|
Vietbf.com Vườn rau Lộc Hưng ngậm ngùi tháng chạp. Trong hầu hết các sự kiện giữa nhà cầm quyền và người dân, tôi nhìn thấy đa số các học giả, luật gia, nhà báo, những người có tiếng nói chỉ lao vào mổ xẻ khi mọi thứ đã tan nát hết, khi mà một nỗi đau nào đó đã hiện hữu trước mặt họ.
Có phải các anh chị sợ mình sẽ bênh sai cho người dân và làm mất đi tiếng nói của mình? Tôi cũng nhiều lần sợ như vậy lắm, sợ mình chưa nắm kỹ mà nói rồi người khác cười cho.
Giữ mình ở thế trung lập và đưa tin chuẩn xác là tốt. Nhưng giá như mà các anh chị nghĩ nhiều hơn đến oan khuất và nỗi đau của những người thấp cổ bé họng. Tôi tin chắc các anh chị sẽ bước ra khỏi cái máy tính và chiếc điện thoại của mình để tìm đến với những người đang cần mình lên tiếng.
Trong vụ vườn rau Lộc Hưng, cũng như nhiều vụ việc khác, tôi thường thấy nhiều người luôn nói tại sao người dân không chịu trưng ra bằng chứng pháp lý mà chỉ nói miệng. Nhưng tôi không thấy được mấy người đến và hướng dẫn cho người dân làm điều đó.
Người dân, họ không hiểu biết, vì vậy họ cần luật gia tư vấn và cần nhà báo khai thác thông tin.
Vào cái đêm trước ngày bị san phẳng, người dân vườn rau mừng rỡ nói với nhau rằng, sau bao nhiêu ngày báo chí trốn tránh họ, cuối cùng cũng có một tờ báo là Sài Gòn Giải Phóng đến tìm họ và họ đã cho coi hết giấy tờ liên quan rồi.
Giấy tờ đó, đúng sai tôi chưa cần biết. Nhưng tôi thiết nghĩ là là một nhà báo hay là một luật gia trách nhiệm của họ phải là lên tiếng trước khi đau thương xảy đến với người dân và sự việc đi quá xa cách khắc phục.
Thế nhưng, hiếm có sự trợ giúp nào cho họ trong giờ phút họ cần nhất. Thậm chí tôi thấy có những luật gia, sau khi nhà người ta bị ủi sạch, đồ người ta bị cướp trắng, ngồi đó một chỗ, phân tích những giả định của luật rồi nói những người lên tiếng là cẩn thận bị hớ.
Tôi nhớ trong một buổi học luật, luật sư Lê Công Định từng nói với tôi rằng, khi anh ra nước ngoài học về luật anh phải bắt đầu học lại từ đầu vì tất cả những thứ luật anh học được ở Việt Nam đều trật hết. Ở nước văn minh, điều luật được xây dựng vì quyền lợi của nhân dân, lấy dân làm trọng điểm bảo vệ. Còn ở Việt Nam không phải thế, luật Việt Nam được xây dựng để quản lý, cai trị người dân. Cái khác nhau này làm nên sự oan sai và bất công ở Việt Nam ngày càng nhiều.
Hơn nữa, tôi tin chắc những ai học luật Việt Nam đều nhìn thấy rõ rằng nó chồng chéo và vì phạm Hiến pháp như thế nào. Chúng ta đang sống trong chế độ Cộng Sản, chế độ độc đảng toàn trị. Trong chế độ này, nếu ngồi đó để các anh chị moi móc về luật phân tích thì kiểu gì thì kiểu người dân cũng không bao giờ có thể đúng hoàn toàn.
Trong cái giờ phút mà người dân cần các anh chị nhất, các anh chị không có mặt. Trong lúc các anh chị chưa chịu đi tìm hiểu, tìm các bằng chứng, văn bản, giấy tờ người dân đưa ra, các anh chị ngồi giả định với nhau và đưa ra các ví dụ tận đâu đó, những giả thiết từ cái bộ óc của mình và khuyên nhau cẩn thận đừng nóng nảy lên tiếng.
Thật sự tôi thấy các anh chị đáng sợ hơn cả những kẻ ủi phá nhà dân ngày hôm trước.
