(TTHN) - Theo các tài liệu lịch sử cho thấy Mỹ không công nhận kết quả Hiệp định Genève tuy nhiên vẫn tuyên bố ủng hộ nền hòa bình tại Việt Nam do Hiệp định Genève mang lại và thúc đẩy sự thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam bằng các cuộc bầu cử tự do dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Eisenhower lại tin rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành, do đó Mỹ thực tế lại ủng hộ việc Việt Nam Cộng Hòa từ chối tổ chức Tổng tuyển cử tự do thống nhất Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam đã không bao giờ được tổ chức.
Sự thật của vấn đề này thế nào? Xin mời các bạn cùng đọc bài viết của tác giả Lữ Phương.
Để phản bác một ý kiến của Trần Văn Trạng (bài
“Đối thoại dân chủ hay vận động chiêu hồi?” trên talawas 24-8-2006), Đinh Từ Thức đã đặt ra câu hỏi:
“Ai phá hoại Hiệp định Genève?” (talawas 7-9-2006) để sau đó trả lời: chính là cộng sản chứ không phải là Mỹ. Ông lập luận như sau:
Với chính quyền Mỹ, Hiệp định Genève không phù hợp với đường lối chính trị của một siêu cường chống cộng sau thế chiến thứ hai, cho nên Mỹ có đến Hội nghị Genève nhưng lại không ký kết. “Không thể kết tội ai đã bội ước, vì chưa hề có giao ước”. Văn bản chỉ là tờ giấy. Vì mang nội dung chính trị hoàn toàn có lý do, không thể nói là không “chính nghĩa” hành động của chính phủ Ngô Đình Diệm (được Mỹ ủng hộ) từ chối bầu cử hai năm sau.
Với ĐCSVN ông cho rằng Hiệp định Genève chỉ là một bước đi trên con đường thống trị cả nước bằng vũ lực, “ý đồ” ấy đã nằm trong bản chất của chủ nghĩa cộng sản với tham vọng bành trướng không ngừng của nó. Ông khẳng điều đó bằng câu viết dứt khoát, chắc nịch này: “Không phải đợi đến 1956, vì không có bầu cử nên Bắc Việt mới quyết định chiếm miền Nam bằng võ lực, mà kế hoạch đã định ngay khi Hiệp định Genève chưa ráo mực, lúc đang chuyển quân tập kết”.
Sở dĩ các chính quyền miền Nam thua cộng sản là vì theo ông, đã rất dở. Huyền thoại “nhân dân miền Nam nổi dậy” là do cộng sản tạo ra bằng tuyên truyền, nhưng lại thành công rộng rãi nên việc miền Nam mất chính nghĩa trở thành đương nhiên. Trong khi để cộng sản len vào nội bộ phá hoại thì các chính quyền Sài Gòn lại bắt bớ những chính khách quốc gia. Còn Mỹ can thiệp nhưng lại bày trò đảo chính, sau đó gặp khó khăn thì “bỏ của chạy lấy người”.
Miền Nam trong suốt thời kỳ được Mỹ ủng hộ, hầu như chẳng có chính quyền nào hoàn toàn ra hồn. Nhưng “những người sống tại miền Nam trước 1975 đã phải chọn cái không ra hồn tương đối dễ thở hơn, thế thôi”. Ý chính của ông Đinh Từ Thức rút lại có thể hiểu là: trong những lựa chọn đã qua, việc đứng về phe chống cộng vẫn là điều bất khả kháng, nếu không nói là tốt đẹp hơn thì cũng đáng giá hơn, dễ chịu hơn sự chọn lựa cộng sản.
Qua bài viết nói trên, ông Đinh Từ Thức đã sử dụng vừa tư liệu vừa suy diễn để lập luận, nhưng phân tích cách lập luận đó, tôi thấy những tư liệu đã không đủ sức nâng đỡ cho phần suy diễn, hơn nữa chính phần suy diễn này đã ảnh hưởng không tốt đến phần tư liệu. Tất cả, theo tôi, đều bắt nguồn từ một quan niệm chống cộng rất “đặc biệt” của ông. Tôi tạm mượn khái niệm hình như đã có người dùng rồi để gọi đó là chủ nghĩa chống cộng thánh chiến mà mấy trang viết sau đây sẽ làm xuất lộ những giả định nền móng biện minh cho tính chất “đặc biệt” của nó.
