột độ. Đây là một thí dụ rơ rệt nhất về sự kiện sợ chết.
Có cả trăm câu hỏi được đặt ra nhưng chưa có câu giải đáp nào hết về sự chết. Mọi người cứ tưởng tượng thế nầy thế nọ cho nên thiên hạ vẫn c̣n lo và vẫn c̣n sợ chết.
Người đời thường nghĩ rằng hễ chết là hết, là trống không, là rơi vào vực thẩm âm u, là hư vô, tĩnh lặng.
Chết rồi th́ ḿnh sẽ đi về đâu sau đó, rồi ḿnh sẽ ra sao? Bởi vậy nên ai ai cũng đều sợ chết lắm.
Ai cũng phải có ngày chết hết. Đây là một sự thật. Chạy đâu cũng không khỏi. Đây là điều chắc chắn 100%, thật rơ ràng và là lẽ công bằng của trời đất.
Trên cơi đời nầy, chỗ duy nhất, nơi mà con người thật sự được hoàn toàn b́nh an, không c̣n thù hận nhau nữa, không bao giờ biết hơn thua, phân biệt đố kỵ với nhau nữa, đó là chỗ nghĩa địa an giấc ngàn thu.
blank
Cuộc đời thật vô thường, vậy phải biết trân quư sự sống. Thù hận, tranh đua, phân biệt, cố chấp, ganh tị, suy b́, hơn thua nhau từng tiếng, từng lời, từng chút một rồi cuối cùng cũng phải chết mà thôi. Đến lúc đó th́ ăn năn hối cải, than khóc, kể lể, luyến tiếc làm chi cho mất công, muộn màng rồi bạn ơi.
Tại sao hồi c̣n sống không biết sống cho ḥa thuận, thương yêu nhau, giao hảo nhau trong t́nh người, biết tha thứ nhau?
Mọi người đều đến cơi đời nầy với hai bàn tay trắng, th́ lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi.
Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết th́ thấy rờn rợn và hơi lo một chút.
Bằng mọi giá họ phải níu kéo sự sống lại. Bỡi lư do nầy mà ngày nay khoa học đă sáng chế ra vô số kỹ thuật để kéo dài thêm sự sống... Nào là kỹ nghệ thuốc trường sanh, nào là kỹ nghệ ngâm xác trong khí lỏng liquid nitrogen để chờ ngày t́m ra thuốc trị liệu để tiếp tục…sống, v.v…
Người ta sợ chết v́ sợ mất người ḿnh thương, sợ xa ĺa người thân, bạn bè, xa ĺa vợ con, chồng con, sợ không ai nuôi con ḿnh, sợ rồi đây tụi nó sẽ...sống ra sao?, sợ mất đi cái tôi cùa ḿnh, sợ mất hết tài sản của cải mà ḿnh đă thật sự khổ công tạo dựng được trong suốt cả cuộc đời, cũng như sợ chưa thực hiện được những hoài băo mà ḿnh hằng mong ước, và sợ bị lăng quên, v.v...
Nhưng theo quan niệm triết lư Phật giáo, th́ những thứ vừa kể trên là đều không có thật!
Giàu có, tỷ phú th́ sợ chết đă đành, nhưng nghèo rớt mồng tơi, không có của cải ǵ ráo trọi cũng sợ chết luôn tuốt luốt.
Thường những người sợ chết là những người c̣n hoạt động, đi đứng và c̣n sinh hoạt được b́nh thường.
Nếu đă già khú cú đế rồi, bệnh hoạn đủ thứ, sinh hoạt khó khăn, ăn uống ngủ nghê không được, mà c̣n bị con cháu bạc đăi hất hủi nầy nọ th́ nhũng người nầy chấp nhận cái chết dễ dàng hơn nhiều.
Sợ chết cũng là một phản ứng tự nhiên của bản năng sinh tồn của tất cà mọi sinh vật.
Thú vật cũng sợ chết
Trong phạm vi nghề nghiệp, người gơ có thể cả quyết rằng thú vật như ḅ, heo lúc bị lùa vào ḷ sát sanh để bị làm thịt chúng đều rất kinh hoàng, la rống, phản ứng lại rất dữ dội v́ bản năng sinh tồn. H́nh như chúng biết cảm nhận được cái chết gần kề. Phải chăng thú vật cũng có t́nh cảm như chúng ta?
Các tôn giáo lớn đều có đề cập đến vấn đề chết. Mỗi tôn giáo đều có giải thích một cách khác nhau.
Cách nào nghe ra cũng đều thấy có lư hết với điều kiện là ḿnh phải có đức tin tuyệt đối vào tôn giáo đó.
Chết qua cái nh́n của Phật giáo
“Mạng sống mong manh, cái chết là điều cầm chắc - Life is uncertain, death is certain”
Đây là tựa đề quyễn sách giá trị nói về cái chết. Sách do Venerable Dr Sri Dammananda viết và được thầy Thích Tâm Quang dịch. Sau đây là tóm lược các ư chánh:
Chúng ta không nên sợ chết v́ đó là lẽ thường t́nh, là quy luật tất yếu của tiến tŕnh của ṿng sanh tử mà thôi. Có sanh th́ phải có tử để có thể tái sanh theo nghiệp lực nhân quả luân hồi.
“…Đời sống mong manh, chết là điều chắc chắn. Đó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rơ Chết mong manh và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ chết v́ không nghĩ về điều không tránh được. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và phát triển quá nhiều tham dục và luyến ái.
Sự đau đớn về cái chết thật khủng khiếp, đó là một thái độ phát xuất bởi vô minh.
Con người bị lo âu không phải v́ ngoại cảnh mà v́ niềm tin và tưởng tượng về đời sống và mọi thứ của ḿnh. Cái chết, chẳng hạn, tự nó không khủng khiếp: Khiếp sợ và kinh hăi chỉ do tâm trí chúng ta tưởng tượng mà ra.
V́ tham sống nên sự sợ chết được h́nh thành một cách thiếu tự nhiên. Nó tạo lo âu mạnh mẽ trong đời sống đến nỗi làm con người không bao giờ dám mạo hiểm làm điều ǵ dù đó là lẽ phải. Người đó sống trong sợ hăi lo lắng về bệnh tật và các tai nạn có thể xẩy ra cướp mất mạng sống quư giá của ḿnh.
Tuy nhiên có một phương pháp để vượt qua sự sợ hăi này. Hăy quên đi quan niệm về cái 'tôi'; hăy đem t́nh thương phục vụ nhân loại và tỏ t́nh thương với người khác. Say mê phục vụ tha nhân, chẳng bao lâu bạn sẽ tự ḿnh thoát khỏi cái tự kỷ luyến ái nặng nề, mơ ước, kiêu căng, và tự tôn.
Bệnh và chết cả hai đều là việc xẩy ra tự nhiên trong đời sống của chúng ta, và chúng ta phải chấp nhận điều đó với sự hiểu biết
Đức Phật khuyên: "Hăy tin và nương tựa vào chính ḿnh, hăy gắng sức và chuyên cần". Người Phật Tử không sầu thảm bi thương trước cái chết của một người thân hay bạn hữu. Không có ǵ có thể ngăn cản được bánh xe nhân quả. Khi một người chết, nghiệp do họ tạo nên sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Người c̣n lại phải chịu đựng sự mất mát với b́nh tĩnh và hiểu biết. Chết là một tiến tŕnh không tránh được trên thế gian này. Đó là một điều chắc chắn trong vũ trụ này….
Chúng ta phải cố gắng hiểu rằng mọi việc trong vũ trụ này đều mong manh. Cuộc sống chỉ là ảo giác hay ảo tưởng. Khi ta phân tách mọi thứ bằng khoa học hay triết lư, không ham muốn vị kỷ, cuối cùng chúng ta không thấy ǵ cả mà chỉ là hư không…”(Ngưng trích) Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo - Gems of Buddhist Wisdom - Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996 - Thích Tâm Quang dịch
Kết luận
Nghĩ cho cùng cái chết chỉ là một giai đoạn của cái sống. Có chết đi th́ mới có được một cái sống mới khác tiếp nối theo được.
Vậy hăy trân quư cuộc sống ngày hôm nay. Không nên để tâm trạng sợ chết trở thành một nỗi ám ảnh thường xuyên làm ô nhiễm cuộc sống của chúng ta.
Hăy quên sự chết đi để mà sống. Chừng nào chết th́ chết.
Dùng Muối Vừa Phải
20/03/2020
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
6.h.BS Nguyen Y DucMuối ăn (NaCl) là những hạt mầu trắng, vị mặn, tách ra từ nước biển hoặc khai thác từ mỏ di tích của biển. Đây là một chất cần thiết cho mọi sinh vật nhưng cũng có nguy cơ gây bệnh nếu dùng quá nhiều.
Muối ăn được dùng từ thuở rất sớm trong lịch sử loài người. Trước đây, v́ khan hiếm, nên muối là nguồn lợi mà nhiều lănh chúa tranh giành. Ngày nay, nhờ kỹ thuật tinh chế tân tiến, muối được sản xuất dễ dàng, nhiều hơn và rẻ hơn.
Về cấu tạo hóa chất, muối ăn gồm hai phần tử là natri (40%) và chlor (60% ). Natri có trong nhiều thực phẩm, nhất là trong thực phẩm chế biến và các loại nước uống.