Với những người ngồi phân tích giả định đúng sai là một loại cảm xúc, với những người có khả năng lên tiếng trước đó nhưng không, chỉ khóc thương sướt mướt, bênh vực người dân bằng những bài viết sau khi chuyện đã rồi tôi lại có một thứ cảm xúc khác nữa. Rất khó diễn tả cảm xúc khi tôi đọc các bài viết hay đầy lý lẽ của họ.
Trịnh Kim Tiến
10-1-2019
Khu vực vườn rau Lộc Hưng (Tân Bình, TP.HCM) là đất công từ xưa thuộc tỉnh Gia Định nhưng nằm cách Sài Gòn vài chục mét; với tấm bảng cắm trước Nghĩa địa Đô Thành (nay là Công viên văn hóa Lê Thị Riêng): “Đô thành Sài Gòn kính chào các bạn”.
Đó là khu vực ngoại ô Ông Tạ, điểm cuối cùng của khu Ông Tạ về hướng đông. Nếu khu Ông Tạ với những cư dân ban đầu người Hà Nội bỏ tiền mua đất (chứ không nhận nền chính quyền Sài Gòn cấp ở Xóm Mới – Gò Vấp, Bình An – Q.8…) toàn nhà 3, 4 tầng với các tiệm vàng san sát thì khu Lộc Hưng, dân miền núi Sơn Tây nghèo bị dạt ra ngoài; không vốn buôn bán như dân Ông Tạ đã tranh thủ trồng rau kiểu tranh thủ đất trống trong Trạm phát tín của chính quyền Sài Gòn. Dân Ông Tạ gọi là Nhà Dây thép gió vì trong đó chằng chịt những dây cáp níu giữ các cột phát sóng cao nghễu nghện.
Khu này nghèo rớt, nghèo từ hồi những cư dân Bắc di cư 1954 tới ở gần đó, quanh con hẻm mà giờ mang tên Chấn Hưng. Đám con nít Ông Tạ, trong đó có nhà thơ Đỗ Trung Quân và… tôi cũng ít tới đây vì lầy lội và mùi phân hôi thối suốt ngày đêm từ cái ao ủ phân tưới trong khu vực gần 5ha này. Thỉnh thoảng đi qua phải bịt mũi…
1973, 1974 gì đó, thương phế binh VNCH sau khi cắm dùi chiếm đất khu đường Hoàng Văn Thụ hiện nay, đoạn từ ngã tư Bày Hiền đến Lăng Cha Cả đã nhào vô khu Lộc Hưng cắm dùi nhưng bất thành vì chính quyền lúc đó ngăn chặn quyết liệt.
Thế là bà con khu này lại tiếp tục trồng rau và đi lễ ở một vài nhà thờ, đền thánh nói cho ngay khá khiêm tốn so với các nhà thơ, đền thánh Công giáo quanh ngã ba Ông Tạ. Gần đây, một số gia đình dựng nhà trọ cho thuê với giá rẻ bèo so với các khu khác. Tại sao? Con đường Chấn Hưng vô khu này như hẻm cụt; giá đất khá rẻ, trong khi đường Bắc Hải chạy song song cách đó vài chục mét to rộng, thông thoáng sang quận 10 giá cao ngút trời.
Đất công thì rõ ràng rồi. Thế nhưng cũng khu vườn rau, ở phía ngoài, mặt tiền đường Cách Mạng Tháng Tám thì hàng chục năm nay đã thành dãy nhà 3, 4 tầng từ lúc nào – không rõ đơn vị nào phân, hợp thức hóa? Nghĩa là đất công khu vườn rau đã thành đất tư từ lâu – sổ hồng, sổ đỏ đàng hoàng.
Còn phía trong khu vườn rau chưa ai có sổ gì, thế là 112 hộ nơi đây bổng thành nhưng người lấn chiếm đất công – dù họ đã ở, sinh sống nơi đây từ 1954, tức tới giờ người ở lâu nhất đã 65 năm – mấy thế hệ. Những người ở đầu tiên 1954 giờ chắc cũng về đất gần hết. Giờ toàn thế hệ sinh sau đẻ muộn, lớn lên với tiếng kinh cầu xứ nghèo và “vườn rau xanh ngắt một màu” thì họ cho rằng đây là nhà mình, đất cha mẹ, ông bà mình để lại cũng dễ hiểu.
Và càng dễ hiểu khi bà con ở đây tin chắc đây là đất của mình khi cho rằng mình đã đóng thuế 20 – 30 năm có đầy đủ giấy tờ pháp lý…; đất vườn rau sử dụng đất 1954…”. Bà con cho rằng theo Luật Đất đai 1993, phải cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà con. Nếu nhà nước thu hồi xây trường công lập thì phải bồi thường, bất kể người dân có giấy hay không có giấy – tức sống thực tế hơn nửa thế kỷ.
