Liêu Thiên Tộ là vị hoàng đế thứ chín và cuối cùng của nhà Liêu, cai trị từ năm 1101 đến năm 1125. Tên thật của ông là Gia Luật Diên Hi.
Liêu Thiên Tộ, tên thật Gia Luật Diên Hi, sinh năm 1075 và là vị hoàng đế thứ chín, cũng là vị quân chủ cuối cùng của nhà Liêu, cai trị giai đoạn 1101–1125. Ông là con trai Chiêu Hoài thái tử Gia Luật Tuấn, cháu nội Liêu Đạo Tông, vì thế kế vị ngay sau khi Liêu Đạo Tông băng hà vào năm 1101. Sự nghiệp của ông gắn liền với thời kỳ suy tàn không thể cứu vãn của triều Liêu, khi những nguy cơ từ bên ngoài ngày một lớn, trong khi nội bộ triều đình liên tục rối ren, các lực lượng sắc tộc bị trị như Bột Hải nổi dậy, còn sự trỗi dậy của người Nữ Chân chuẩn bị đặt dấu chấm hết cho cả một đế quốc Khiết Đan kéo dài hơn hai thế kỷ.
Suốt nhiều thập niên trước đó, nhà Liêu đã đối mặt với dòng người tị nạn Bột Hải di chuyển ồ ạt sang Cao Ly. Theo các học giả Triều Tiên và Hàn Quốc, dòng người này tiếp diễn ít nhất đến đầu thế kỷ XII dưới thời Cao Ly Duệ Tông, khiến dân số gốc Cao Câu Ly dần trở nên chiếm ưu thế so với cư dân gốc Tân La hay Bách Tế từng trải qua chiến tranh triền miên kể từ thời Hậu Tam Quốc. Nhiều người Bột Hải cư trú tại Khai Thành và Bình Nhưỡng vốn từng là vùng định cư truyền thống của họ từ Vùng Bái Tây hoặc các đô thành của Bột Hải trước kia. Cuộc di cư bền bỉ đó phản ánh sự áp lực mà người Bột Hải phải gánh chịu dưới ách cai trị của nhà Liêu, đồng thời gieo mầm những bất ổn sắc tộc kéo dài đến tận thời Liêu Thiên Tộ.

Nhà Liêu từng sở hữu một đội quân hùng mạnh. Ảnh: Sina.
Ngay khi lên ngôi, Liêu Thiên Tộ đã phải đối mặt với hiểm họa người Nữ Chân, vốn là hậu duệ của người Mạt Hạt từng có vai trò trong cấu trúc quyền lực của vương quốc Bột Hải – quốc gia bị Khiết Đan tiêu diệt năm 926. Ngày 10 tháng 2 năm 1112, trong chuyến tuần hành đến Xuân Châu, Liêu Thiên Tộ triệu tập các tù trưởng Nữ Chân đến triều và mở yến tiệc lớn. Trong buổi yến này, ông say rượu và buộc các thủ lĩnh phải khiêu vũ mua vui, chỉ riêng Hoàn Nhan A Cốt Đả từ chối. Sự việc tưởng như nhỏ nhặt nhưng đã trở thành bước ngoặt, khiến quan hệ giữa tộc Nữ Chân và triều Liêu rơi vào ngõ cụt. Chỉ hai năm sau, Hoàn Nhan A Cốt Đả trở thành lãnh tụ liên minh các bộ lạc Nữ Chân sau khi anh trai là Hoàn Nhan Ô Nhã Thúc mất vào năm 1113, bắt đầu tổ chức quân sự, xây thành lũy, luyện binh và chuẩn bị chiến tranh.