Nhiều người cho là muối biển tốt hơn nhưng thực ra muối từ biển và muối từ mỏ có cùng lượng natri như nhau. Có thể là ở một vài mỏ, muối ít mặn v́ nước biển xưa kia cũng nhạt hơn nước biển ngày nay
Vai tṛ muối trong cơ thể
Trong cơ thể, muối nằm trong các dung môi lỏng (50%), dự trữ trong xương (40%) và 10% trong các tế bào.
Vai tṛ chính yếu của muối, nhất là natri, giúp giữ cân bằng dung dịch chất lỏng ra vào các tế bào. Ngoài ra, muối c̣n có các vai tṛ khác như:
-Kiểm soát khối lượng máu, điều ḥa huyết áp;
-Duy tŕ nồng độ acid/kiềm của cơ thể;
-Dẫn truyền tín hiệu thần kinh;
-Giúp cơ thể tăng trưởng;
-Giúp bắp thịt co duỗi;
-Giúp mạch máu co bóp khi được kích thích hoặc dưới tác dụng của kích thích tố;
-Hổ trợ việc hấp thụ đường glucose và các chất dinh dưỡng khác ở trong ruột.
Công dụng dinh dưỡng
-Muối tạo ra một vị mặn đặc biệt cho thực phẩm.
-Muối làm tăng mùi vị của món ăn. Chỉ với một chút muối có thể làm sự thơm ngon của miếng thịt lợn nướng chả dậy mùi. Một vài món thực phẩm ngọt mà chêm tư muối cũng đậm đà hơn.
-Muối được dùng để cất giữ thực phẩm, chống lại tác dụng của vi khuẩn, nấm mốc. Với thịt chế biến, muối làm các thành phần của thịt kết liên với nhau. Nhờ muối mà thực phẩm có thể để dành lâu ngày cũng như chuyên trở tới các địa phương xa.
-Muối ngăn sự lên men của thực phẩm. Lên men làm thay đổi hóa chất, hương vị, h́nh dạng, vẻ ngoài của món ăn.
Về dinh dưỡng, muối có trong thực phẩm tự nhiên và nước uống (20-40%), được cho thêm khi nấu nướng hoặc khi ăn. Nhưng nhiều hơn cả vẫn là trong thực phẩm chế biến (40-50%). V́ thế, khi mua các loại thực phẩm chế biến, ta cần đọc kỹ nhăn hiệu thực phẩm để biết hàm lượng muối trong đó. Nước tương tầu, nước mắm, các loại nước chấm x́ dầu, mù tạc, ketchup, salad dressing... cũng có nhiều muối.
Nhu cầu
Nhu cầu muối ở người b́nh thường tùy thuộc vào khí hậu thời tiết, mức độ hoạt động của cơ thể. Mỗi ngày cơ thể mất đi khoảng 120 mg muối qua phân, nước tiểu, mồ hôi...
Các chuyên viên y tế dinh dưỡng đều khuyên là mỗi ngày ta không nên dùng quá 2500mg natri, tương dương với một th́a cà phê muối. Thực ra, cơ thể chỉ cần khoảng 500 mg natri là đủ để duy tŕ sức khỏe. Số lượng này có sẵn trong các bữa ăn đa dạng và cân bằng các chất dinh dưỡng.
Nhiều người ăn tới 5000- 6000mg natri một ngày. Họ không thấy ngon miệng đối với món ăn ít muối v́ thế mỗi khi ăn lại phải thêm muối vào thực phẩm để tăng khẩu vị. Họ rất thích ăn thực phẩm làm sẵn như khoai mỏng chiên, đậu phọng, hột điều rang trong đó có khá nhiều muối.
Dùng muối nhiều hay ít, mặn hay nhạt là một thói quen, giống như khi ta ăn các món cay, chua, ngọt. Người quen ăn nhạt, độ 250 mg muối mỗi ngày, rất nhạy cảm đối với muối, và nếu trong thức ăn có thêm một chút muối, họ cũng phân biệt được ngay. Trái lại những người quen ăn mặn, từ 10 đến 20 gr mỗi ngày, th́ có cái lưỡi như chai ĺ với muối, và nếu thức ăn có thêm muối họ cũng không thấy mặn hơn.
Khi có thói quen ăn nhạt th́ thưởng thức được hương vị nguyên thủy của nhiều thực phẩm không thêm muối.
Tác dụng trên sức khỏe
Mối quan tâm thứ nhất của nhiều người là sự liên hệ giữa quá nhiều muối với cao huyết áp. Liên hệ này thực ra đă được để ư tới từ hàng ngàn năm nay.
Người Nhật ở Miền Bắc ăn 28 g muối (khoảng 6 th́a cà phê) mỗi ngày cho nên tỷ số người mắc bệnh cao huyết áp cao hơn dân miền Nam ít ăn muối tới 38%.
Thổ dân Alaska ăn ít muối nên ít bị bệnh cao huyết áp.
Người Mỹ ăn từ 10 đến 15 g muối mỗi ngày, tức là gấp đôi hay gấp ba số lượng vừa phải, cho nên tỷ lệ dân chúng bị bệnh cao huyết áp lên tới 25%. Cao huyết áp là một trong nhiều nguyên cơ đưa tới tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim và suy thận.
Khi ăn nhiều muối th́ sự thăng bằng giữa kali và natri trong cơ thể bị đảo lộn v́ natri cao sẽ làm giảm kali trong các mô. Khi cho thêm muối vào các loại rau, đậu th́ sự thăng bằng giữa natri và kali trong rau đậu cũng thay đổi.
Ví dụ trong 100 g đậu tươi có 300 mg kali và 2 mg natri. Khi thêm muối vào đậu để đóng hộp th́ natri lên đến 236 mg và kali giảm xuống c̣n 160 mg.
Khi mức thăng bằng giữa natri và kali trong cơ thể bị đảo lộn th́ cơ thể bị chứng phù nước. Đây là sự tích lũy bất thường của nước trong khoảng trống giữa các tế bào. Hậu quả là các mô thiếu dưỡng khí và là nguy cơ gây ra nhiều chứng bệnh trầm kha như bệnh suy tim. Đồng thời tim cũng phải làm việc mạnh hơn để đẩy máu vào mạch máu, và huyết áp lên cao.
Người nhậy cảm với muối th́ chỉ ăn một phân lượng nhỏ, huyết áp cũng lên quá mức trung b́nh.
Để biết có nhậy cảm hay không, có thể thử bằng cách sau đây: Khi huyết áp cao, không ăn muối trong một tháng rồi đo huyết áp đều đặn. Nếu huyết áp giảm th́ có nhiều phần là nhậy cảm với muối và nên giảm tiêu thụ hoặc dùng muối thay thế.
Kết quả các nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ có chất natri trong muối ăn natri chlorid mới gây chứng cao huyết áp c̣n các loại natri khác như natri bicarbonat trong bột nướng bánh, natri citrat trong trái cây chua, natri artrat trong rượu vang đều không có liên hệ ǵ với bệnh cao huyết áp.
Một người Đức tên là Sebastian Kneipp, sống vào đầu thế kỷ 20, đă làm một cuộc thí nghiệm hi hữu về muối để thỏa óc ṭ ṃ.
Ông ta pha thêm muối vào thực phẩm của ḅ và quan sát phản ứng của con vật này. Kết quả là khi ăn nhiều muối, ḅ chết sớm. Khi ngưng muối th́ ḅ sống lâu hơn, và cũng không c̣n đẻ non.
Gần đây có người lại thí nghiệm cho chuột ăn thêm muối. Kết quả là chuột ăn nhiều muối chết trước chuột ăn ít muối vài tháng.
Giảm muối
Thực ra ta không nên và không được loại bỏ muối khỏi món ăn v́ cơ thể cần một số lượng tối thiểu. Hơn nữa, dù muốn bỏ cũng chẳng được v́ muối có tự nhiên trong nhiều thực phẩm. Nếu v́ lư do sức khỏe mà phải hạn chế th́ sau đây là vài gợi ư để giảm muối trong thức ăn:
-Nên dùng thực phẩm tươi, giới hạn thực phẩm biến chế, đóng hộp;
-Không cho thêm muối khi ăn;
-Không cho nhiều muối khi nấu thực phẩm. Khi ăn, thấy nhạt th́ dùng thêm. Cho muối khi món ăn nấu đă gần chín, như vậy nước xúp sẽ cho cảm giác mặn hơn.
-Các loại thực phẩm ướp muối cần được rửa nhiều lần với nuớc lă để loại bỏ bớt muối trước khi ăn;
-Không để lọ muối trên bàn ăn, tránh bị quyến rũ .
-Đừng cho muối vào rau luộc, v́ muối hút nước từ rau ra, rau sẽ cứng;
Phụ nữ có thai không nên quá tiết giảm sodium để tránh phù nước, v́ có thai cũng cần một số sodium có trong món ăn hàng ngày.
Các vận động viên hoặc người làm việc lao động ngoài nắng, đổ mồ hôi nhiều và mất bớt muối cũng không cần uống thêm natri, v́ thực phẩm dùng sau khi vận động đều cung cấp số muối đă mất.