Thế là họ không chịu rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún của mình. Thế là sáng 8-1-2019, lực lượng cưỡng chế ra tay. Ngày 9-1, lãnh đạo UBND Q.Tân Bình, TP.HCM cho biết đã hoàn thành việc cưỡng chế tháo dỡ 112 trường hợp xây dựng nhà trái phép tại khu vườn rau, phường 6, quận Tân Bình. Ngày 10-1, các lực lượng Công an, dân phòng… vẫn dày đặc khu vực ra vô vườn rau Lộc Hưng…
Giờ đã tháng Chạp. Chỉ hơn 3 tuần nữa tết rồi. Đi ngang khu vườn rau Lộc Hưng những ngày này lúc nào cũng kẹt cứng do xe cộ bị chặn lại ở đầu đường Chấn Hưng.
Cư dân Lộc Hưng lẫn chính quyền ai đúng ai sai thế nào có lẽ chưa hết tranh luận. thậm chí dai dẳng. Thế nhưng, cái rõ nhất mà một đồng nghiệp người Đà Nẵng của tôi bảo: Ở Hà Nội, Đà Nẵng…, như Đà Nẵng chẳng hạn, “năm nào cũng vậy, cứ cận tết là có thông báo không được giải tỏa cưỡng chế trong dịp giáp tết. Mọi việc đều ra tết mới giải quyết…”.
Nghe sao mà ngậm ngùi. Tháng Chạp ở vườn rau Lộc Hưng – ngoại ô, xóm nghèo vòng ngoài khu Ông Tạ của chúng tôi suốt một thời tuổi thơ len lỏi vườn rau bắt dế đêm hè…
… Rạng sáng 10-1-2019, tôi đi xe ngang vườn rau. Gió đông cuối năm nay chỉ man mát nhưng sao nghe lạnh gì đâu. Tết tới nơi rồi mà buồn gì đâu! Lẽ nào vậy là hết những “vườn rau xanh ngắt một màu”…
Cù Mai Công
10-1-2019
Chính trong lúc này, lãnh đạo TPHCM cần tỏ rõ bản lĩnh chính trị của Sài Gòn, tạo ra không khí và môi trường đối thoại chân thành, trung thực giải quyết vụ cưỡng chế ở khu Lộc Hưng.
Điều cần phải làm trước tiên loại bỏ lối tư duy quản lí dán nhãn nhạy cảm lên các xung đột phát sinh trong thực tiễn. Lối tư duy này đang tạo điều kiện cho sự áp đặt tuỳ tiện con ngáo ộp “thế lực thù địch” như bóng ma duy trì nỗi sợ hãi trong xã hội. Nó ngăn chận mọi khả năng hợp tác và biến việc giải quyết thực tiễn luôn ở trong thế lựa chọn đối kháng.
Chính quyền cần chủ động thực hành quyền tiếp cận thông tin đáp ứng nhu cầu này của mọi người dân, không chỉ là cư dân TP. Cần đưa thông tin đến tận hiện trường xung đột kịp thời, rõ ràng và minh bạch. Những thông tin về tình trạng sử dụng đất, qui hoạch và hiện trang xây cất, sử dụng đất lấn chiếm, trái phép… được trình bày rõ ràng, được phổ biến tỉ mỉ, khách quan đã là một cách tước khí giới của “thế lực thù địch”. Nhà nước không nên tham gia chợ đen tin đồn mà phải cung cấp những thông tin xác tín, kiểm chứng được. Những kiểu nghi hoặc có bàn tay Việt Tân, thế lực thù địch… mà không cung cấp được bằng chứng cần được loại bỏ khỏi phong cách chính trị trong nền chính trị độc đảng như nước ta, ít nhất trong cư xử của công chức, viên chức nhà nước.
Trong quá trình làm cho dân biết, thông tin được trao đổi sẽ hình thành thông tin mới. Ứng xử kịp thời với những thông tin đó bằng một thái độ tôn trọng, cầu thị và khoa học phải là một đòi hỏi về đạo đức và năng lực cơ bản của mọi công chức, viên chức các cấp. Đó chính là xây dựng trách nhiệm giải trình của giới quản lí xã hội.