Năm 1114, thời cơ đến, Hoàn Nhan A Cốt Đả đem quân đánh vương quốc Ô Nha – hậu duệ Bột Hải – rồi thâu nạp lãnh thổ vào khu vực Nữ Chân. Sự kiện này khiến người Bột Hải, vốn chịu ách cai trị nặng nề của Liêu, càng tích cực nổi dậy. Những người tị nạn Bột Hải muốn tránh thuế khóa hà khắc và sự đồng hóa văn hóa nên chủ động ủng hộ người Nữ Chân. Họ nhấn mạnh nguồn gốc chung giữa Bột Hải và Nữ Chân từ bảy bộ lạc Vật Cát, xem A Cốt Đả là lãnh tụ phục hưng và coi Liêu là kẻ thù từng khiến quốc gia của họ diệt vong. Cuộc nổi dậy của họ song hành với chiến tranh Nữ Chân – Liêu, diễn ra ác liệt từ năm 1114, và họ đã đánh bại quân Liêu hai lần trước khi bị dập tắt.
Cũng trong năm này, Hoàn Nhan A Cốt Đả dẫn hơn hai nghìn quân đánh phá châu Ninh Giang. Liêu Thiên Tộ phái tướng Tiêu Tự Tiên đem bảy nghìn quân chống trả nhưng A Cốt Đả bất ngờ tập kích vào ban đêm, khiến quân Liêu tan vỡ. Binh lực người Nữ Chân tăng lên một vạn người, thế lực mở rộng nhanh chóng. Liêu Thiên Tộ vẫn xem nhẹ mối đe dọa này, dẫn đến việc các đạo quân ông phái đi đều lần lượt thất bại.
Đầu năm 1115, Liêu Thiên Tộ buộc phải thân chinh nhưng quân Liêu tiếp tục thua trận. Ngày 28 tháng 1 năm 1115, Hoàn Nhan A Cốt Đả chính thức xưng đế, lập quốc hiệu Đại Kim, đổi tên thành Hoàn Nhan Mân, đánh dấu sự xuất hiện của một đế quốc mới sẽ chấm dứt trật tự Đông Á cũ. Tháng 9 cùng năm, ông đem quân đánh Hoàng Long phủ, Liêu Thiên Tộ huy động hơn hai mươi vạn quân nhưng lại bị đánh tan hoàn toàn. Sau thất bại này, Kim mở hội nghị quân sự, quyết định tiến hành chiến dịch tiêu diệt Liêu bằng hai đạo quân Đông lộ và Tây lộ. Cùng lúc đó, nội bộ triều Liêu liên tục biến loạn khi Gia Luật Chương Nô làm phản tại Thượng Kinh dù bị dẹp yên nhanh chóng, càng khoét sâu sự chia rẽ.
Năm 1116, tình hình càng tồi tệ hơn khi người Bột Hải vùng Đông Kinh nổi dậy. Nhân cơ hội Liêu phải gia cố thành Đông Kinh, tướng gốc Bột Hải Cao Vĩnh Xương dẫn ba nghìn người chiếm giữ thành, lập quốc hiệu Đại Nguyên Quốc, tự xưng hoàng đế Long Cơ và chiếm toàn bộ bán đảo Liêu Đông. Thiên Tộ phái các tướng Tiêu Hàn và Trương Lâm – đều là hậu duệ Bột Hải – đi chinh phạt nhưng họ bị quân Kim can thiệp và đánh bại. Khi Kim Thái Tổ yêu cầu Long Cơ từ bỏ đế hiệu, ông không phục tùng, khiến quân Kim tiêu diệt hoàn toàn Đại Nguyên Quốc vào tháng 5 năm 1116, cắt đứt hy vọng cuối cùng của các phong trào phục quốc Bột Hải.
Từ năm 1117 trở đi, Kim liên tục đánh Xuân Châu và các vùng trọng yếu, trong khi Bắc Tống lợi dụng tình thể, gửi sứ giả bàn mưu hợp tác với Kim để tiêu diệt Liêu. Trong văn bia năm 1117, nhà Liêu còn ghi rằng người Bột Hải và người Nữ Chân được xem là cùng một nhóm người, phản ánh sự bất lực của triều đình trong việc phân loại, quản lý các tộc nổi dậy.