Một số dược phẩm bán tự do cũng có natri: thuốc làm bớt chứng khó tiêu bao tử (loại alkalizer), thuốc ho, thuốc xổ táo bón, thuốc kháng sinh... Do đó, trước khi dùng các loại thuốc này, xin coi kỹ nhăn hiệu và hỏi ư kiến bác sĩ.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên cẩn thận khi dùng những món như mù tạt, nước sốt cà chua, dầu giấm, nước chấm thịt nướng, nước tương, x́ dầu, bột ngọt và ngay cả món quốc hồn quốc túy nước mắm của ḿnh, v́ chúng có khá nhiều natri. Một muổng canh nước mắm có tới 2000 mg natri.
Kết luận
Ăn nhạt mặn là một thói quen có thể thay đổi được nếu ta muốn.
Nói như vậy không có nghĩa là ta phải ăn hoàn toàn nhạt, trừ khi có khuyến cáo của thầy thuốc. Nhưng giảm thói quen ăn mặn, chỉ dùng một lượng muối vừa phải có thể giúp ta thưởng thức thực phẩm tốt hơn, v́ thực phẩm thêm nhiều muối sẽ mất đi hương vị tự nhiên của nó.
Và sức khỏe cũng được bảo đảm an toàn, không dễ dàng bị Cao Huyết Áp rồi Heart attack, Stroke…xe lăn.
Bỏ Cái Ta Vào Túi Áo
13/03/2020
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
BS Nguyen Y Duc
Bác Sĩ Nguyễn Ư Đức
Lục Súc Tranh Công là một truyện cổ Việt Nam mang nhiều ư nghĩa nhân sinh đáng suy gẫm.
Có sáu con vật được chủ nuôi chung trong nhà là trâu, chó, ngựa, dê, gà và lợn. Nếp sống đang hài ḥa thân thiện th́ không hiểu tại sao một hôm lục súc ta lại có một cuộc bàn tṛn “kiểm thảo” kể công của ḿnh và chê bai súc khác. Chủ nhà dựa cột lắng nghe.
Trâu mở đầu với khoe rằng ḿnh giúp ích cho đời rất nhiều, rằng ḍng giống nhà trâu cũng có những Phật ngưu mà ai có phúc được uống một chút huyết là sống lâu như ông Bành tổ thậm chí cả Tề Tuyên Vương cũng thương không nỡ hạ thịt. Vậy mà chủ nhân lai nỡ “đáng hậu xử bạc”. Rồi Trâu ta quay ra chê Chó, rằng “chưa rét đă phô rằng rét, Xo ro đuôi quít vào trôn”, hoặc “Chưa sốt đà nằm dài thở dốc, Le lưỡi ra phỏng ước dư gang, Lại thấy người lơ đĩnh lơ hoang,
Tài ăn vụng thôi th́ hơn chúng. Vậy mà lại được cơm ngon, ổ ấm, chẳng bù với trâu chỉ nghiến cỏ khô, nằm chuồng đất lạnh.
Chó vừa tự vệ vừa tự vinh danh “Đêm năm canh, con mắt như chong, Đứa đạo tặc nép oai khủng động. Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống, Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh” và than phiền chủ bạc đăi chỉ cho cơm thừa canh cặn
Và cẩu ta chơ móm chê ngựa ”Dại không ra dại Khôn chẳng ra khôn. Ngất ngơ như ốc mượn hồn, Nuôi giống ấy làm chi cho rối”.
Trạm tự ái, tức khí ngựa ta bèn đưa ra những thành tích của họ nhà ḿnh như giúp Hán Cao Tổ lập nghiệp Đế, giúp Quan Công sáu ải thoát qua, đựoc kế cận vương tôn công tử. Tiện thể, ngựa ta quay sang phải “rũa” dê là có đầu mà chẳng có đuôi, ḿnh th́ nhỏ mà bụng lớn, dáng điệu sớn các như con chàng kẻ cướp mà lại được chủ nuôi ăn chạy nhảy chơi bời.
Dê phản công với khoe khoang là ḍng giống thuộc loại để tế Thánh tế Thần khi phất cớ diệt giặc, tế Thổ thần khi động thổ làm đ́nh, tế thái miếu vào ngày mồng một và từng đựoc ban biệt hiệu Trường tu chủ bộ, chủ bộ râu dài, rồi “tố khổ” gà là phường vô dụng, bới móc luống cải luống ngô nhà chủ mới trồng, là biếng nhác, “ Trời chưa tối, đà lo việc ngủ”.
Gà biện bạch là ḿnh đầu đội mũ quan văn, nhân, dũng tín vơ văn đều đủ, coi cựa gà là biết thịnh suy. Chứ đâu như heo chỉ ăn rồi ngáy ś ś,giả ngây dại, biết ǵ việc chủ.
Nghe xong, chủ bèn giảng ḥa lục súc, rằng Vật lớn vật nhỏ đều có một nghề tài giỏi riêng, chẳng nên ganh tị nhau.
Và lục súc giảng ḥa hể hả.
Coi vậy th́ bà con thấy súc vật cũng có cái ta, có cái tự cao tự đại, có chê dèm pha ghen tị với nhau. Huống chi là con người th́ chắc là cái ta cũng lớn lắm bà con nhỉ. Chẳng vậy mà ông triết gia người Phú Lăng xa đă phán le moi est hissable. Các tôi thật đáng ghét. Mà đáng ghét thật bà con ạ, nhất là cái tôi tiêu cực, cái tôi tự tôn, ḿnh như cái rún của vũ trụ. Chẳng thế mà nhiều người đă dây gổ dánh nhau chỉ để thỏa măn cái tôi, tức giận v́ không được đối sử như ḿnh muốn, chán chường v́ không thành thông như ư nguyện, mất bạn bè v́ tự cao tự đại…
Cho nên có người đă khuyên là nên bóc một lớp vỏ trong cái ego của ta để ḷng yêu thương xuất hiện và đừng bao giờ để cái Ta quá gắn bó với chức vụ của ḿnh v́ khi hết chức vụ th́ cái Ta cũng đi theo.
Khi móng tay dài th́ ta cắt móng chứ không cắt ngón tay. Tưong tự khi có sự bất ḥa th́ cắt bỏ cái ta chứ đừng cắt bỏ giao hảo.
Kể cũng khó, nhưng bỏ cái ta vào túi, th́ cũng thực hiện được.
Khi Lăo Ông Trổ Tài Làm Bếp - Chuyện Thịt Heo
11/03/2020
Bs Nguyễn Thượng Chánh DVM
Lăo ông trổ tài làm bếp
Món thịt kho b́nh dân-Thịt gị heo kho theo kiểu miền Nam, có độn thêm trứng gà và tàu hũ.
blank
Mời các bạn dùng bữa cơm đạm bạc với món thịt kho b́nh dân (Photo đầu bếp Chánh,(DƠM)
2)Món sang: Sườn heo ướp sả nướng lửa than
Các bạn già c̣n nhớ các quán cơm ngày xưa tại cầu Bắc Mỹ Thuận không? Họ bày bếp nướng ngay trước cửa- Mỗi khi có khách bộ hành đi ngang qua th́ cô chủ quạt lia lịa trên ḷ cho mùi thịt sườn nướng bay quyện theo gió thơm phức rất hấp dẫn. Cô em vừa cười duyên vừa mời mọc ḿnh một cách chân t́nh , “mời thầy cô dô ăn cơm đái ỉa”. Ôi quê hương miền Nam ta ngày ấy sao mà nó mộc mạc và thân thương quá…
Thôi th́ ḿnh “dô làm bậy“ một dĩa cơm sườn ngon ơi là ngon và chơi luôn một ly cối trà đá th́ khỏe ngay lập tức. Lâu lâu ăn cơm chợ lạ miệng vẫn thấy ngon hơn cơm nhà. Đó là chuyện của 45 năm về trước.
blank
Thịt được ướp kỹ lưỡng kiểu Việt Nam
blank
Chín rồí ! Sườn côtelette pork chop ướp sả nướng lửa than, thơm lừng cả xóm- (Photo Đầu Bếp Chánh 2014)
blank
Bếp trưởng Chef 3 Étoiles Michelin (Loại dơm) mời quư bạn, spécialité món sườn heo- côtelette –pork chop à la citronnelle grillée au charbon de bois- Vô nhà hàng Tây là 25-30$ đó. (Photo Bếp Chánh, Sept 2014)
Publié annuellement en 14 éditions, le Guide Michelin récompense les plus grands restaurants du monde en leur assignant d’une à trois Étoiles Michelin. Recevoir une seule Étoile Michelin est un honneur dont bien peu de restaurateurs peuvent se vanter
Chuyện thịt heo tại Canada
blank
NHÀ MÁY OLYMEL , QUEBEC
blank
Bs Nguyễn Thượng Chánh tại nhà máy Olymel lớn nhứt Québec 2002
Tại sao người ta gọi thịt heo là thịt đỏ?
Máu đem oxy đến các bắp cơ và gắn vào chất myoglobine để tạo nên màu đỏ hồng của thịt. Chính số lượng myoglobine trong các bắp cơ quyết định màu đỏ của thịt. Thịt heo chứa rất nhiều myoglobine khác với thịt gà hay cá.