Cũng cần xoá bỏ lối phân biệt thông tin chính thống, thông tin mạng hay báo chí. Thông tin là thông tin, xuất hiện trong môi trường đại chúng đều cần được tôn trọng và xử lí kịp thời. Chứ nếu vẫn coi nhẹ, coi thường, coi rẻ thông tin mạng, thì vụ Lộc Hưng há chẳng phải chính mạng xã hội, từ những trang thông tin cá nhân tin cậy, đưa ra sớm những thông tin còn bị khuất lấp của “vườn rau” này, còn báo chí thì không biết ăn của ai, nhận lệnh nào mà im phăng phắc toàn diện, triệt để ở TP định thông minh này?
Làm như vậy, quá trình trao đổi thông tin sẽ tạo môi trường tự do hông tin, xoá bỏ nghi kị, thực hiện công khai, minh bạch. Mọi điều không có hại mà chỉ có lợi.
Trong điều kiện thực thi luật an ninh mạng, thời tiết có vẻ ủng hộ nên cũng lãng mạn tí tí. Nhưng dù lãng mạn đến đâu cũng không thể đồng tình với sự cai trị báo chí hiện nay.
Dặn lòng chiều biên cái vụ báo chí im re xâm lăng báo chí cách mạng cho nhẹ nhàng.
Tâm Chánh
10-1-2019
Từ nhiều thế kỷ trước, Locke đã nêu quan điểm rằng, mục tiêu tồn tại của chính quyền không gì khác hơn là để bảo vệ quyền sở hữu của người dân và nếu trong một xã hội mà quyền sở hữu được tự nhiên tôn trọng, chính quyền sẽ không có việc gì để làm. Nếu chính quyền đụng đến quyền sở hữu đó của người dân tức là chính quyền đang đi ngược lại sứ mệnh tồn tại của nó và do đó cần bị triệt tiêu.
Quyền sở hữu, theo Locke, xuất hiện trước chính quyền và là cơ sở tạo nên tính chính danh của chính quyền. Chính quyền vì vậy không có quyền tuyên bố cái gì thuộc về ai như một cách ban bố của cải của xã hội mà chỉ được phép là người bảo vệ cho quyền sở hữu đó. Không khó để nhận ra rằng những lập luận này chính là nền tảng cho sự hình thành hệ thống chủ nghĩa tư bản cổ xưa.
Như một sự tất yếu, định đề của Locke vấp phải phản đề, đó chính là các luồng tư tưởng, học thuyết hướng tới sự bình đẳng. Chủ nghĩa Marx trên thực tế là một học thuyết đấu tranh cho bình đẳng, công bằng xã hội. Trái với Locke, Marx tin rằng chính quyền phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào việc tái phân phối lại của cải của xã hội nhằm triệt tiêu sự bất bình đẳng vốn dĩ giữa người với người.
Chính vì thế, trong một chính quyền lý tưởng mà Marx hình dung, quyền tư hữu cần được thay thế bằng sở hữu công cộng để ở đó, chính quyền như một hiện thân khách quan và không có lợi ích sẽ đứng ra tái phân phối nhằm đảm bảo sự bình đẳng. Khái niệm “sở hữu toàn dân” từ đó mà ra đời và được các Nhà nước có Đảng Cộng sản lãnh đạo sử dụng như sự bảo đảm tính bình đẳng của xã hội đó. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng chính quyền lý tưởng của Marx đòi hỏi một xã hội lý tưởng để những hệ quả xấu của “sở hữu toàn dân” không có dịp hình thành.
Tiếc thay, Việt Nam không phải là một xã hội lý tưởng. Một xã hội lý tưởng sẽ không có những Đồng Tâm, Thủ Thiêm, Lộc Hưng.
Trên thực tế, chúng ta không thiếu những giải pháp để giải quyết vấn đề tiến thoái lưỡng nan này. Các mô hình thay thế xuất phát từ việc chính quyền góp nhặt ra điểm tốt và chưa tốt của các chế định rồi từ đó hoàn thiện, chứ không nhất mực đi theo một mô hình nào đó một cách lý tưởng.
Họ sẽ bắt đầu bằng việc khẳng định rằng quyền sở hữu vốn dĩ đại diện cho động lực phát triển kinh tế của một xã hội, và của cải được tạo ra xuất phát từ chính khái niệm đó. Vì vậy dứt khoát không được bỏ đi hay làm méo mó quyền sở hữu nếu muốn một đất nước phát triển.