Đến năm 1119, Liêu Thiên Tộ buộc phải phong Hoàn Nhan Mân làm “Hoàng đế Đông Hoài quốc” nhằm mong Kim bớt gây chiến nhưng văn bản sắc phong không tôn xưng đúng cách, khiến Kim càng phẫn nộ. Năm 1120, quân Tây lộ của Kim đánh chiếm Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ, tướng giữ thành Tiêu Thát Bất Dã đầu hàng. Nội bộ Liêu lại rối ren vì tranh chấp kế vị, khiến Liêu Thiên Tộ phải giết con trưởng Gia Luật Ngao Lỗ Oát, làm sĩ khí càng suy sụp.
Đầu năm 1122, quân Kim đánh hạ Trung Kinh Đại Định phủ. Liêu Thiên Tộ phải chạy vào sa mạc Gobi. Quân Tây lộ tiếp tục đánh hạ Tây Kinh Đại Đồng phủ. Khi không còn tung tích Liêu Thiên Tộ, Gia Luật Đại Thạch và Lý Xử Ôn lập Gia Luật Thuần làm Liêu Tuyên Tông ở Nam Kinh Tích Tân phủ, hình thành Bắc Liêu. Bắc Tống nhân cơ hội bắc phạt nhưng đều thất bại. Liêu Tuyên Tông vì cầu viện Kim mà giáng Liêu Thiên Tộ làm Tương Âm vương, rồi đàm phán liên tục nhưng sau đó bệnh mất, để vợ là Liêu Đức phi xử lý triều chính.
Các lực lượng ở Bắc Liêu hỗn loạn đến mức cha con Lý Xử Ôn tìm cách phản Kim, cấu kết Tống và chiếm đất Liêu, song bị phát hiện và xử tử. Liêu Đức phi phải năm lần dâng biểu xin Kim cho lập Gia Luật Định làm hoàng đế nhưng bị từ chối. Cuối năm 1122, Cư Dung quan thất thủ, Bắc Tống phải cầu viện Kim để đánh chiếm nốt Nam Kinh, Bắc Liêu chính thức diệt vong. Liêu Đức phi chạy đến chỗ Liêu Thiên Tộ nhưng bị ông giết. Song triều Liêu khi này chỉ còn là hư ảnh.
Năm 1123, Khố Mạc Hề nổi loạn nhưng bị dẹp yên trong vài tháng. Cùng năm, Kim Thái Tổ qua đời, Kim Thái Tông kế vị và tiếp tục chiến lược tiêu diệt Liêu. Đến năm 1124, Liêu Thiên Tộ chỉ còn khu vực Mạc Ngoại, gia quyến bị giết hoặc bắt, ông cố gắng thu phục Yên Châu và Vân Châu nhưng không còn sức mạnh thực tế.
Ngày 26 tháng 3 năm 1125, ông bị tướng Kim Hoàn Nhan Lâu Thất bắt tại Ứng Châu, rồi bị giải đến Kim Thượng Kinh và giáng làm Hải Tân vương. Nhà Liêu đến đây chấm dứt, sau 210 năm, trải qua chín đời hoàng đế.
Số phận cuối cùng của Liêu Thiên Tộ không được ghi thống nhất. Liêu sử chép ông mất vì bệnh năm 1128. Tuy nhiên sách “Đại Tống Tuyên Hòa di sự” kể rằng năm 1156, Kim Hải Lăng vương ép ông và Tống Khâm Tông cưỡi ngựa. Tống Khâm Tông yếu sức ngã ngựa chết, còn Liêu Thiên Tộ nhân cơ hội bỏ trốn thì bị kỵ binh Kim bắn chết. Dù theo cách nào, cái chết của ông cũng mang tính biểu tượng cho sự sụp đổ của một triều đại Khiết Đan hùng mạnh.
Sau khi Liêu Thiên Tộ bị bắt, một tướng trung thành là Gia Luật Đại Thạch chạy về phía Tây, lập nên nhà Tây Liêu, còn Gia Luật Thuần từng lập Bắc Liêu với danh nghĩa “cứu vãn gia tộc Gia Luật” nhưng cả hai chính quyền này chỉ là tàn dư trong bối cảnh Liêu đã hoàn toàn sụp đổ.
Vietbf @ Sưu tầm