Tại Canada được xếp vào thịt đỏ là: thịt heo, thịt ḅ, thịt dê cừu và đồ ḷng của các thú nầy.
Thịt gà và thịt gà Tây được gọi là thịt trắng.
blank
Bs Chanh khám chung quyết finale inspecion-nhà máy OLYMEL Quebec
Thịt heo có bổ dưỡng hay không?
Ngày xưa thịt heo thường chứa rất nhiều mỡ, nhưng từ vài chục năm nay nhờ vào sự tiến bộ của ngành di truyền học, kỹ thuật phối giống đă tạo ra được những ḍng heo ít mỡ và đặc biệt là lớp mỡ lưng mỏng hơn ngày xưa.
Mỡ nhiều hay ít cũng c̣n tùy theo các coupes của thịt. Nói chung tại các nhà máy Canada, thịt heo thường bị lột bỏ da và lớp mỡ phía ngoài thịt cũng bị lạng mỏng bớt đi rất nhiều.
Thịt xay (ground pork, porc haché) bán ngoài chợ thường là loại thịt hạ phẩm, chứa rất nhiều mỡ. Thịt xay được làm từ các loại thịt vụn sau khi đă được lóc bỏ xương.
Thịt heo chứa nhiều vitamins nhóm B, như B1, B2 và Niacine. Thịt heo cũng chứa nhiều chất kẽm (Zn), potassium và phosphore. Giá trị dinh dưỡng thay đổi tùy theo thịt có nhiều hoặc ít mỡ và cũng tùy theo loại coupe nữa.
Thịt heo chúng ta mua trong siêu thị thuộc heo thịt (market hog, porc de marché) hạ thịt lúc 5 tháng tuổi với cân đứng khoảng 110-130 kg và khi làm xong th́ quầy thịt cân nặng lối 85 kg. Tất cả heo đực đều bị thiến lúc nhỏ, nếu chẳng may có heo tơ nào c̣n sót dịch hoàn lại lúc hạ thịt th́ quày thịt sẽ bị đóng dấu chữ B (boar) màu xanh để tránh được gởi đi xuất cảng.
Heo nái và heo nọc già cho một loại thịt dai và rất hôi v́ vậy chỉ được sử dụng trong công nghiệp biến chế thành jambon, saucisse, bologna…mà thôi.
Thịt heo có chứa chất tồn dư kháng sinh không?
Trong chăn nuôi, 90% chất kháng sinh được trộn vào thức ăn hỗn hợp của heo nhằm mục dích để ngừa bệnh và nhứt là để thúc đẩy sự tăng trưởng (growth promoter). Phần c̣n lại, thuốc kháng sinh được sử dụng để trị bệnh.
Theo luật kiểm soát thực phẩm, thịt bán ra phải được trong lành cũng như không được chứa chất tồn dư kháng sinh. Trước khi hạ thịt đôi ba ngày, chủ nuôi có bổn phận phải ngưng sử dụng thuốc kháng sinh để thịt có thời gian loại bỏ hết chất tồn dư. Thời gian ngưng thuốc này được gọi là withdrawal period hay période de retrait và dài hay ngắn tùy từng loại thuốc sử dụng. Tại nhà máy, các quầy thịt nào có vẻ khả nghi đều bị bác sĩ thú y giữ lại để làm test thử nghiệm sự hiện diện của tồn dư kháng sinh. Nếu kết quả dương tính, quầy thịt sẽ bị hủy bỏ. Ngoài ra cũng c̣n có những chương tŕnh kiểm soát ngẩu nhiên (random test) và định kỳ thường xuyên để thử nghiệm mỗi ngày một số quầy thịt nhất định nào đó.
C̣n vấn đề tồn dư hormones tăng trưởng trong thịt heo không cần phải đặt ra v́ tại Canada không có một hormone nào được cơ quan Health Canada phê chuẩn chấp thuận cho bán để nuôi heo cả. Hormone chỉ được sử dụng trong kỹ nghệ chăn nuôi ḅ thịt mà thôi.
Vậy lỡ ăn thịt heo có chứa tồn dư kháng sinh th́ sao? Đây là câu hỏi mà mọi người thường đặt ra.
Thịt có chứa chất kháng sinh có thể gây hại cho sức khỏe bằng những cách sau đây:
- Gây ra dị ứng: thí dụ Penicilline sẽ chuyển ra thành acide Pénicilline là một chất gây dị ứng hay allergen.
- Tạo ra chủng vi khuẩn kháng kháng sinh (antibiorésistance), sau nầy dễ sinh ra hiện tượng lờn thuốc.
- Một vài loại thuốc sử dụng trong chăn nuôi heo bị nghi ngờ là có thể gây cancer cho nguời. Thuốc Carbadox là một thí dụ, nay đă bị cấm sử dụng tại Canada và tại rất nhiều quốc gia khác trên thế giới.
“The Canadian Pork Council is trying to persuade Health Canada to go easy on further restrictions on Carbadox antibiotics because of trade implications with the US.
The issue is complicated and carries financial implications for Canada's pig producers. They cannot use Carbadox, whereas their competitors in the US and Mexico can.
Canada prohibited the antibiotics from feed in 2001, because the antibiotics can break down into metabolites that cause cancer. Residues, however, continued to show up in Canadian-produced pork. That prompted Health Canada to adopt tighter restrictions in the spring of 2004, in effect barring farmers from importing these antibiotics for their own on-farm use.
…In the European Union, Carbadox has been forbidden at any level”.( by EDITOR PIGPROGRESS Aug 23, 2006)
Thịt heo có thể bị nhiễm những loại vi khuẩn nào?
Nói chung cũng như bất kỳ các loại thịt khác, thịt heo nếu sản xuất hay bảo quản không đúng cách th́ rất có thể bị nhiễm các loại vi khuẩn như E.coli, Salmonella sp, Staphylococcus aureus, Listeria monocytogenes vv…Ăn phải thịt nhiễm trùng chúng ta sẽ bị ngộ độc thực phẩm biểu hiện qua các triệu chứng như đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, v.v…
nadian Food Inspection Agency- CFIA) đă công bố lệnh thu hồi thịt heo tươi do hai công ty V&T Meat and Food và Hiep Thanh Trading sản xuất.
Các sản phẩm này được phân phối trên thị trường Calgary và Edmonton thuộc Alberta.
Theo thông báo của CFIA, công ty V&T và Hiep Thanh Trading sẽ phải thu hồi toàn bộ lô hàng thịt heo đă bán ra trong khoảng thời gian từ 10/7 đến ngày 3/9.
Những lô hàng nhiễm khuẩn trên chỉ bán ra trong phạm vi tỉnh bang Alberta. Tuy nhiên rất có thể các đại lư đă bán lại lô thịt heo này tới các địa phương khác.
CFIA kêu gọi người tiêu thụ, nhà hàng, cơ sở sản xuất và chế biến không nên sử dụng thịt heo nói trên…”(Ngưng trích Thời Báo-Sept 8, 2014)
Tại Sao Thiền Chánh Niệm Có Nhiều Lợi Lạc Về Sức Khỏe Tinh Thần
06/03/2020
Thụy Âm dịch
THIEN CHANH NIEM 01
Một buổi dạy của José Ramon Yela về Thiền Chánh Niệm.(nguồn: www.medicalxpress.com )
Trong vài thập niên qua, thiền chánh niệm đă trở nên ngày càng phổ biến, đặc biệt như là phương thức để giảm căng thẳng hay lo lắng và có được cảm nhận cuộc sống hạnh phúc lớn hơn, theo Ingrid Fadelli, trong bài viết “Exploring why mindfulness meditation has positive mental health outcomes” [Khám phá tại sao thiền chánh niệm có nhiều kết quả sức khỏe tinh thần tích cực] được đăng trên trang mạng Medical Xpress, hôm 17 tháng 2 năm 2020.
Trong khi nhiều nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm khẳng định rằng thiền thông thường, đặc biệt thiền chánh niệm, có thể có nhiều lợi ích lên sức khỏe tâm thần con người, cho đến nay có rất ít người biết về các cơ chế củng cố những hiệu quả này.
Các nhà nghiên cứu tại Đại Học Pontifical University of Salamanca ở Tây Ban Nha gần đây đă thực hiện một nghiên cứu nhằm mục đích khám phá một số lư do tại sao thiền chánh niệm có thể cải thiện sức khỏe tâm lư và cuộc sống hạnh phúc của con người. Tác phẩm của họ, được đăng trong Tạp Chí Clinical Psychology, thừa nhận 3 yếu tố chính có thể liên kết với các lợi ích sức khỏe tâm thần của việc thực tập chánh niệm.
“Nghiên cứu của chúng tôi khởi sinh từ nhu cầu xác nhận tại sao thiền có thể tạo ra các ảnh hưởng tâm lư tích cực,” theo José Ramon Yela, lănh đạo nhóm nghiên cứu, nói với MedicalXpress. “Sau khi xem xét một vài đóng góp của nghiên cứu trước đây về chủ đề này, chúng tôi đề xuất 3 yếu tố có thể đóng vai tṛ quan trọng: khả năng tự thương yêu ḿnh; kinh nghiệm đời sống có ư nghĩa – đó là, có những điều giá trị và quan trọng trong cuộc sống và những mục tiêu giá trị để theo đuổi; và cuối cùng, giảm mức độ mà một người tránh những suy nghĩ, cảm xúc hoặc kinh nghiệm có thể gây khó chịu nhưng là một phần của cuộc sống của anh /cô ấy.”
