Hàng không mẫu hạm là một trong những vũ khí hàng đầu để đánh giá tiềm  lực quân sự của một cường quốc. Đây được cho là 'cầu nối' để các cường  quốc mở rộng và vươn tầm ảnh hưởng ra khắp toàn cầu.
|  | 
| Hình minh họa Tàu sân bay Mỹ | 
Một  hạm đội được coi như một căn cứ hải quân - không quân di động có khả  năng tiếp cận mọi châu lục. Tàu sân bay đóng vai trò là đường bay nổi  khi các máy bay thực thi nhiệm vụ chiến đấu với các máy bay khác, các  tàu chiến trên biển, tàu ngầm và mục tiêu trên đất liền.
Mặc dù dễ bị tấn công do cồng kềnh, thiếu vũ khí tự vệ hữu hiệu nhưng để  tìm ra một thứ vũ khí đối kháng có thể đánh chìm hàng không mẫu hạm lúc  này vẫn là chưa khả thi. Tuy nhiên, trong tháng này, các nhà phân tích  và chuyên gia đã đưa ra hai luận điểm để giải thích cho khả năng tàu sân  bay sẽ bị 'xóa sổ'.
Luận điểm đầu tiên nhận được sự chú ý đáng kể từ trong giới nghiên cứu  về hải quân, do Đại tá hải quân Jerry Hendrix đưa ra trong loạt bài viết  về "Tuyến Phòng thủ bị chọc thủng" của Trung tâm An ninh mới của Mỹ  (CNAS). Loạt bài viết này mang lại cho các nhà phân tích cơ hội để  'trình bày các luận điểm khó bác bỏ' trong các vấn đề quốc phòng gây  tranh cãi tại Mỹ.
Về khía cạnh hiệu quả đạt được so với mức chi phí bỏ ra, Hendrix lập  luận rằng các tàu sân bay hạt nhân hiện đại của Mỹ (CVN) không tương  xứng với nhiệm vụ kiểm soát việc phổ biến các công nghệ chống tiếp cận,  đặc biệt là với tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D của Trung Quốc (ASBM).
Luận điểm này vẫn chưa có ai bác bỏ được. Như chuyên gia Bryan McGrath  đã viết trong tài liệu Phổ biến Thông tin, sự so sánh thẳng thừng giữa  chi phí của một chiếc tàu sân bay Mỹ và 1.227 tên lửa DF-21D rõ ràng là  sai lệch.
Cả hai loại vũ khí này đều cần các hệ thống hỗ trợ và chưa tính vào tổng  chi phí, và trong quá trình sử dụng thì tàu sân bay được cho là linh  hoạt hơn rất nhiều so với tên lửa đạn đạo.
Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề mà Hendrix nêu ra liên quan tới các quyết  định về tổ hợp hàng không này chứ không hẳn là về bản thân tàu sân bay  đó. Hàng không mẫu hạm nào cũng cần phải có máy bay, do đó, việc đánh  giá chi phí dành cho mỗi tàu sân bay đều phải bao gồm việc phân tích về  chi phí cũng như tiềm lực của máy bay thuộc tổ hợp hàng không đấy.
Bên cạnh đó, các tàu sân bay có xu hướng không bị giới hạn trong một  nhóm hàng không chuyên biệt, và trong 'đời' của một chiếc tàu sân bay sẽ  có thể triển khai nhiều loại máy bay khác nhau.
Trong khi đó, cây bút khác là Humphrey lại nêu ra một thách thức lớn hơn  cho tàu sân bay khi cho rằng loại vũ khí này đang thoái trào trên khắp  toàn cầu.
Tây Ban Nha đã giã từ loại vũ khí đơn độc này để theo đuổi loại tàu đổ  bộ cỡ lớn sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau là tàu Principe de  Asturias. Italy cũng sớm theo chân Tây Ban Nha, trong khi mối hoài nghi  về các hạm đội tàu sân bay của Pháp và Brazil ngày một gia tăng.
Dường như các nước đang theo xu hướng thiên về các tàu vận chuyển được  máy bay để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau - vừa có thể tiến hành  đổ bộ, chỉ huy và các sứ mệnh cứu trợ bên cạnh việc đóng vai trò là các  nền tảng triển khai tác chiến trên không.
Tuy nhiên, quá trình quá độ then chốt lại ít liên quan tới quyết định  giã từ các tàu sân bay mà là việc thiếu các loại máy bay phản lực lên  thẳng Harrier có thể đáp ứng được yêu cầu. Các máy bay Harrier từ lâu đã  đóng vai trò chủ lực trong các lực lượng hải-không quân không thể vận  hành máy bay cất cánh bằng máy phóng nhưng hạ cánh bằng dây hãm  (CATOBAR).
Chiếc máy bay Harrier II được chuyển giao năm 2003. Điều này khiến cho  chiếc máy bay không chỉ trở nên lỗi thời so với khung máy bay phản lực  hiện đại, mà còn khiến cho việc bảo trì và yêu cầu tập huấn vượt quá khả  năng và nguồn lực của rất nhiều hải quân có quy mô nhỏ và vừa.
"Hậu duệ" của chiếc Harrier II phải thân thiện với người sử dụng, thích  ứng được và có rất nhiều khách hàng quốc tế cho dù có thể không đủ đơn  hàng để chứng thực cho chi phí thiết kế.
Nhiều khả năng hải quân nhiều nước sẽ tiếp tục dồn nguồn lực cho các  loại tàu chiến có khả năng chuyên chở máy bay phục vụ mục đích khác  nhau. Chừng nào các quốc gia vẫn thấy lợi ích của các tàu này, họ sẽ vẫn  tiếp tục sản xuất chúng.
Các tàu lớn hơn với thiết bị hiện đại sẽ mang được máy bay nhiều hơn và  tốt hơn. Các tàu lớn nhất thế giới sẽ chuyên chở một loạt các máy bay  siêu tối tân - gồm cả loại có phi công và không người lái.
Cùng lúc đó, việc lập nên các hạm đội sẽ không thể đáp ứng một cách hoàn  hảo các nhiệm vụ đương thời vì thông thường, các hạm đội được phát  triển từ rất lâu trước khi người ta nhận ra ra các đặc trưng của xung  đột trong tương lai. Và về khía cạnh này thì rõ ràng là tính hữu dụng  của các tàu sân bay đã bị giảm đáng kể.
Trên phương diện công nghiệp quốc phòng và mang nặng tính hành chính thì  bất kỳ tổ hợp nào (cho dù là gồm các máy bay F-35, hay F/A-18, Yak-38,  A-6 hay trực thăng Sea Hawk) cũng được coi là hình dung tốt nhất để phản  ứng các xung đột trong tương lai.
Tuy vậy, rất nhiều giả định đằng sau các quyết định này có thể và thường  là không chính xác. Các ưu thế hàng đầu của tàu sân bay chính là sự  linh hoạt và khả năng thích ứng với các hoàn cảnh khác nhau chứ không  chỉ là khả năng duy nhất giải quyết các vấn đề đặc thù nào đó.
- Lê Thu (theo Diplomat)
- VietNamNet