*
Giả định quan trọng chi phối chủ nghĩa chống cộng này dựa vào cái gọi là “ý đồ xích hoá” tổng quát của chủ nghĩa cộng sản để diễn dịch và gán ghép cho bất cứ hành động cụ thể nào của những người tự xưng là đồ đệ của Marx. Để chứng minh cho bản chất xâm lược của cộng sản miền Bắc – “chiếm miền Nam bằng võ lực” – ông Đinh Từ Thức đã nhanh chóng khai thác việc thủ tướng cộng sản Võ Văn Kiệt mới đây tiết lộ rằng Lê Duẩn trên đường tập kết ra Bắc đã lén quay lại miền Nam, để ông khẳng định sự tất yếu của “ý đồ” miền Bắc xâm chiếm miền Nam bằng võ lực, chẳng cần chờ đợi gì cả, mà đã diễn ra “ngay khi Hiệp định Genève chưa ráo mực”. Nếu ông đọc lại bài viết của mình, tôi tin rằng ông đã thấy cách diễn dịch ấy là quá đơn giản khi chỉ căn cứ vào việc cá nhân một Lê Duẩn (lúc bấy giờ chưa là Tổng Bí thư Đảng) có mặt tại miền Nam để lập luận.
Vấn đề tình thế chung mới là quan trọng mà tình thế của cộng sản Việt Nam sau Hiệp định Genève không cho phép xuất hiện một kế hoạch như thế. Từ 1954-1958, 1959, miền Bắc mới qua chiến tranh, lại phải trả nợ cho những sai lầm về ý thức hệ mượn của Trung Quốc trước đó (cải cách ruộng đất, đấu tố), bị ảnh hưởng không ít đường lối chung sống hoà bình của Liên Xô (biểu hiện ở phong trào Nhân văn Giai phẩm), nội bộ chia rẽ, mất uy tín với nhân dân, nên hàng ngũ lãnh đạo cộng sản bấy giờ mới chỉ đưa ra khẩu hiệu “chiếu cố miền Nam”; dù biết không có triển vọng nhưng vẫn dựa vảo Hiệp định Genève như một căn cứ pháp lý để tranh thủ một giải pháp hoà bình, chứ chưa thể nẩy ra ngay “ý đồ” dùng bạo lực thống nhất đất nước. (Xem Dương Trung Quốc,
“Tư tưởng coi thường giá trị Hiệp định Genève là sai lầm”, VietnamNet, 21-7-2004).
Trong chính trị, vấn đề “ý đồ” không phải là tất cả và “ý đồ” thống trị thế giới bằng chiến tranh cũng không phải chỉ cộng sản mới có. Quy cho cộng sản là người sở hữu duy nhất mưu tính thống trị thế giới bằng bạo lực để căn cứ vào đó kết án cộng sản về phương diện đạo đức, điều này quá dễ dãi. Thật sự thì tham vọng nhuộm đỏ bản đồ thế giới của cộng sản là có thực (có thực như tất cả những mưu đồ của các thế lực bá quyền hay không bá quyền khác) nhưng ai đã nghiên cứu những toan tính sách lược và chiến lược của Đệ tam Quốc tế đều biết rằng với những người cộng sản, bất cứ ý đồ nào mà không dựa vào hoàn cảnh thực tế, không dựa vào những gì mình có trong tay thì sẽ trở thành “chủ nghĩa duy ý chí”, “chủ nghĩa phiêu lưu” thuần tuý. Rõ ràng ý đồ là một chuyện còn việc thực hiện ý đồ là chuyện khác hoàn toàn. Không phải ai cứ muốn lấy thế giới là lấy được thế giới.
Ông Đinh Từ Thức không thể không biết điều đó (ông đã nói đến hồi ký của Lansdale nêu lý do như trên để chủ trương từ khước tổ chức tổng tuyển cử vào 1956) nhưng do cái cách nghĩ về cộng sản của ông nên ông đã tự mâu thuẫn. Tệ hơn nữa, cách nghĩ ấy đã đưa ông đến những kết luận bất lợi ngoài ý muốn: trong khi cứ nhất định muốn biến cộng sản thành những con quỷ khát máu và xảo trá, ông đã tự ám thị đến nỗi đâm ra sợ quỷ và cho rằng quỷ đang tràn ngập xã hội con người. Không là quỷ thì làm sao cộng sản lại có thể đổi trắng thay đen, đem chuyện giết người dã man của mình dựng nên huyền thoại “nhân dân miền Nam nổi dậy” lừa được tất cả thế giới, tràn lan vào cả hàng ngũ những học giả để họ tạo ra “những chứng cớ đàng hoàng” tố cáo Mỹ vi phạm Hiệp định Genève. Không phải chỉ một ngày một tháng mà trong cả một cuộc chiến tranh. Ông Đinh Từ Thức nghĩ sao nếu căn cứ vào đó tôi nói rằng chính cái quan niệm coi cộng sản là quỷ đã đưa ông đến chỗ miệt thị các đồng nghiệp của mình hơi quá đáng: bọn trí thức không biết ăn học ra sao mà lại là cái nắm bột mì mềm xèo để cộng sản muốn nhào nặn ra sao cũng được!