Trong tác phẩm của họ, Yela và các đồng nghiệp của ông xây dựng các nghiên cứu trước đây bằng việc điều tra các cơ chế bên sau thiền chánh niệm, gồm việc điều tra quá khứ của chính họ và nghiên cứu được thực hiện trong vài năm qua bởi nhóm nghiên cứu tại Đại Học New Mexico. Nó cũng tạo cảm hứng từ tác phẩm của nhà tâm lư Kristin Neff và Christopher Germer, tập trung vào chương tŕnh gọi là Mindful Self-Compassion [Tự Thương Yêu Chánh Niệm].
Thêm vào với việc xác nhận 3 yếu tố có thể làm nền tảng cho các ảnh hưởng tích cực của thiền chánh niệm, Yela và các đồng nghiệp của ông giả thuyết về sự hiện hữu của một cơ chế tuần tự cụ thể mở ra mọi lúc. Đặc biệt hơn, họ đề xuất rằng việc thực hành thiền chánh niệm trên nền tảng thông thường có thể gia tăng mức độ của sự tự thương yêu ḿnh, dẫn tới làm cho cuộc sống cảm thấy có ư nghĩa hơn, cuối cùng thúc đẩy con người thực hành thiền trở nên dấn thân nhiều hơn vào cuộc sống, như giảm bớt sự tránh né của họ đối với các kinh nghiệm hài ḷng và thách thức.
“Thương yêu chính ḿnh là đặc biệt quan trọng khi con người trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc sống,” theo Yela giải thích. “Trong ư nghĩa này, thật là quan trọng để làm rơ ư nghĩa của sự yêu thương chính ḿnh, gồm 3 thành tố.”
Trong tác phẩm của họ, Yela và các đồng viện của ông định nghĩa thương yêu chính ḿnh như là khả năng tử tế của một người dành cho chính họ hơn là sự khe khắc hay tự chỉ trích, trong khi cũng thừa nhận rằng sự đau khổ, đau đớn và khó khăn là chung cho bản tính con người của chúng ta thay v́ cảm thấy xa lạ hay kỳ lạ. Thành tố quan trọng thứ ba đ̣i hỏi khả năng tỉnh thức một cách chánh niệm về các kinh nghiệm bên trong có khả năng gây khó chịu, như những ư tưởng phiền muộn, các cảm giác tiêu cực hay giận dữ, thay v́ nhận định thái quá về những kinh nghiệm này.
Trong tác phẩm của họ, Yela và các đồng viện của ông đă kết hợp vài phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trước hết, họ yêu cầu những người tham gia trả lời các thăm ḍ được đưa ra để trắc lượng 3 yếu tố mà nghiên cứu của họ tập trung vào. Sau đó, họ cố gắng khám phá mối quan hệ giữa những yếu tố này và kết hợp chúng vào một mô h́nh thử nghiệm bằng kinh nghiệm.
THIEN CHANH NIEM 02
Thực tập Thiền thường xuyên.
“Loại nghiên cứu này rất thú vị bởi v́ chúng tôi có thể thu thập các tài liệu từ những mẫu rất lớn và phân tích vai tṛ mà nhiều yếu tố có thể đóng liên quan đến sức khỏe tinh thần và hạnh phúc tâm lư,” theo Yela cho biết. “Tuy nhiên, có một số hạn chế, như thực tế là rất phức tạp để đưa ra những quy kết nguyên nhân liên quan đến các mối quan hệ trong số các yếu tố. V́ lư do này, chúng tôi cũng đang thực hiện nghiên cứu dài hạn.”
Để trắc nghiệm giả thuyết của họ, các nhà nghiên cứu đă đặt câu hỏi với 414 người thực tập thiền và 414 người không thực hành thiền để trả lời những câu hỏi được đưa ra để đo lường các mức độ của họ về sức khỏe tinh thần, sự thương yêu chính ḿnh và lẩn tránh kinh nghiệm tiêu cực, cũng như họ cảm thấy cuộc sống có ư nghĩa nhiều như thế nào. Rồi họ phân tích các tài liệu mà họ đă thu thập, so sánh những trả lời của những người hành thiền với các trả lời của những người không thực hành thiền.
“Chúng tôi tập trung vào những người đă nhận các huấn luyện chánh niệm hay chánh niệm và thương yêu chính ḿnh và phân tích các thông số tâm lư khác nhau (thí dụ, sức khỏe tinh thần, lo lắng, trầm cảm, v.v…) và các cơ chế giải thích tiềm năng thay đổi mọi lúc như kết quả của việc huấn luyện như thế,” theo Yela giải thích.
Các phân tích được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu mang lại nhiều kết quả thích thú. Trước hết, Yela và các đồng viện cho thấy rằng sự thương yêu chính ḿnh, sự hiện hữu của ư nghĩa trong cuộc sống và việc lẩn tránh kinh nghiệm đă giảm có thể tất cả đều liên kết với những thành quả lợi ích của thiền chánh niệm.
Cụ thể hơn, những quan sát của họ cho thấy rằng việc thực tập thiền chánh niệm liên tục khuyến khích yêu thương chính ḿnh, giúp con người t́m ra ư nghĩa vĩ đại trong cuộc sống, nhưng cũng giảm khuynh hướng lẩn tránh hay trốn chạy khỏi các tư tưởng buồn phiền hay các cảm giác gây đau đớn, đau khổ hay không hài ḷng. Tổng hợp, 3 yếu tố này có thể dẫn tới các cải thiện trong cuộc sống hạnh phúc và sức khỏe tinh thần.
“Nói chung, chúng tôi nêu bật sự liên quan của việc đối xử tốt với chính ḿnh, đối xử với chính ḿnh một cách từ bi, nhận ra những ǵ có giá trị trong cuộc sống và tiến về phía trước dù cuộc sống không phải lúc nào cũng như nó là,” theo Yela nói như thế. “Một kết quả quan trọng khác của nghiên cứu liên quan đến sự cam kết với việc thực hành thiền.”
Cộng thêm với việc soi sáng một số lư do tại sao thiền chánh niệm có thể rất hữu ích, các phát hiện được thu thập bởi nhóm các nhà nghiên cứu này nêu bật các lợi lạc của việc hành thiền đều đặn. Yela và các đồng nghiệp của ông cho thấy rằng đối với thiền để được liên kết với các hiệu quả tích cực th́ phải thực tập đều đặn thường xuyên, là phù hợp với các kết quả thực nghiệm trước đó. Khi thiền chỉ được thực hành trên cơ bản không thường xuyên, th́ ngược lại, ảnh hưởng của nó có thể quá nhỏ hoặc thực tế thậm chí có thể trở thành một h́nh thức lẩn tránh kinh nghiệm trong chính nó.
Hiện nay các nhà nghiên cứu đang thực hiện thêm nghiên cứu nhắm vào việc công khai các cơ chế khác mà có thể làm trung cho mối quan hệ giữa chánh niệm và sống hạnh phúc về tâm lư. Hơn nữa, họ đang đánh giá hiệu quả của một số phương pháp trị liệu và thể thức được đặt ra để khuyến khích chánh niệm và sự thương yêu chính ḿnh, gồm các chương tŕnh Mindfulness Self-Compassion (MSC) và Mindfulness Based Stress Reduction (MBSR).
“Chúng tôi cũng đang có kế hoạch nghiên cứu về các hiệu quả của sự thực hành thương yêu chính ḿnh trên một số thông số tâm lư, sức khỏe và sinh học,” theo Yela cho biết. “Trong dự án này, chúng tôi sẽ theo dơi trong 3 năm những người bắt đầu thực tập thương yêu chính ḿnh và so sánh họ với những người đă thực hành thiền lâu năm.”
10 Lời Khuyên Làm Cho Da Khỏe Mạnh Trong Mùa Đông
06/02/2020
Việt Báo
Suc khoe_10 loi khuyen cho da khoe manh mua dong
H́nh minh họa
Mùa đông là thời gian tuyệt vời trong năm để cảm giác ấm áp, quấn trong mềm nằm bên một ḷ sưởi. Nhưng nhiệt độ lạnh lẽo, độ ẩm thấp và không khí khô của ḷ có thể khiến da bạn bị ngứa, đỏ và kích thích.
“Với mỗi thay đổi của mùa, thật là quan trọng để xem cách thời tiết mới sẽ ảnh hưởng đến da của bạn,” theo Bác Sĩ Kenneth Beer, Hiệp Hội Lâm Sàng Da Liễu, tại Trường Y của Đại Học Pennsylvania và là bác sĩ da liễu có chứng chỉ hành nghề tại West Palm Beach, Florida, nói với báo Newsmax. “Thời tiết mùa đông có thể làm cho da của bạn cảm thấy khô, trong khi khí hậu trong nhà th́ giết độ ẩm từ không khí và từ da của bạn. Nếu bạn uống thuốc để giảm cholesterol, th́ mùa đông có thể làm cho da của bạn khô hơn.”