Ngược lại, sự bình đẳng cũng là thứ cần hướng đến, nhưng nếu xã hội chưa đủ lý tưởng để chế độ “sở hữu toàn dân” không bị thao túng thì cũng chớ cố đấm ăn xôi làm gì mà có thể thay thế nó bằng những công cụ khác mà Nhà nước có (ví dụ, hệ thống thuế, phúc lợi).
Mỗi chế định tồn tại đều có ý nghĩa của nó. Những kẻ vụ lợi thì sẽ không ngần ngại đánh tráo khái niệm miễn là đạt được mục đích. Không thể có một chính quyền tốt nếu ta quan điểm rằng sở hữu toàn dân là công cụ giúp Nhà nước dễ huy động nguồn lực trong xã hội và phân phối lại cho các đại gia nhằm phát triển các chỉ số kinh tế mà bỏ qua bản chất tạo nên sự bình đẳng của nó. Chính từ sự đánh tráo khái niệm đó mà “Sở hữu toàn dân” vốn dĩ là một khái niệm của sự bình đẳng cuối cùng lại chỉ mang đến sự bất bình đẳng tràn lan.
Quay về với công nhận quyền sở hữu đất đai chính là bước đi đầu tiên đề sửa chữa cho một trong những sai lầm cuối cùng của sự duy ý chí sau 30/4/1975.
Như cách thầy Phạm Duy Nghĩa đã nói gần hơn ba năm trước: nếu chúng ta chỉ rõ cái gì thuộc về ai thì đất nước đã khác rồi.
Lê Nguyễn Duy Hậu
10-1-2019
Sự kiện nổi bật nhất trong những ngày qua là khu Vườn Rau có diện tích khoảng 5 hécta của bà con dân oan Lộc Hưng, đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình đã bị nhà cầm quyền Tp.HCM bình địa thành đống tro tàn, tường gạch đổ nát, sắt vụn ngổn ngang chỉ trong vòng hai ngày vào ngày 04 và 08.01.2019 mà không tuân theo thủ tục pháp luật quy định, vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và Pháp luật VN.
Nguồn gốc
Đất Vườn Rau thuộc quyền quản lý và sở hữu của bà con từ những năm 1954 do Giáo hội Công Giáo cấp, được bà con sử dụng đất ổn định và liên tục cho đến hôm nay. Điều này đã được Linh mục Huỳnh Công Minh, Tổng Đại diện của Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Giáo phận Sài Gòn, với tư cách chủ đất khẳng định với các cơ quan có thẩm quyền vào năm 2007. Đất của bà con Vườn Rau sử dụng ổn định và lâu dài (từ năm 1954 cho đến nay, gần 65 năm) với mục đích canh tác thể hiện qua các biên lai nghĩa vụ (1982 và 1983), phiếu thu đóng góp nghĩa vụ (1983), bản đồ diện tích đất Vườn Rau… Và Giáo hội Công Giáo và bà con chưa bao giờ từ bỏ quyền sử dụng đất Vườn Rau, cũng như chưa bao giờ bà con ký bất kỳ một văn bản nào của các cấp có thẩm quyền để tước bỏ quyền sử dụng đất của mình.
Về pháp lý
Đất của bà con Vườn Rau Lộc Hưng chưa bao giờ thuộc quyền quản lý và sở hữu của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN, chính nhà cầm quyền này đã “ăn cướp” của người nông dân nghèo một cách trắng trợn và ngồi xổm trên pháp luật. Bởi lẽ:
Thứ nhất: Vào thời điểm trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất Vườn Rau thuộc quyền quản lý và sở hữu của bà con Lộc Hưng do Giáo Hội Công Giáo cấp vào những năm 1954.
Thứ hai: Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hội đồng Chính phủ lâm thời miền Nam đã ra các văn bản khẳng định “giải quyết tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân phải trên cơ sở nguyên canh là chính”, “Nhà nước chỉ quốc hữu hoá các đồn điền và ruộng đất của các tư sản nước ngoài”…; và ra các văn bản chỉ thị “đăng ký, thống kê sử dụng đất” mà sau này được xem là các giấy tờ hợp pháp… Cụ thể:
1) Quyết định số 31/QĐ-76 về việc quản lý và sử dụng ruộng đất của Hội đồng Chính phủ lâm thời miền Nam ngày 17/6/1976; và Chỉ thị số 235-CT/TW ngày 20/9/1976 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề ruộng đất ở miền Nam. Theo đó, quy định giải quyết tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân phải trên cơ sở nguyên canh là chính.