Việc ông chê chính quyền Ngô Đình Diệm “dở”, “không ra hồn” cũng bắt nguồn từ thái độ vừa ghét vừa sợ cộng sản theo kiểu đó: phải cố bảo vệ bằng mọi cách cái thực thể chính trị mình cho là tốt hơn để chống lại cộng sản như một cách trừ tà. Căn cứ vào bài viết của Võ Văn Kiệt tiết lộ sự kiện Lê Duẩn lén quay về Nam và cho rằng chính Lê Duẩn là nguồn gốc của những “quấy phá tại nông thôn để gây tiếng vang, tạo tình trạng bất ổn. Kích đồn, ngăn chợ, phá trường, khủng bố hương chức hương sư…, là bước đầu của “cách mạng giải phóng”, dựa vào đó trả lời Trần Văn Trạng rằng nếu chính phủ Ngô Đình Diệm có tiến hành những “những chiến dịch trả thù cộng sản”, thì cũng là một cách nói không xa sự thực”. Mục đích không có gì khác hơn là đổ lên đầu cộng sản tất cả tội lỗi để bảo vệ cho cái tính chất dù sao cũng “tương đối dễ thở” của một miền Nam được Mỹ ủng hộ không cần thực thi Hiệp định Genève. Ở đây tôi không hề có ý định phản bác niềm tin của ông về cái thực thể chính trị mà ông cho là “tương đối dễ thở” ấy, nhất là khi ông dựa vào ý muốn phủ định cái hôm nay để bảo vệ niềm tin ấy.
Nhưng ông sẽ nghĩ sao khi tôi dẫn ra đây những lời lẽ được viết ra từ ngay hồi đó, bởi những người Mỹ chống cộng, những người Mỹ trong khi đang đánh nhau với cộng sản, đã dựa vào những tài liệu nội bộ, chân thực được giấu kín của chính phủ Mỹ để nói ngược lại hoàn toàn ý kiến của ông:
“Nghiên cứu mật của Ngũ Giác đài về chiến tranh Việt Nam nói quan điểm chính thức của chính phủ Mỹ cho rằng cuộc chiến được áp đặt cho Nam Việt Nam là do sự xâm lược từ Hà Nội là “không hoàn toàn thuyết phục”. Các chính quyền kế tiếp nhau ở Washington, từ John F. Kennedy đến Richard M. Nixon đã sử dụng cách giải thích về nguồn gốc chiến tranh này để biện minh cho sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Nhưng những thẩm định của tình báo Mỹ trong những năm 1950 chứng tỏ rằng cuộc chiến đã khởi đầu phần lớn là một cuộc nổi loạn ở miền Nam để chống lại chế độ Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên áp bức và thối nát”? (The Pentagon Papers, bản của The New York Times, Bantam Books, Inc, 1971, tr. 67).
.
Tôi phải tin ông hay tin vào những người Mỹ soạn thảo ra Hồ sơ mật đó? Đấy không phài là vấn đề. Vấn đề vẫn là cái cách ông chống miền Bắc cộng sản để bảo vệ miền Nam không cộng sản. Ông trách chính quyền Ngô Đình Diệm “bắt các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Văn…, và tệ hơn nữa, thủ tiêu các ông Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Tam Anh, Tạ Chí Diệp…”. Nhưng ông không cho biết tại sao một miền Nam ông gọi là “dễ thở” mà lại đi làm một công việc cũng “bạo lực” với những người cùng chiến tuyến với mình chẳng khác gì cộng sản miền Bắc? Ông chê là “dở” việc làm của những chính quyền miền Nam không chịu trừng trị tới nơi tới chốn bọn “khủng bố” cùng với bọn gián điệp cộng sản, nhưng tại sao ông lại làm ngơ không giải thích tại sao – như Trần Văn Trạng đã nêu ra – chính quyền Ngô Đình Diệm đã đẩy nhà văn Nhất Linh đến chỗ phải tự vẫn? Thích Quảng Đức và Nhất Chi Mai phải tự thiêu?
.
Tại sao ông không nói gì đến lý do khiến máy bay mang cờ vàng ba sọc dội bom xuống Dinh Độc lập, không nói đến cuộc đảo chính năm 1960 của Quân đội Việt Nam Cộng hoà thất bại, cuộc đảo chính 1963 cũng của Quân đội Việt Nam Cộng hoà nhưng thành công? Chẳng lẽ những việc chống chính quyền Ngô Đình Diệm đó cũng là mưu đồ của cộng sản hết? Là do gián điệp cộng sản gài vào xúi giục hết? Hay là ông sẽ viện ra lý lẽ cho rằng dù sao thì những chuyện bắn giết thanh toán chính trị hỗn loạn ở miền Nam cũng nên xem là tốt hơn những cuộc thanh trừng, trấn áp ở miền Bắc? Nền độc tài xanh vẫn thú vị hơn nền độc tài đỏ? Việc Mỹ đem B52 và thuốc khai quang dội xuống đất nước là dễ chịu hơn rocket của VC? Ca từ của một nhạc sĩ bên đây vĩ tuyến lòng súng nhân đạo cứu người lầm than là mùi mẫn hơn cái ý thơ của một thi sĩ bên kia vĩ tuyến đánh Mỹ là niềm vui lớn?