Sau đây là 10 lởi khuyên để giữ da của bạn mướt và mịn:
1-Đặt máy làm ẩm trong nhà để làm cho độ ẩm nhiều tối đa. Theo Everyday Health, dùng máy tạo độ ẩm trong nhà hay trong văn pḥng sẽ giúp giữ da của bạn mướt và ướt.
2-Hạn chế thời gian tắm. Đừng tắm nước nóng quá và hạn chế thời gian tắm từ 5 đến 10 phút. Cũng tương tự trong việc rửa tay của bạn. Dùng nước ấm để tránh việc làm khó chịu da của bạn.
3-Áp dụng việc dùng kem dưỡng ẩm trong ṿng 3 phút sau khi tắm. Đó là lời khuyên từ Bác Sĩ Anthony Youn, nhà giải phẫu thẩm mỹ hàng đầu và là tác giả của cuốn sách “The Age Fix.” “Điều này sẽ làm ẩm ướt và giữ da của bạn khỏi bị khô và ngứa,” theo ông nói với Newsmax. Lưu ư rằng các sản phẩm là ẩm ướt tay có thể tồn tại qua một vài lần rửa tay, không giống chất làm ướt cơ thể, rửa là biến mất rất nhanh.
4-Dùng dầu có vitamin E để thoa cơ thể của bạn sau khi tắm để giữ độ ẩm và làm trẻ trung làn da.
5-Dùng kem dưỡng da có dầu. Thoa thuốc mỡ hay kem nặng nước lên da và giữ mướt tốt hơn khi độ ẩm thấp.
6-Tránh các hộp khử mùi xà pḥng chống vi khuẩn, xà pḥng thơm, và các sản phẩm chăm sóc da có chứa độ cồn, mà có thể làm khô và khó chịu. Dán các sản phẩm không có mùa, theo Everyday Health cho biết.
7-Bôi kem chống nắng. Ngay dù mùa đông, vẫn áp dụng việc làm ẩm da, hăy thoa kem chống nắng, dưỡng ẩm với ít nhất SPF 30 cho bất kỳ khu vực tiếp xúc nào của da. Kem chống nắng bảo vệ các tia phóng xạ độc hại của mặt trời và giúp giữ độ ẩm trong da, theo Youn cho biết.
8-Gàu có vẻ bùng phát theo cấp số nhân trong những tháng mùa đông. Gàu xuất hiện khi các tế bào trên da đầu nhanh chóng tái tạo và tróc đi. Việc gàu bùng phát đi đôi với ngứa và có thể xuất hiện trong mũi, lông mày, tai, nách và háng – không chỉ trên da đầu của bạn. Chuyển sang xà pḥng gội đầu mua tại tiệm, và nếu t́nh cảnh trở nên nghiêm trọng và phiền hà, th́ hăy hỏi bác sĩ của bạn cho xà pḥng có toa. Bạn cũng có thể cần thuốc corticosteroid or antifungal medication. Điều tốt nhất là đi gặp bác sĩ chuyên khoa về da nếu gàu trở thành quấy nhiễu và không thể kiểm soát, theo Beer cho biết.
9- Rosacea - là điều kiện da bị đỏ và các mạch máu nổi lên trên mặt – cũng có thể bị trầm trọng hơn bởi nhiệt độ lạnh, khô. Rosacea tạo ra những mạch máu nhỏ trên mặt, da đầu, nách, và tai, làm cho da trông đỏ bừng. Trong khi rosacea không bao giờ biến mất, bạn có thể chống viêm với các kem kháng sinh hay retinoid có toa và liệu pháp nhẹ. Trước khi cảm lạnh, hăy bảo vệ da mặt bằng một chiếc khăn mềm và sử dụng một loại kem làm dịu để tạo ra một rào cản trên da để giúp giảm khô, thô ráp và khó chịu.
10- Nguy cơ bệnh chàm tăng khi nhiệt độ thấp và độ ẩm thấp. Nếu bạn dễ bị chàm bùng phát, da trên ḷng bàn tay của bạn có thể trông giống như bàn tay bát đĩa nghiêm trọng trong những tháng mùa đông hoàn toàn bị khô, phồng rộp và nứt nẻ. Hăy làm ẩm bàntay của bạn và đeo găng tay trước khi đi ra ngoài trời. Bảo đảm bạn gỡ găng tay nếu bạn bị nóng quá bởi v́ mồ hôi có thể làm ngứa ngáy. Sản phẩm sẵn có được sử dụng rộng răi gọi là Aquaphor là thuốc mỡ điều trị tuyệt vời và hiệu quả đối với da khô, nứt nẻ.
Sau khi đái, nước tiểu rất dễ bị nhiễm vi khuẩn nhưng ngay sau khi một người khỏe mạnh tiểu th́ nước này lại rất tinh khiết.
Đă có những bà mẹ bị hậu sản, uống nước tiểu của chính con ḿnh.
Nước tiểu mới đái của người không có bệnh đă được dùng để khử trùng, để uống khi du hành trong sa mạc mà không có nước.
Và khi cơ thể bị thiếu nước th́ hai trái thận vẫn tiếp tục lấy nước của mô bào để đái.
2.-Khi ta uống nhiều có ảnh hưởng tới sự tiểu tiện không?
Khi chúng ta uống nước trà, cà phê hoặc cola hay bất cứ một thứ nước nào có chất caffeine, ta sẽ đi tiểu nhiều hơn v́ các thứ này có chất lợi tiểu là caffeine.Khi uống nhiều nước hoặc các loại rượu, thận sẽ làm việc để duy tŕ mức độ nước trong cơ thể.
3.-Khi nào cần uống nhiều nước?
Khi bị sốt, chúng ta sẽ đổ mồ hôi rất nhiều hoặc khi ói mửa, đi tiêu chẩy, cơ thể sẽ bị khô nước, ta được khuyến khích nên uống nhiều nước.Nước rất cần cho thận làm việc.Và khi ta tập luyện thể thao hoặc làm việc nặng, đổ mồ hôi nhiều nhất là khi khí hậu nóng, ta cũng cần uống nhiều nước.
3.-Đôi khi tại sao mót tiểu nếu tinh thần bị căng thẳng?
Khi tinh thần cảm thấy bị căng thẳng th́ một số người có một nhu cầu giải tỏa cho bọng đái mặc dù cơ quan này chỉ chứa một chút nước tiểu.Lư do rất giản dị nhưng không đến nỗi ngạc nhiên. Khi ta cảm thấy bực ḿnh nóng nẩy th́ bọng đái cũng bị kích thích.Như vậy có nghĩa rằng các bắp thịt của bọng đái mất khả năng thư dăn và ta mót tiểu.
4.-Nước tiểu mầu ǵ?
Nước tiểu mầu vàng v́ có chất urochrone. Thực ra mầu của nước tiểu thay đổi tùy theo thành phần cấu tạo của nó. Khi thận thải ra một số lớn nước, nước tiểu sẽ loăng và có mầu nhạt.Khi cơ thể cần giữ lại một số nước th́ thận tạo ra một chất lỏng đặc hơn do dó nước tiểu đậm hơn b́nh thường.Chẳng hạn như ban đêm khi ngủ, không tiêu thụ thực phẩm, nước uống, các hoạt động của cơ thể giảm và nước tiểu đầu tiên thường đậm hơn.
5.-Thận có trách nhiệm ǵ với say sỉn?
Nếu uống nhiều nước khi uống rượu, ta có thể giảm hậu quả của say sỉn. Rượu làm các mạch máu mở rộng và có tác dụng lợi tiểu; rượu làm tăng máu chẩy qua thận và kích thích thận để thải ra nhiều nước hơn b́nh thường. Trong trường hợp này, cơ thể sẽ thải ra nhiều nước hơn là uống.Và hậu quả là thiếu nước với khô miệng và nhức đầu của say sỉn.
6.-Dược phẩm bán tự do có hại ǵ cho thận không?
Các dược phẩm như aspirin hoặc thuốc làm giảm đau đều không nên dùng quá nhiều v́ có thể có hại cho thận.Các chất quá chua hoặc kiềm cũng giống như vậy. Thành ra dùng vừa phải và chỉ khi cần mà thôi.
7.-Trẻ em bắt đầu kiểm soát tiểu tiện khi nào?
Với các cháu bé, giải tỏa tiểu tiện là nhiệm vụ của phản xạ: khi bọng đái đầy nước, thành của nó dăn ra, các bắp thịt co lại, van mở rộng và nước tiểu thong thả chẩy ra ngoài.
Tuy nhiên khi các em lên hai tuổi rưỡi, chúng bắt đầu kiểm soát tiểu tiện và khi lên ba, đa số đều bắt đầu tự giải tỏa được.Theo các nhà chuyên môn, mặc dù bố mẹ có cố gắng, các em cũng không làm được sớm hơn v́ các bộ phận ở năo chưa phát triển đầy đủ để làm công việc kiểm soát tiểu tiện này.
8.- Liệu có một sự liên hệ giữa chế độ dinh dưỡng, trọng lượng cơ thể và sự sinh đẻ?
Dinh dưỡng đầy đủ rất quan trọng cho sự mắn con của cả vợ lẫn chồng. Chất béo cũng có vai tṛ quan trọng trong nhiệm vụ này. Noăn sào sản xuất kích thích tố nữ estrogen từ các chất béo cholesterol.Khi nữ giới rất gầy, estrogen sẽ giảm và họ có thể không rụng trứng và có kinh nguyệt được.Đó là điều đă xảy ra với các vũ công ballet mà kinh nguyệt không đều hoặc không có.