2) Quyết định số 188-CP ngày 25/9/1976 của Hội đồng Chính phủ về chính sách xoá bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân, phong kiến ở miền Nam Việt Nam. Theo đó, Nhà nước quốc hữu hoá các đồn điền và ruộng đất của các tư sản nước ngoài.
3) Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước. Nội dung cơ bản có Thống kê, đăng ký đất và UBND xã phải kiểm tra…;
4) Chỉ thị số 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước. Trong đó có nêu: “… đăng ký thống kê sử dụng đất trên toàn bộ lãnh thổ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam theo từng đơn vị hành chính trong từng cơ quan, tổ chức và cá nhân sử dụng đất. Các cơ quan, tổ chức và cá nhân sử dụng đất có nhiệm vụ chấp hành đúng mọi thủ tục về đăng ký ruộng đất theo quy định của Tổng cục Quản lý ruộng đất”.
Chính vì lẽ vậy sau năm 1975, bà con Vườn Rau đã “thống kê”, “đăng ký”, “đo đạc” ruộng đất với các cơ quan có thẩm quyền trong “công tác quản lý ruộng đất” của nhà nước thông qua các biên lai “thu thuế” nên có đầy đủ cơ sở xác lập QSD đất.
Xin được nói thêm, tại điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và Khoản 16, Khoản 17 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP: Qui định các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của chính phủ gồm:
Một trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện đăng ký ruộng đất theo chỉ thị số 299-TTg ngày 10 tháng 11 năm 1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước do cơ quan nhà nước đang quản lý, bao gồm:
a- Biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng ký ruộng đất cấp xã xác định người đang sử dụng đất là hợp pháp;
b- Bản tổng hợp các trường hợp sử dụng đất hợp pháp do Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Hội đồng đăng ký ruộng đất cấp xã hoặc cơ quan quản lý đất đai cấp huyện, cấp tỉnh lập;
c- Đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất đối với trường hợp không có giấy tờ quy định tại điểm a và b khoản này.
Trường hợp trong đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất có sự khác nhau giữa thời điểm làm đơn và thời điểm xác nhận thì thời điểm xác lập đơn được tính theo thời điểm sớm nhất ghi trong đơn;
d- Giấy tờ về việc chứng nhận đã đăng ký quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện hoặc cấp tỉnh cấp cho người sử dụng đất;
đ- Giấy tờ về việc kê khai đăng ký nhà cửa được Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện hoặc cấp tỉnh xác nhận mà trong đó có ghi diện tích đất có nhà ở;
e- Giấy tờ của đơn vị quốc phòng giao đất cho cán bộ, chiến sĩ làm nhà ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo chỉ thị số 282/CT_QP ngày 11 tháng 7 năm 1991 của Bộ trưởng Bộ quốc phòng mà việc giao đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất làm nhà ở của cán bộ, chiến sĩ trong quy hoạch đất quốc phòng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Một điểm cần nhấn mạnh Hiến pháp 1980 đầu tiên của Nước CHXHCNVN quy định tại Điều 20: “…Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật…” Và Luật Đất Đai đầu tiên được ban hành và có hiệu lực vào năm 1987 quy định: “…Người đang sử dụng đất đai hợp pháp được tiếp tục sử dụng theo quy định của Luật này…”
Chính vì vậy, bà con Vườn Rau Lộc Hưng canh tác lâu dài và ổn định trên khoảng 5 hecta đất ngụ tại đường Chấn Hưng, phường 6, quận Tân Bình “đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình” và “người đang sử dụng đất đai hợp pháp được tiếp tục sử dụng” mà không cần đến cái gọi là “sổ đỏ”. Bà con Vườn Rau có đầy đủ căn cứ pháp lý để được nhà cầm quyền “công nhận quyền sử dụng đất” cho các hộ dân sinh sống lâu đời trên mảnh đất cha ông của mình đã để lại. Vụ việc nhà cầm quyền cưỡng chế đất của bà con trong các ngày 04 và 08.01.2019 đã phá hoại tài sản trên đất của bà con là hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định của Luật Đất Đai và đi ngược lại với chủ trương của Hiến pháp năm 1980.
Tin mừng cho người nghèo
11-1-2019
|
|