Dựa vào những giả định về ta địch, bạn thù như trên của ông, tôi có thể nêu ra khá nhiều câu hỏi khác. Ông nói Mỹ và miền Nam (được Mỹ ủng hộ) sở dĩ thua cộng sản là vì “dở” hơn cộng sản nhiều chuyện. Nhưng nếu tôi dựa vào những cái “dở” ấy để dẫn tới cách giải thích này: Mỹ và miền Nam tuy lắm tiền nhiều của, súng đạn thừa thãi, nhưng lại thua cộng sản chỉ vì Mỹ và miền Nam không ác độc, không mưu mô, lừa đảo như cộng sản, thì ông nghĩ sao? Và như thế thì bài học để đừng thua cộng sản nữa là gì nếu không phải làm sao trở nên lưu manh, gian xảo, ác độc hơn cộng sản? Một câu hỏi khác và một bài học khác: Mỹ và miền Nam thua cộng sản vì Mỹ và miền Nam là “dân chủ”, mà dân chủ thì gây bất đồng lộn xộn, do đó muốn thắng cộng sản thì nhất định mình phải cố gắng mà làm “độc tài” sao cho hơn cộng sản, nghĩa là “trả thù cộng sản”cho nhiều hơn nữa, bắt mấy tay chống đối cho nhiều hơn nữa? Về việc ông trách móc “đồng minh” Mỹ “bỏ của chạy lấy người” tôi thấy bài học có lẽ cũng vậy: muốn thắng cộng sản, Mỹ phải làm gì nếu không đổ thêm quân (từ nửa triệu đến một triệu) cùng với thật nhiều bom đạn (có bom nguyên tử thì càng tốt) rồi kéo dài chiến tranh thêm 10 năm để bày tỏ quyết tâm giúp đỡ miền Nam?
*
Bây giờ chắc hẳn ông đã cảm thấy nội dung của khái niệm chống cộng thánh chiến mà tôi đã gợi ra. Và chắc hẳn ông cũng khó mà không cho là kỳ cục những kết luận mà tôi đã rút ra được một cách tất yếu từ cái khái niệm chống cộng đặc biệt ấy. Nhưng đó lại là sự thuận lý của lập luận. Chỉ là vì khi người ta khởi xuất từ một tiền giả định nào đó không có cơ sở vững chắc trong thực tế rồi cứ theo đó mà đẩy mọi việc đi tới thì những kết luận có được cũng sẽ không thể nào không chứa đựng những tính chất phi hiện thực có sẵn trong cái tiền giả định ấy. Nếu ông Đinh Từ Thức chia sẻ được điều này thì việc ông phải chấp nhận những hậu quả phi lí trong suy luận của cái chủ nghĩa chống cộng mà ông dựa vào để biện giải cho những luận cứ của ông về Hiệp định Genève 1954 về Đông Dương cũng là không tránh khỏi, mặc dù về mặt chủ quan ông không muốn chấp nhận chúng, trừ khi ông tìm cách làm cho cái tiền giả định ấy mang bớt vẻ “thánh chiến” đi.
Theo tôi hiểu thì thứ chủ nghĩa chống cộng “đặc biệt” ấy chỉ là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cũng rất đặc biệt của thế giới vào thế kỷ 20, ai cũng biết: đó là cuộc Chiến tranh Lạnh giữa hai phe chống cộng sản và cộng sản, (bên này là Mỹ bên kia Liên Xô). Do hai bên hiểu nhau quá rõ về thực lực của các loại vũ khí tàn phá và tự sát, cần phải tránh đụng độ trực tiếp, nên chiến trường “ai thắng ai” được hai bên chọn lựa để mở rộng uy lực của mình đã là những nước mà trước đây người ta gọi là thế giới thứ ba, những nước kém phát triển hoặc đang phát triển trong đó có Việt Nam. Cuộc chiến đấu của Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân Pháp để giành độc lập bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, lùng nhùng mãi trong máu lửa mà không chấm dứt được, sau Thế chiến II, đã trượt dài vào vùng tranh chấp của cuộc Chiến tranh Lạnh đó, cho nên đất nước nếu thừa mứa những phương tiện giết người của cả hai bên thì cũng tràn ngập những danh từ, những khái niệm công cụ về chiến tranh tâm lý của cả hai bên.