Khi phái nữ quá béo th́ cũng có các hậu quả tương tự: trứng sẽ không rụng.Quá mập cũng có thể gây trở ngại cho nam giới v́ chất béo làm cho ngọc hành nóng hơn do đó số tinh trùng giảm.
9.-Tắt kinh là ǵ?
Khi phụ nữ tới tuổi 45, khoảng 450 nang noăn sào đă trưởng thành và rụng và chỉ c̣n lại một số nhỏ để tiết ra estrogen và progesterone. Trong vài tháng hoặc mấy năm, các nang này không c̣n và hai noăn sào ngưng hoạt động như một tuyến. Không những tắt kinh nhưng cơ thể của họ cũng cố gắng thích nghi với các thay đổi về kích thích tố và họ sẽ bị phừng phừng trên mặt, đổ mồ hôi, bẳn tính mệt mỏi, lo sợ và trầm cảm cả tháng, đôi khi cả năm.
10.- Có tắt kinh ở nam giới không?
Vai tṛ của ngọc hành sẽ giảm dần nhưng việc sản xuất tinh trùng và testosterone sẽ tiếp tục suốt đời.Sự giảm này ít khi quá nhanh để gây ra hiện tượng tắt kinh tương tự như sự măn kinh ở nữ giới./.
Chất Đạm
28/02/2020
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
BS_NGUYEN_Y_DUC nguyen y du
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
Trong mấy tuần lễ vừa qua, thịt đỏ (red meat) lại được y giới cũng như truyền thông báo chí và người tiêu thụ bàn tán, nhắc nhở. Đó là sau khi có một nghiên cứu về rủi ro của ăn nhiều thịt đỏ do Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ thực hiện “Ăn nhiều thịt đỏ tăng rủi ro mắc bệnh Viêm Khớp Thấp gấp hai lần.”
Ăn nhiều thịt đỏ (Red Meat)
Đó là kết quả một nghiên cứu do nhóm khoa học gia của Đại Học Manchester tại Anh thực hịên và được công bố trên Tạp chí y hoc Arthritis & Rheumatism số tháng 12 năm 2004
Các cơ quan truyền thông trong ngoài y giới đều vội vàng phổ biến tin này tới công chúng. Và chuyện ăn thịt đỏ (Red Meat) được nhiều người nhắc nhở bàn tán.
Trong khi đó th́ từ nhiều thập niên vừa qua, một vài chế độ dinh dưỡng lại khuyên nên ăn nhiều thịt, ít carbohydrat, để tránh béo ph́...
Xin cùng t́m hiểu xem “chất đạm dinh dưỡng “ với thịt đỏ này là ǵ và có vai tṛ như thế nào trong cơ thể con người.
Tiếng Anh của Chất Đạm là Protein. Tên này được nhà hóa học người Đức Geradus J.Mulder dùng đầu tiên vào năm 1838 để gọi một nhóm chất hữu cơ có giá trị dinh dưỡng rất cao trong thực vật và động vật. Chữ Protein xuất phát từ chữ Proteios trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là“ quan trọng hàng đầu”
Thật vậy, đạm (protein) là chất căn bản của sự sống trong mọi tế bào, là thành phần của các mô cấu trúc và bảo vệ cơ thể như xương, dây chằng, tóc, móng chân tay và các tế bào mềm ở các cơ quan, bắp thịt. Đạm cũng lưu hành trong máu dưới h́nh thức những kháng thể, nội tiết tố (hormone), hồng huyết cầu và các loại phân-hóa-tố (enzyme).
Trung b́nh, tỷ lệ chất đạm trong cơ thể con người là từ 10% tới 20% trọng lượng, tùy theo mập hay ốm, già hay trẻ, nam hay nữ.
Khác với thực vật, động vật không tạo ra được đạm chất, nên con người phải tùy thuộc vào thực vật và các động vật khác để có chất dinh dưỡng này
Không có chất đạm hấp thụ từ thực phẩm th́ thân thể con người không thể tăng trưởng và mọi cơ quan nội tạng không thể hoạt động. Đồng thời đạm cũng cần cho sự sinh sản, nuôi dưỡng con cái và để tu bổ những tế bào bị hư hao v́ nếu không có tu bổ th́ cơ thể ta sẽ tan ră ra thành từng mảnh.
Nói đến chất đạm là ta thường nghĩ ngay đến một đĩa thịt thơm ngon và cứ tưởng là chỉ có thịt động vật mới có đạm, do đó phải ăn nhiều thịt mới có đủ đạm.
Thực ra không phải vậy. Đạm có trong các thực phẩm có nguồn gốc thực vật như rau, trái, hạt... Loại đạm này vừa dễ tiêu lại vừa ít năng lượng, ít chất béo băo ḥa hơn đạm từ thịt động vật.
Protein không phải là một chất đơn thuần mà là tổng hợp của nhiều chất hữu cơ, căn bản trong đó là một chuỗi amin acid với 22 loại khác nhau.
Mỗi loại đạm có một số amin acid đặc biệt và chúng nối kết với nhau theo thứ tự riêng. Những acid amin này luôn luôn phân biến hoặc được tái sử dụng trong cơ thể, cho nên con người cần thay thế những thành phần đă được tiêu dùng. Quá tŕnh này bắt đầu từ khi thai nhi mới được thành h́nh và kéo dài suốt đời sống của con người.
Chất đạm cũng là nguồn duy nhất cung cấp nitrogen, một chất cần thiết cho mọi sinh vật trên trái đất.
Cơ thể con người chỉ tổng hợp được 13 loại amino acids, c̣n 9 loại kia th́ phải được cung cấp trực tiếp từ thực phẩm gốc thực vật hay từ thịt những động vật nào đă ăn những rau trái này. Chín loại acid amin này được xem là tối cần thiết (essential acid amin) bao gồm: histidine, isoleucine, leucine, lysine, methionine, phenylalamine, threonine, tryptophan và valine.
Và để cơ thể tạo ra protein, ta phải cung cấp tất cả 22 loại acid amin.
Khi ta ăn thực phẩm có chất đạm th́ hệ tiêu hóa sẽ biến chất đạm thành acid amin và các tế bào sẽ hấp thụ những acid amin mà chúng ta cần. Bởi thế ta phải ăn nhiều thực phẩm khác nhau để bảo đảm có đủ các loại acid amin cần thiết cho cơ thể.
Ngoài ra, khi thiếu một acid amin thiết yếu nào đó, cơ thể có khả năng lấy từ tế bào thịt trong người. Nhưng nếu diễn tiến này kéo dài sẽ đưa đến hao ṃn cơ thịt.
Cơ thể có khả năng tích trữ một số chất dinh dưỡng khác để dùng dần, th́ protein lại không tích trữ được. Nên ta cần tiêu thụ protein mỗi ngày. May mắn là chuyện này cũng dễ thực hiện. V́ trong thực tế, chúng ta thường ăn nhiều thịt hơn là nhu cầu. Lư do là ta quá dư thừa thịt, thuộc nhiều loại khác nhau từ động vật tới thực vật và khẩu vị chúng ta cũng lại rất thích đạm chất.
1- Phân loại chất đạm
Các nhà nghiên cứu chia chất đạm ra làm hai loại: loại chất-đạm-đủ và loại chất- đạm-thiếu.
Chất đạm nào có cả 9 thứ acid amin cần thiết kể trên gọi là chất đạm đủ; loại nào không có một vài trong 9 thứ acid amin đó th́ gọi là chất đạm thiếu.
Hầu hết mọi thực phẩm gốc động vật như thịt, sữa... đều có chất đạm đủ. Trứng tuy chứa nhiều cholesterol nhưng cũng cung cấp các acid amin theo đúng phân lượng mà cơ thể cần.
C̣n chất đạm trong thực phẩm gốc thực vật, như trái cây, ngũ cốc, rau cải, được coi như chất đạm thiếu v́ nó thiếu một hoặc hai amino acid thiết yếu kể trên. Riêng đạm trong đậu nành được coi như đủ v́ nó có hầu hết amino acid cần thiết.
Tuy nhiên nếu bữa ăn có nhiều loại trái cây, ngũ cốc và rau cải th́ các chất đạm tổng hợp trong các thức ăn đó sẽ bổ sung cho nhau để cung cấp các acid amin cần thiết. Ví dụ, bánh ḿ có lượng methionine cao nhưng lại ít lysine trong khi đó rau đậu (legume) lại có lượng lysine cao và lượng methionine thấp. Nếu trong cùng bữa ăn có cả bánh ḿ và rau đậu th́ ta sẽ có đầy đủ lượng methionine và lysine.
2-Nguồn gốc chất đạm
Chất đạm cần thiết cho cơ thể được cung cấp từ thực phẩm có nguồn gốc động vật hay thực vật.
Thịt động vật, sữa và cá là nguồn chất đạm dồi dào nhất, chiếm từ 15 đến 40 phần trăm trọng lượng thức ăn. Có lẽ v́ thế mà loài người nguyên thủy đă chọn săn thú và câu cá làm thực phẩm.
