Nhà văn Doãn Quốc Sỹ vừa qua đời lúc khoảng 10 giờ sáng ngày 14 Tháng Mười, tại bệnh viện West Anaheim Medical Center, thành phố Anaheim, California. Hưởng thọ 103 tuổi. Các con ông Doãn Quốc Sỹ xác nhận tin này.
Theo thông tin từ gia đình, Doãn Quốc Sỹ lấy tên thật làm bút hiệu. Ông sinh ngày 17 Tháng Hai, 1923 (nhằm ngày Mùng Hai Tết Quí Hợi) tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, Hà Nội.
Ông từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Khi nhận thấy bản chất Cộng Sản của tổ chức này, ông rời bỏ kháng chiến.
Vào năm 1946, ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, ái nữ của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu.
Năm 1954, hiệp ước Geneva chia đôi đất nước, ông di cư và mang gia đình vào miền Nam.
Doãn Quốc Sỹ có hai sự nghiệp song song; một sự nghiệp nhà văn, một sự nghiệp nhà giáo. Ông thường nói: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.”
Ông từng giảng dạy tại các trường Trung Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn, 1961-1962), Trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Ông từng là hiệu trưởng trường Trung Học Công Lập Hà Tiên (1960-1961) và từng đi tu nghiệp về sư phạm tại Hoa Kỳ (1966-1968).
Năm 1956, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo, và tạp chí văn nghệ cùng tên với Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng.
Ông có tác phẩm đăng trên các tạp chí Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ Thuật…
Sau 30 Tháng Tư, 1975, Doãn Quốc Sỹ cùng các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe… bị chế độ Cộng Sản bắt giam. Đến năm 1980, ông được thả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế.
Trong thời gian chờ đợi được con gái bảo lãnh đi nước ngoài, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển “Đi,” ký bút hiệu Hồ Khanh. Ông gửi tác phẩm này sang Pháp để xuất bản tại hải ngoại. Cũng vì lý do này, ông bị bắt lần thứ hai vào tháng Năm, 1984. Cùng bị giam với ông trong đợt này có ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương Hùng Cường, hai nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý Thụy Ý. Ông bị kết án mười năm tù và mãn hạn tù lần thứ hai vào Tháng Mười Một, 1991.
Năm 1995, ông được con trai là Doãn Quốc Thái bảo lãnh sang Houston, Hoa Kỳ.
Nhận định về ảnh hưởng của tác phẩm Doãn Quốc Sỹ, nhà thơ Trần Mộng Tú từng viết trên VOA: “Những người yêu chữ nghĩa văn chương ở Việt Nam thời 1954-1975 ở miền Nam Việt Nam không ai là không đọc những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ. Những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ cho người đọc thấy yêu quê hương, yêu gia đình, bạn hữu hơn mặc dù trong những dòng chữ đó không hề nhắc đến một bổn phận nào.”
Nhà thơ, nhà báo Đỗ Quý Toàn, nhận định với Người Việt: “Doãn Quốc Sỹ xuất hiện trong nhóm Sáng Tạo nhưng ông tạo một phong cách văn chương riêng biệt. Ông theo lối cổ truyền: Dùng văn chương chuyên chở đạo lý.”
Nhà thơ, hoạ sĩ thuộc thế hệ hậu bối, Đinh Trường Chinh, nhận định với Người Việt: “Doãn Quốc Sỹ là một trong những con chim đầu đàn của nhóm Sáng Tạo, nhóm đã làm thay đổi diện mạo văn học miền Nam sau 1954 và góp phần thay đổi cảm quan người đọc thời ấy ra khỏi mỹ cảm Tự Lực Văn Đoàn và văn thơ tiền chiến vốn đã hiện diện và ăn sâu vào người đọc thời ấy.”
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ ra đời, sinh hoạt và lớn lên ở miền Bắc nên có sự hiểu biết sâu sắc về chế độ Cộng Sản. Câu nói nổi tiếng của ông trong truyện ngắn Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều: “… Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn, ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.”
Là người gần gũi và có nhiều kỷ niệm với Doãn Quốc Sỹ và gia đình, nhà báo Đinh Quang Anh Thái kể với Người Việt: “Đọc tác phẩm của bác, mê văn bác từ nhỏ, nhưng mãi tới sau ngày 30 Tháng Tư 75, lúc bấy giờ tôi ngoài 30 tuổi, tôi mới có cơ duyên được hầu chuyện bác, tôi cảm ngay được nhân cách hiền hòa, kín đáo của bác. Bác chừng mực nhưng không xa cách. Bác đôn hậu nhưng không vồn vã. Đúng cung cách “Quân Tử Chi Giao Đạm Nhược Thủy”, tình cảm thâm trầm, lắng đọng vào bên trong, không sôi nổi, bộc lộ ra ngoài.”
Nhà báo Đinh Quang Anh Thái nói, với riêng ông: “Doãn Quốc Sỹ là mẫu người tượng trưng cho chính khí Việt.”
Sự thâm trầm, lắng đọng của Doãn Quốc Sỹ, trong cách nhìn của Đỗ Quý Toàn, “hầu như bẩm sinh đã mang sẵn một cái tâm kiên cố khó bị lay động vì hoàn cảnh. Ông có phước mang sẵn tấm lòng trống trơn, không cần phải cố gắng.”
Doãn Quốc Sỹ là nhà văn có sức sáng tác phong phú và đa dạng. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết Khu Rừng Lau, gồm 4 tập: Ba Sinh Hương Lửa (1962), Người Đàn Bà Bên Kia Vỹ Tuyến (1964), Tình Yêu Thánh Hóa (1965) và Những Ngã Sông (1966).
Nhiều truyện ngắn của ông được độc giả ghi nhớ lâu dài. Trong đó có thể kể đến: Gìn Vàng Giữ Ngọc, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều, Mình Lại Soi Mình, Đàm Thoại Độc Thoại, Dấu Chân Cát Xóa, Dốc Sương Mù…
Tổng số tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ là 25 cuốn.
Hiện chưa có thông tin tang lễ từ gia đình.