Nguồn chất đạm từ ngũ cốc và các thứ đậu chỉ chiếm từ 3% đến 10 % trọng lượng thức ăn; khoai, trái cây và cải lá có màu xanh lục chỉ chứa lượng chất đạm khoảng 3% hay ít hơn .
Gần đây các nhà dinh dưỡng khám phá ra là đậu nành và một số loại hạt cứng (quả hột nuts) cũng có dung lượng chất đạm không thua ǵ thịt.
Đạm từ một loại thực vật không có đủ 9 acid amin cần thiết, nhưng khi ăn chung nhiều loại th́ chúng bổ sung cho nhau. Thí dụ như ăn gạo pha với đậu, đậu với bắp Gạo thiếu lysine mà đậu lại nhiều lysine, nên khi gạo và đậu ăn chung th́ cơ thể có đủ hai thứ acid amin này.
Điểm cần lưu ư là sự bổ sung cho nhau này sẽ có kết quả tốt hơn khi ăn chung cùng một lúc hoặc chỉ cách nhau vài giờ.
Vài điều về chất đạm chế biến
Trên thị trường có bán nhiều loại acid amin pha lẫn với sinh tố, khoáng chất dưới h́nh thức viên, bột hoặc dung dịch lỏng. Đa số được chế biến từ chất đạm động vật hoặc thực vật.
Cách đây nhiều năm, Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ đă ra lệnh cấm một loại acid amin biến chế bán trên thị trường v́ có gần hai mươi người thiệt mạng sau khi dùng.
Những acid amin chế biến này thường được quảng cáo là làm bắp thịt nở nang, có nhiều năng lượng rất tốt cho người vận động nhiều và cho ai muốn giảm cân. Nhưng theo các nhà dinh dưỡng, chúng không có giá trị đúng như quảng cáo mà c̣n có thể gây nhiều nguy hiểm như sáo trộn trong việc hấp thụ chất đạm thiên nhiên, làm tăng bài tiết calci đưa tới loăng xương và tiêu chẩy.
Nhưng “thịt thay thế” làm từ đạm thực vật th́ được coi như tốt v́ ít gây rủi ro cho tim và mạch máu. “Thịt” này có hương vị tương tự thịt động vật, lại dễ tiêu, nhiều sinh tố, khoáng chất. Đa số các “giả thịt” được làm từ đậu nành v́ đậu này có nhiều chất dinh dưỡng hơn các thực vật khác.
3-Vai tṛ của chất đạm
Mỗi acid amin của chất đạm có nhiệm vụ riêng biệt trong cơ thể cho nên một chất này không thay thế cho chất kia được. Do đó phần ăn cần đa dạng, có sự cân đối hợp lư các loại thực phẩm khác nhau.
Nh́n chung, các amino acid từ chất đạm có những nhiệm vụ như sau:
a-Cấu tạo mô tế bào mới ;
b-Tu bổ các mô bị hư hao;
c-Là thành phần cấu tạo của huyết cầu tố, kích thích tố, phân hóa tố;
d-Giúp người mẹ tạo sữa để nuôi con;
đ-Cung cấp năng lượng cho các hoạt dộng của cơ thể.
e-Điều ḥa sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể , dung ḥa nồng độ acid-kiềm;
g-Hỗ trợ việc trao đổi chất dinh dưỡng giữa tế bào và huyết quản;
h-Là thành phần cấu tạo nhiễm thể và gene di truyền;
i- Một số acid amin dẫn truyền các tín hiệu thần kinh giữa các dây thần kinh và tới các bộ phận;
k-Hỗ trợ để một số sinh tố hoàn thành được chức năng của ḿnh.
4-Nhu cầu chất đam hàng ngày
Trong cơ thể con người, gan tạo ra được 80% acid amin cần thiết từ chất đạm ta ăn vào c̣n 20% kia phải do thực phẩm cung cấp.
Nhu cầu chất đạm thay đổi tùy theo tuổi tác, giai đoạn tăng trưởng, và t́nh trạng tốt xấu của cơ thể.
V́ chất đạm có những vai tṛ rất quan trọng trong cơ thể, nên có người tưởng là phải ăn nhiều chất đạm mới duy tŕ được cuộc sống tốt. Thực ra chỉ cần từ 10-12 % năng lượng do đạm chất cung cấp là đủ. Số chất đạm này có thể được cung cấp bởi một thực đơn cân bằng và đa dạng. Ngay cả với những người ăn chay, nếu biết ăn đủ lượng ngũ cốc và rau trái cân đối, hợp lư th́ cũng có thể cung cấp đủ lượng chất đạm cho cơ thể,
Dù có ăn nhiều thức ăn giàu chất đạm hay uống thêm các loại acid amin chế biến th́ cơ thể cũng không tăng thêm sự hấp thụ chất đạm. Lượng acid amin thừa sẽ được đưa vào gan, nơi đây nitrogen tách riêng và được thận thải ra ngoài. Chất đạm c̣n lại được tích trữ dưới h́nh thức mỡ hay được chuyển ra glucose để cung cấp năng lượng.
Có nhiều đề nghị về số lượng protein nên dùng mỗi ngày.
Bên Hoa Kỳ, các khoa học gia đề nghị 45 g protein mỗi ngày. Một ly cỡ trung b́nh sữa ít chất béo có 9 gram protein; một miếng thịt gà không mỡ bằng nửa bàn tay có 37 gram protein.
-Nhà dinh dưỡng Jane Brody đưa ra công thức là người trên 18 tuổi cần 0,70g protein cho mỗi kg trọng lượng cơ thể. Với người quá mập th́ tính theo trọng lượng trung b́nh của người cùng tuổi. Theo cách tính này th́ một người nặng 70 kg cần khoảng 49g protein mỗi ngày.
-Một chuyên gia dinh dưỡng khác cho rằng một người trưởng thành ít vận động mỗi ngày cần khoảng 0,8 g protein cho mỗi kg trọng lượng cơ thể, nhưng nếu vận động nhiều th́ cần gấp đôi. Một người trưởng thành ít vận động nặng 70 kg sẽ cần khoảng 56g protein mỗi ngày.
-Một trung tâm dinh dưỡng ở Houston, Texas đề nghị là mỗi ngày không nên ăn quá 250g thịt nấu chín.
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi nấu chín vừa phải th́ thịt c̣n mềm và dễ tiêu v́ hơi nóng phá hủy sự liên kết của acid amin. Nhưng khi nấu quá lâu th́ acid amin lại quấn quyện với nhau làm cho thịt khó tiêu hóa và cũng giảm bớt 25% số lượng.
Trẻ em đang độ tăng trưởng nên có nhu cầu chất đạm mỗi ngày cao hơn người già. Phụ nữ mang thai, cho con bú hoặc người bị phỏng nặng.. cũng cần được cung cấp lượng đạm chất cao hơn.
Trung b́nh mỗi người cao niên cần 65 g chất đạm mỗi ngày. Chỉ cần dùng hai ly sữa ít chất béo, 200 g thịt nạc, thịt gà hay cá là có thể cung cấp đủ số lượng chất đạm này.
Một vận động viên có thể cần gấp ba lần số lượng đạm của người già.
Các nhà dinh dưỡng thường khuyên ta không nên ăn quá 120g thịt đỏ ( red meat) như là thịt ḅ, heo, cừu mỗi ngày. Để có đủ protein, nên dùng thêm thịt gà, cá, sữa, rau, trái cây. Hoặc là ta có thể ăn thịt gà, cá bốn năm lần một tuần, một ngày ăn rau, trái cây và một ngày ăn thịt đỏ.
Một chế độ dinh dưỡng nặng về thịt và nhẹ về rau quả sẽ làm cho hai trái thận phải làm việc nhiều hơn trong việc đào thải các cặn bă của chất đạm qua đường tiểu tiện. Đó là chất ammonia và urea.V́ thế những người có bệnh về gan và thận đều nên hạn chế thịt.
Ngoài ra trong thịt động vật, đặc biệt loại thịt đỏ c̣n có nhiều cholesterol và chất béo băo ḥa, có nguy cơ gây ra các bệnh tim mạch, béo ph́.
Vấn đề thịt đỏ
Trở lại với nghiên cứu về sự liên hệ giữa thịt đỏ và Viêm Khớp Thấp (Rheumatoid Arthritis) của Đại Học Manchester. Đây là một bệnh viêm kinh niên thường thấy ở khớp ngón tay, cổ tay, bàn chân, cổ chân với mức độ nghiêm trọng khác nhau. Rủi ro đưa tới bệnh có thể do suy yếu hệ miễn dịch, do di truyền, do môi trường ô nhiễm hoặc ăn uống thiếu trái cây nhất là thiếu sinh tố C.
Kết quả nghiên cứu của Đại Học Manchester dựa vào sự quan sát 25,000 người nam nữ từ 45 tới 75 tuổi. Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh sự liên hệ giữa thịt đỏ và Viêm Khớp.
Theo tác giả nghiên cứu, sự liên hệ này là do sự tác dụng của chất collagen trong thịt lên hệ miễn dịch, hoặc v́ thịt có nhiều chất sắt hoặc do nhiễm vi khuẩn trong thịt. Và cần nhiều nghiên cứu kế tiếp để xác định nhân quả của sự kiện./.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.